Luận văn Phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng

pdf 122 trang vuhoa 25/08/2022 5540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phong_chong_toi_pham_trong_hoat_dong_ngan_hang.pdf

Nội dung text: Luận văn Phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng

  1. Đại học quốc gia Hà nội Khoa Luật  Trần Thị Hằng Phòng chống tội phạm trong Hoạt động ngân hàng Chuyên ngành: luật hình sự Mã số 60 38 40 Luận văn thạc sỹ luật học Ng•ời h•ớng dẫn: PGS.TSKH. Lê Cảm Hà Nội - 2006
  2. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Ch•ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về tội phạm trong hoạt động ngân hàng. 4 1.1- Tội phạm trong hoạt động ngân hàng 4 1.2- Chủ thể của tội phạm trong hoạt động ngân hàng 12 1.3- Các nhân tố tác động đến vấn đề tội phạm trong ngân hàng 23 1.3.1-Các nhân tố chủ quan: 23 1.3.2- Các nhân tố khách quan. 24 1.3.2.1- Hệ quả của trình độ quản lý lạc hậu, pháp luật ch•a hoàn thiện 24 1.3.2.2- Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đan xen giữa cái mới và cái cũ. 24 1.3.2.3- ảnh h•ởng mặt trái của cơ chế thị tr•ờng. 24 1.3.2.4- ảnh h•ởng của tập quán văn hoá. 25 1.4- Một số văn bản về phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng 25 Ch•ơng 2:Thực trạng tình hình tội phạm trong hoạt động ngân hàng từ năm 2000-2006 29 2.1-Tình hình tội phạm ngân hàng qua các năm 29 2.1.1- Sự hình thành hệ thống ngân hàng ở Việt Nam 29 2.1.2-Khái quát tình hình tội phạm trong hoạt động ngân hàng 30 2.2- Thực trạng về các sai phạm trong hoạt động ngân hàng 32 2.2.1- Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng 41 2.2.1.1- Cho vay không có đảm bảo, trái quy định của pháp luật 42 2.2.1.2- Cho vay v•ợt giới hạn quy định 46 2.2.1.3- Không kiểm soát chặt chẽ tr•ớc, trong và sau khi cho vay 47 2.2.1.4- Không chuyển nợ quá hạn kịp thời, gia hạn nợ, giãn nợ sai quy định 47 2.2.1.5- Chiếm dụng vốn tín dụng của ngân hàng, tự đặt mức thu phí và lệ phí 47 2.2.1.6- Về bảo lãnh 48 2.3-Các sai phạm khác 48 2.3.1- Thu chi tài chính 48 2.3.2-Về kinh doanh ngoại tệ và quản lý ngoại hối 49 2.3.3-Về an toàn kho quỹ 51 2.3.4-Sử dụng công nghệ cao 51 2.4- Tính chất của các sai phạm trong hoạt động ngân hàng 52 2.5- Những kết quả đã đạt đ•ợc 54 2.5.1- Tình hình xử lý vi phạm: 54 2.5.2- Những tồn tại 56 2.6- Nguyên nhân chủ yếu 59 2.6.1- Nguyên nhân khách quan 59 2.6.1.1- Do cơ chế . quy trình, quy định nghiệp vụ 59 2.6.1.2- Về quản trị, điều hành 60 2.6.2- Nguyên nhân chủ quan 62 2.6.2.1- Về năng lực, phẩm chất cán bộ 62 2.6.2.2- Về kiểm tra, kiểm soát nội bộ 63 2.6.3- Đối chiếu các sai phạm trong hoạt động ngân hàng với các quy định của Bộ Luật hình sự 65 hiện hành Ch•ơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị phòng chống tội phạm trong lĩnh vực 67 ngân hàng 3.1- Các nguyên tắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm 67 3.2- Những giải pháp nhằm phòng chống tội phạm ngân hàng 67
  3. 3.2.1- Phòng, chống tội phạm từ chính nội bộ ngân hàng: 68 3.2.1.1- Công tác cán bộ: 68 3.2.1.2- Cơ chế tiền l•ơng 71 3.2.1.3-Việc thực hiện quy trình nghiệp vụ. 72 3.2.1.4- Kiểm soát nội bộ ngân hàng. 77 3.3- Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân 77 hàng. 3.3.1- Kiến nghị hoàn thiện cơ chế quản lý nhà n•ớc, quản lý xã hội, quản lý kinh tế. 78 3.3.2- Kiến nghị hoàn thiện cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. 79 3.3.3- Kiến nghị hoàn thiện mụi tr•ờng pháp lý để phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực ngân 80 hàng. 3.3.4-Định h•ớng việc giám sát của hoạt động Thanh tra trên lĩnh vực ngân hàng trong thời gian 83 tới. 3.3.5- Kiến nghị hoàn thiện việc đổi mới thanh tra ngân hàng trong lĩnh vực ngân hàng theo h•ớng 84 hội nhập kinh tế. 3.3.6- Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng: 85 Kết luận 87 5
  4. Danh mục bảng biểu Bảng 1: Thống kê số vụ thanh tra trực tiếp tại cơ sở của Thanh tra Ngân hàng Nhà n•ớc qua các năm 2000-2006 Bảng 2: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2000 Bảng 3: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2001 Bảng 4: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2002 Bảng 5: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2003 Bảng 6: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2004 Bảng 7: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2005 Bảng 8: Số liệu báo cáo của thanh tra ngân hàng Nhà n•ớc năm 2006
  5. Danh mục Các từ viết tắt 1- BLHS: Bộ luật hình sự 2- CTTP: Cấu thành tội phạm 3- DN: doanh nghiệp 4- ĐH KTQD: Đại học Kinh tế quốc dân 5- NHTM: Ngân hàng th•ơng mại 6- NHLD &NHNN: Ngân hàng liên doanh và ngân hàng n•ớc ngoài 7- NHNNo: Ngân hàng Nông nghiệp 8- NHCT: Ngân hàng Công th•ơng 9- QTDND: Quỹ tín dụng nhân dân 10- USD: đô la Mỹ 11- TCTD: Tổ chức tín dụng 12- TCTDQD: Tổ chức tín dụng quốc doanh 13- TCTDCP: Tổ chức tín dụng cổ phần 14- TSĐB: Tài sản đảm bảo 15- VPĐD n•ớc ngoài: Văn phòng đại diện n•ớc ngoài 16- VCB: Ngân hàng Ngoại th•ơng 17- VNĐ: Việt nam đồng
  6. Lời nói đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng với những tính năng •u việt cùng các sản phẩm, dịch vụ đ•a đến cho khách hàng đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới của đất n•ớc trên lĩnh vực tài chính. Nh•ng ng•ợc lại cũng có những tác động tiêu cực tới môi tr•ờng kinh tế, nổi bật hơn cả là vấn đề tội phạm trong hoạt động ngân hàng. Tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng bao giờ cũng đ•ợc thực hiện bởi những ng•ời có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định và hành vi phạm tội đ•ợc thực hiện một cách cố ý hay vô ý, xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quy định về quản lý tài chính, xâm phạm các quy định về quản lý trật tự kinh tế xã hội, gây ảnh h•ởng nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại tới các lợi ích đ•ợc luật hình sự bảo vệ. Về mặt lý thuyết , vấn đề tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng rất khó có khả năng phát sinh vì việc chi tiền ra hay thu tiền vào đều phải tuân thủ một hệ thống sổ sách kế toán cùng các quy định về tín dụng hết sức chặt chẽ. Nh•ng trên thực tế, các vụ việc liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng đều là các vụ việc lớn với số tiền thất thoát hàng nghìn tỉ đồng và đã có không ít tr•ờng hợp các cán bộ ngân hàng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham ô tài sản của Nhà n•ớc, của nhân dân, các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm về chức vụ. Điều này đồng nghĩa với việc vấn đề tội phạm trong ngân hàng ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và nghiêm trọng. Là một sinh viên theo học luật- chuyên ngành t• pháp hình sự và đang công tác tại ngân hàng tôi luôn muốn nghiên cứu một cách có hệ thống về các loại tội phạm trong hoạt động ngân hàng, để trên cơ sở đó đ•a ra đ•ợc cơ chế phòng ngừa và có các biện pháp ngăn chặn những loại hình tội phạm này để hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển toàn diện, an toàn, hiệu quả góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam với thế giới. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa đ•ợc lý luận về khái niệm tội phạm, nội dung, cơ sở pháp lý phải chịu trách nhiệm t•ơng ứng với hành vi, các biện pháp phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng. - Phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm ngân hàng qua các năm để thấy rõ những thiệt hại thực tế do các vi phạm này gây nên. 3. Đối t•ợng và phạm vi nghiên cứu a. Đối t•ợng nghiên cứu là vấn đề tội phạm phát sinh từ các nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng. b. Phạm vi nghiên cứu là tình hình phạm tội trong hoạt động ngân hàng từ năm 2000-2006 qua Báo cáo của Thanh tra Ngân hàng Nhà n•ớc. 4. Ph•ơng pháp nghiên cứu Luận văn đ•ợc nghiên cứu dựa trên ph•ơng pháp thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp. Dựa trên các ph•ơng pháp nghiên cứu này mà các vấn đề nêu ra đ•ợc xem xét trên nhiều bình diện khác nhau để tìm ra những giải pháp phù hợp cho hoạt động của các ngân hàng th•ơng mại Việt Nam trong giai đoạn mới. 5. Những đóng góp khoa học của luận văn: Về ph•ơng diện lý luận: luận văn đã góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về tội phạm trong hoạt động ngân hàng với các tội phạm kinh tế khác. Làm rõ đ•ợc khái niệm, các hình thức và cơ chế điều tiết của pháp luật đối với vấn đề tội phạm trong hoạt động ngân hàng. Về ph•ơng diện thực tiễn: luận văn có một số đánh giá khách quan và khoa học về thực trạng các quy định pháp luật đối với vấn đề phạm tội trong hoạt động ngân hàng, đồng thời đóng góp đ•ợc một số ý kiến cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội phạm trong hoạt động ngân hàng. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 ch•ơng: Ch•ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về tội phạm trong hoạt động ngân hàng Ch•ơng 2: Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng Ch•ơng 3: Một số kiến nghị & giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống các tội phạm trong hoạt động ngân hàng. 6
  7. Ch•ơng 1 MộT Số VấN Đề Lý LUậN CHUNG Về TộI PHạM TRONG HOạT ĐộNG NGÂN HàNG 1.1- TộI PHạM TRONG HOạT ĐộNG NGÂN HàNG “Ba phát minh vĩ đại nhất của lịch sử loài người là lửa, bánh xe và ngân hàng”. Will Roger” 1.1.1- Lý luận chung về tội phạm Nhà ngân hàng theo quan điểm của Mác “Theo nghĩa chung, nghề chủ ngân hàng theo quan điểm đó là tập trung vào trong tay mình những khối l•ợng quan trọng của t• bản- tiền tệ giành để cho vay, đến mức rằng đó là những chủ ngân hàng đáng lẽ là ng•ời cho vay cá biệt thì đối đầu với t• cách là những đại diện cho tất cả những người cho vay tiền”1. Nh• vậy, theo quan điểm hiện đại và theo quan điểm của Mác thì ngân hàng và các nhà quản lý ngân hàng là những ng•ời nắm trong tay sức mạnh của t• bản- tiền tệ, nói cách khác nguồn vốn nằm trong tay ngân hàng quyết định sự phát triển kinh tế của một quốc gia, vì không một tổ chức tài chính nào có sức mạnh luân chuyển vốn tiền tệ nhanh và khối l•ợng lớn nh• ngân hàng, do đó ảnh h•ởng của hoạt động ngân hàng tới xã hội là vô cùng to lớn. Vì ở bất cứ nền kinh tế nào thì vai trò của tiền vốn cũng hết sức quan trọng, nếu đ•ợc cấp vốn kịp thời thì các doanh nghiệp và cá nhân có thể chớp đ•ợc thời cơ kinh doanh, tạo đ•ợc thu nhập cho bản thân và tạo đà phát triển cho nền kinh tế và ng•ợc lại sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, làm tăng tỉ lệ thất nghiệp, đói nghèo và các tệ nạn xã hội khác. 1Các Mác- T• bản, bản phổ thông do Giuliên Boocsát biên soạn, NXB KHXH, Hà Nội 1973, tr 642 4
  8. Song cũng giống nh• bất kỳ hoạt động kinh tế nào, hoạt động ngân hàng nằm trong tay những con ng•ời cụ thể, mà giữa con ng•ời với con ng•ời, với các tổ chức luôn có mối quan hệ với nhau và ràng buộc nhau. Theo quan điểm của kinh tế học cổ điển mà đại diện là Adam Smith thì “Loài người là một liên minh trao đổi. Thiên h•ớng trao đổi là đặc tính vốn có của con ng•ời. Nó tồn tại vĩnh viễn, cũng nh• loài ng•ời tồn tại vĩnh viễn. Trong khi trao đổi sản phẩm và lao động cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì con ng•ời bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Mỗi ng•ời chỉ biết t• lợi và chỉ thấy t• lợi làm theo t• lợi”2. Nh• vậy, việc mang lại lợi ích cho bản thân luôn là mục đích và là động cơ thúc đẩy con ng•ời tham gia vào các giao dịch, nhất là trong kinh doanh, nếu không vì h•ớng tới mục tiêu lợi nhuận để cuộc sống của bản thân đ•ợc đầy đủ hơn thì không bao giờ xã hội có thể phát triển, nếu không có lợi thì sẽ chẳng bao giờ con ng•ời bỏ thời gian, công sức đầu t• trí tuệ để tìm kiếm cơ hội kinh doanh, phát minh, sáng chế đ•a ra thị tr•ờng những sản phẩm dịch vụ mới, thỏa mãn tối đa nhu cầu của con ng•ời. Về ph•ơng diện này thì việc h•ớng tới lợi ích và làm theo lợi ích đ•ợc hiểu theo nghĩa tích cực. Hơn thế nữa, tr•ớc xu thế hội nhập, bùng nổ tăng tr•ởng kinh tế thì đã và đang xuất hiện một xu h•ớng trong công việc kinh doanh “được làm những gì mà pháp luật không cấm”, tôn chỉ này hoàn toàn không có gì sai vì pháp luật bao giờ cũng xét xử và định tội danh trên cơ sở các quy định của pháp luật, nếu hành vi đó không quy định trong Bộ luật hình sự thì ng•ời thực hiện hành vi đó không hề có tội, trong nền kinh tế thị tr•ờng việc năng động, sáng tạo luôn là tiền đề để thành công. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định của chủ nghĩa Mác Lênin về tính tất yếu, tính quy định tr•ớc xử sự của con ng•ời nh•ng không phủ nhận tính tự do. Mỗi cá nhân con ng•ời trong hoạt động, trong kinh doanh dù bị quy định bởi tính tất yếu nh•ng việc ng•ời đó quyết định hành động theo h•ớng nào lại là kết quả của quá trình nhận thức và 2 Các học thuyết kinh tế. Lịch sử hình thành và phát triển, ĐH KTQD, NXB Thống kê, Hà Nội 1995, tr43 5
  9. vận dụng các quy luật khách quan để đáp ứng đ•ợc các nhu cầu tối thiểu của bản thân và các lợi ích mà mình mong muốn, vì vậy trong cùng một tình huống tại cùng một hoàn cảnh thì vẫn có nhiều cách lựa chọn hành động khác nhau hoặc là xử sự không trái pháp luật hoặc xử sự trái pháp luật. Chính điều này đã tạo nên ranh giới giữa ng•ời phạm tội và vô tội. Con ng•ời với khả năng nhận biết ở trình độ t• duy cao đã góp phần cải tạo thế giới trên cơ sở ổn định, bền vững và phát triển đã đề ra các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung nh• tính phải chịu trách nhiệm đối với hành vi. Mỗi con ng•ời là một cá thể độc lập, hoàn toàn đ•ợc tự chủ trong suy nghĩ, trong việc làm bằng hành động hoặc không hành động, đ•ợc h•ởng các lợi ích từ chính hoạt động đó đem lại, đồng thời không tránh khỏi trách nhiệm đối thiệt hại do hành vi đó gây ra. Trong kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng tr•ớc khi hành động hay đặt bút ký vào bất kỳ chứng từ nào thì những ng•ời có trách nhiệm luôn có ý thức và sự cẩn trọng cần thiết đối với chữ ký của mình vì chữ ký đó gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm đối với tài sản do mình quản lý, vì vậy phải luôn “có sự đối chiếu động cơ của mình với toàn bộ tính chất phức tạp của hành vi, dự tính hậu quả của những hành động đó và trong khi đó vẫn tuân theo những tiêu chuẩn hành vi xã hội, thông qua kinh nghiệm của bản thân”3. Nh•ng thực tế với muôn hình muôn vẻ đã chứng minh rằng, không phải tất cả mọi ng•ời đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ mà xã hội và luật pháp yêu cầu. Bao giờ cũng có hai xử sự trái ng•ợc nhau, có ng•ời xử sự đúng pháp luật, nh•ng cũng có ng•ời đã vì lợi ích tr•ớc mắt đã lựa chọn xử sự đi ng•ợc lại với lợi ích của xã hội và l•ơng tâm nghề nghiệp và việc những ng•ời thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm là điều không tránh khỏi. Nhà n•ớc và xã hội đảm bảo cho mọi công dân đ•ợc h•ởng các quyền và lợi ích nh• nhau. Trong khả năng của mình Nhà n•ớc đã luôn tạo điều kiện 3 Côvaliốp. Tâm lý học cá nhân. NXB Giá dục. Hà Nội, 1997, tr50 6
  10. để mọi cá nhân tổ chức đ•ợc tự do thể hiện năng lực kinh doanh, năng lực sáng tạo thì Nhà n•ớc cũng buộc mọi cá nhân, tổ chức khi thể hiện khả năng kinh doanh đều phải có nghĩa vụ tuân thủ các thiết chế mà Nhà n•ớc quy định, nếu vi phạm và làm trái các quy định thì phải bị lên án đồng thời phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm đó. Nhà n•ớc khuyến khích việc phát triển kinh tế, coi trọng lợi ích của cá nhân tổ chức nh•ng phải trong khuôn khổ pháp luật, tự do cạnh tranh và mở cửa thị tr•ờng không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, làm thế nào cũng đ•ợc không tuân thủ bất kỳ một quy luật nào. Tự do kinh doanh hay tự do thực hiện các giao dịch của bản thân luôn phải trên cơ sở nhận thức đ•ợc tính tất yếu, nhận thức đ•ợc các quy luật khách quan. Xã hội có các quy luật của xã hội, trong hoạt động kinh tế cũng vậy, mọi cơ hội hay thành công sẽ chỉ đến khi nó đ•ợc vận hành tuân thủ các quy luật kinh tế mà thị tr•ờng đã đề ra. Thêm vào đó để có đ•ợc sự phát triển kinh tế và ổn định thì luôn cần có sự điều tiết của Nhà n•ớc ở tầm vĩ mô, vì vậy không có tr•ờng hợp ngoại lệ nào, không có sự •u tiên nào đối với các hành vi đi ng•ợc lại lợi ích của sự nghiệp phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội. Mọi khả năng kinh doanh, cũng nh• năng lực của mỗi cá nhân chỉ có thể phát huy tối đa trong một môi tr•ờng pháp lý, môi tr•ờng xã hội ổn định. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân tổ chức, Nhà n•ớc đã quy định những hành vi bất hợp pháp, đ•ợc luật hình sự ghi d•ới tên gọi chung là tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội cao hơn các hành vi vi phạm khác, việc ghi nhận các hành vi này ngoài luật hình sự đã không thể hiện đ•ợc tính răn đe, phòng ngừa có hiệu quả buộc nhà làm luật phải ghi nhận trong Bộ luật hình sự với hình thức chế tài và tính chịu trách nhiệm cao hơn, mang tính trừng phạt rõ nét, tăng c•ờng biện pháp răn đe để mọi cá nhân buộc phải cân nhắc kỹ càng tr•ớc khi có hành vi vi phạm các điều luật đ•ợc quy định. Một ng•ời bị coi là tội phạm khi và chỉ khi thoả mãn bốn yếu tố CTTP sau: 7
  11. Về khách thể của tội phạm: đó phải là hành vi xử sự xâm hại tới các quan hệ xã hội đ•ợc luật hình sự bảo vệ. Do vậy, khi đề cập đến tội phạm thì tr•ớc tiên cần phải xác định hành vi xử sự trái pháp luật đó có phải là khách thể của tội phạm hay không. Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, ph•ơng tiện và hoàn cảnh phạm tội. . . . Thông qua biểu hiện bên ngoài của mặt khách quan của tội phạm có thể đánh giá đ•ợc tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đó. Chủ thể của tội phạm: là ng•ời thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực trách n hiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định mà pháp luật hình sự quy định. Cuối cùng, mặt chủ quan của tội phạm: đây là một phạm trù thuộc ý thức của ng•ời phạm tội, là mặt bên trong của tội phạm, nó gắn liền với mặt khách quan của tội phạm, tạo thành một thể thống nhất. Tuy nhiên ý thức của con ng•ời vẫn là cái chủ yếu, cái quyết định hành vi của cá nhân. Hoạt động tâm lý của con ng•ời luôn gắn với những biểu hiện bên ngoài nh• hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm. Hoạt động phạm tội là một dạng hoạt động đặc biệt của con ng•ời nh•ng cũng không thể khác đ•ợc những quy luật chung và đ•ợc biểu hiện ra bên ngoài d•ới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. 1.1.2- Tội phạm trong hoạt động ngân hàng Tội phạm kinh tế nói chung và tội phạm ngân hàng nói riêng đều có nét t•ơng đồng đó là đều thỏa mãn đầy đủ bốn yếu tố của CTTP, xâm phạm hoặc đe dọa gây thiệt hại tới các lợi ích đ•ợc luật hình sự bảo vệ, đều do những chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự, đều xuất phát từ nhu cầu lợi ích của cá nhân. Hành vi này đ•ợc một số cá nhân hoặc một số ng•ời có chức vụ quyền hạn thực hiện. Hàng năm loại hình tội phạm này đã ảnh h•ởng trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam gây thiệt hại hàng tỉ đồng, chỉ tính riêng trên lĩnh vực 8
  12. ngân hàng và tổ chức tín dụng đứng vị trí thứ ba trong chín hạng mụcđ•ợc xếp hạng, chịu đứng sau lĩnh vực đầu t• xây dựng cơ bản và quản lý đất đai4. Nh• vậy, với t• cách là một phần quan trọng trong các tội phạm kinh tế, hoạt động ngân hàng đã có tên trong danh sách những lĩnh vực có tỉ lệ tham nhũng lớn, đồng thời là ngành có tỉ lệ dẫn đầu về lãng phí khi đầu t• vốn cho các dự án lớn không mang lại hiệu quả kinh tế. Tội phạm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn đ•ợc sự quan tâm của d• luận xã hội là do ngành có những đặc thù riêng mà không một ngành kinh tế nào có thể có đ•ợc đã tạo ra tính khác biệt với các tội phạm kinh tế khác. Sự khác biệt đầu tiên là hàng hóa dùng trong kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ- hàng hóa đặc biệt, thông qua tiền tệ là ph•ơng tiện thanh toán mà ng•ời ta có thể mua bất kỳ một hàng hóa nào, ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Ngay cả trong các nền kinh tế không sử dụng tiền mặt thì việc mua bán, trao đổi hàng hóa cũng chỉ có thể đ•ợc thực hiện thông qua việc chuyển tiền qua tài khoản của ng•ời mua sang ng•ời bán. Nh• vậy, tiền tệ là ph•ơng tiện thanh toán không thể thiếu đối với mọi cá nhân, mọi giao dịch, mọi quốc gia, mọi nền kinh tế. Vì vậy, việc kiếm đ•ợc ngày càng nhiều các khoản tài chính là đích h•ớng tới của hầu hết các cá nhân, các tổ chức và các thiết chế nhà n•ớc nhất là khi chính bạn là ng•ời có cơ hội hàng ngày tiếp cận với khoản tiền đó. Một đặc điểm nữa của giao dịch ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ ngân hàng không chỉ có hiệu lực trong phạm vi quốc gia mà còn mang tính quốc tế rộng rãi, thông qua các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu giữa các ngân hàng, các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong và ngoài n•ớc đã khiến cho tội phạm ngân hàng mang tính đa quốc gia, tính chất của tội phạm trở nên tinh vi, phức tạp và đa dạng hơn bất kỳ tội phạm nào khác. Khi tham gia các giao dịch quốc tế ngoài việc tuân thủ luật pháp quốc gia của n•ớc ng•ời bán, ng•ời 4Thạc sĩ Đinh Văn Minh “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật Phòng chống tham nhũng” năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr21 9
  13. mua, thì cả hai bên đều phải cùng nhau tuân thủ các chuẩn mực, các thông lệ quốc tế do Phòng Th•ơng mại quốc tế ICC ban hành. Hai bên tham gia giao dịch th•ờng cách xa nhau về mặt địa lý, nên không gặp trực tiếp để đám phán, mọi thông tin và thủ tục đ•ợc tiến hành qua fax và các ph•ơng tiện thông tin liên lạc khác, chỉ thông qua bộ chứng từ đ•ợc ngân hàng cung cấp mà việc mua bán có sự đảm bảo, hai bên tin t•ởng nhau hơn và việc thanh toán đ•ợc tiến hành thuận lợi, nh•ng qua việc cấp bộ chứng từ ngân hàng đã phải đối mặt với rủi ro trong thanh toán, nếu ng•ời mua không chấp nhận hàng, không chịu thanh toán do hàng không đúng chất l•ợng, còn ng•ời bán thì xuất trình đầy đủ bộ chứng từ để yêu cầu thanh toán thì ngay cả khi ng•ời mua ký quỹ 100% ngân hàng vẫn có nguy cơ bị mất uy tín trong thanh toán quốc tế, đó là ch•a kể đến tr•ờng hợp bị khách hàng lừa đảo nhằm thực hiện hay che giấu việc rửa tiền, thực hiện các giao dịch ảo để chuyển tiền bất hợp pháp. Ngoài ra sự khác biệt thể hiện ngay ở tính nhanh chóng của các dòng chu chuyển tiền tệ, nếu là tội phạm kinh tế khác thì hành vi trục lợi, hay việc rút tiền ra khỏi các giao dịch kinh tế phải có thời gian nhất định, nh•ng đối với hoạt động ngân hàng chỉ cần bấm nút trên máy tính qua đ•ờng truyền số liệu đ•ợc thông suốt 24/24 và chỉ trong tích tắc số tiền hàng tỉ đồng sẽ đ•ợc chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác và trong cùng lúc có thể thực hiện đ•ợc nhiều giao dịch khác nhau. Khi chủ tài khoản phát hiện ra việc tài khoản bị mất tiền thì thủ phạm đã cao chạy xa bay và việc truy tìm tội phạm gặp không ít khó khăn. Hoạt động của ngân hàng ngoài rủi ro thanh toán quốc tế, còn gặp rủi ro trong các thanh toán nội địa nh• rủi ro lãi suất và rủi ro tỉ giá đặc điểm riêng này cũng là một trong những con đ•ờng dẫn tới hành vi phạm tội của các cá nhân và một số ng•ời trong lĩnh vực ngân hàng, thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất tín dụng theo thỏa thuận giữa ngân hàng và các cá nhân, tổ chức cùng các thay đổi về tỉ giá đã khiến một số ng•ời đ•ợc giao trọng trách nhận thấy rằng việc đ•a tiền ra khỏi ngân hàng vào túi cá nhân có khả 10
  14. năng trở thành hiện thực nên đã bằng mọi cách cố tình thực hiện hành vi làm giả chứng từ, sổ sách hoàn thiện đầy đủ hồ sơ để rút khoản chênh lệch. Tội phạm ngân hàng phát sinh từ chính những sản phẩm dịch vụ đa năng mà nó cung cấp cho khách hàng nh• các loại thẻ thanh toán và các công nghệ ngân hàng. Mặc dù chỉ là một phần trong các tội phạm kinh tế, nh•ng tác hại tới nền kinh tế lại vô cùng trầm trọng, nhất là khi các giao dịch tại Việt Nam là thanh toàn chủ yếu bằng tiền mặt, khi tiền đã ra khỏi ngân hàng thì việc kiểm soát sự chu chuyển là không thể, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch sân sau, giúp che giấu các khoản chênh lệch qua các khoản vay. Song hành với nó là tình trạng tham ô, cố ý làm trái, lừa đảo, nhận hối lộ xảy ra ở nhiều ngân hàng th•ơng mại quốc doanh, ngân hàng th•ơng mại cổ phần. Một bộ phận lãnh đạo, nhân viên các ngân hàng th•ơng mại bị thoái hóa, biến chất đ•ợc các doanh nghiệp móc nối, hối lộ đã cho vay trái nguyên tắc, v•ợt quá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, thông đồng với đối t•ợng vay nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ sơ giả đề vay tiền dẫn đến hàng nghìn tỉ đồng bị thất thoát, “hàng trăm cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng và giám đốc các doanh nghiệp phải vào tù”5. Điển hình nh• các vụ Lý Hóc Lỷ ở Sóc Trăng, vụ Trần Xuân Hoa, vụ Tamexco, vụ Epco-Minh Phụng ở thành phố Hồ Chí Minh, vụ Lã Thị Kim Oanh- Giám đốc Công ty đầu t• tiếp thị- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và hàng trăm vụ án khác đã đ•ợc điều tra xử lý. Một số đối t•ợng lợi dụng nhiệm vụ đ•ợc giao nh• quản lý kho, quỹ đã vay tiền ngân hàng để đánh bạc, chơi xổ số, số đề hoặc cho vay với lãi suất cao hơn dẫn đến thu bạc, thua đề, bị lừa đảo, mất khả năng thanh toán, khả năng trả nợ, gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng”6 khiến lòng tin của ng•ời dân vào các chính sách phát triển kinh tế, xã hội bị giảm sút, nền kinh tế ngày càng chứa đựng nhiều 5Thạc sĩ Đinh Văn Minh “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật Phòng chống tham nhũng” năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr22 6Thạc sĩ Đinh Văn Minh “Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật Phòng chống tham nhũng” năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2006, tr22 11
  15. giao dịch bất hợp pháp và nằm ngoài khả năng năng kiểm soát. Việc trả lại sự minh bạch cho các giao dịch tài chính ngân hàng và sự ổn định cùng khả năng tăng tr•ởng kinh tế là nhiệm vụ cấp bách không chỉ đối với mỗi ngân hàng, mà đã trở thành nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân, huy động mọi nguồn lực tham gia công tác phát hiện và phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm ngân hàng nói riêng. 1.2- chủ thể của TộI PHạM TRONG LĩNH VựC NGÂN HàNG Nhìn chung, tội phạm trong ngân hàng chỉ có thể phát sinh do khách hàng rắp tâm lừa ngân hàng, do chính cán bộ ngân hàng và do sự kết hợp giữa khách hàng và cán bộ ngân hàng. 1.2.1-Từ phía khách hàng Khách hàng có tính toán tr•ớc việc lừa đảo ngân hàng, làm giả các chứng từ cần xuất trình để rút tiền ngân hàng. Hình thức sơ khai nhất của tội phạm thông qua hoạt động ngân hàng là hành vi rút tiền của ngân hàng thông qua hệ thống chứng từ giả nh• séc giả, hối phiếu giả, giả mạo hồ sơ tín dụng vay vốn, làm giả bảo lãnh thanh toán và giả mạo chữ ký của ng•ời có thẩm quyền để rút tiền, lập các chứng từ khống để rút tiền bất hợp pháp, hình thức này đến nay vẫn khá phổ biến. Việc rút tiền ra khỏi ngân hàng luôn để lại sau nó một hệ thống chứng từ đ•ợc ngành và pháp luật quy định, song bất kỳ một hệ thống pháp luật nào cũng có những thiếu sót nhất định dễ bị kẻ gian lợi dụng. Bằng chứng ghi nhận tiền đã đi ra khỏi ngân hàng là chứng từ thể hiện số tiền, nguồn tiền đó xuất xứ từ đâu và đích đến của nguồn tiền đó cùng chữ ký xác nhận hoặc con dấu riêng của ng•ời rút tiền, đây là nguyên tắc truyền thống song vẫn luôn có hiệu quả, việc đối chiếu và chứng thực chứng từ đó là thật hay giả, chữ ký của ng•ời nhận có đúng với hồ sơ gốc không là nhiệm vụ chuyên trách của cán bộ ngân hàng. ở trình độ bình th•ờng, việc giả mạo chứng từ hay chữ ký rất dễ phát hiện, vì chất liệu giấy để in chứng từ cùng các họa tiết th•ờng có ký hiệu 12
  16. riêng, chất liệu khác biệt với loại giấy thông th•ờng, số liệu trên sổ sách và thực tế phải khớp đúng với nhau. Còn chữ ký bao giờ cũng phải là chữ ký bằng bút mực và phải ký tr•ớc sự chứng kiến của cán bộ ngân hàng, nh•ng với với sự tính toán thận trọng, óc quan sát tỉ mỉ của ng•ời có dự m•u lừa đảo thì tội phạm bao giờ cũng biết rõ phải làm giả ra sao để các chứng từ, mẫu hoa văn có vẻ ngoài giống thật, các số liệu giả không bị phát hiện. Với sự phát triển v•ợt bậc của khoa học, công nghệ ngày càng hiện đại thì tội phạm sẽ dễ dàng phân tích đ•ợc đ•ờng nét, các chi tiết, chất liệu giấy của chứng từ, từng nét uốn của chữ ký để nâng cao khả năng làm giả, nh• vậy việc phát hiện chứng từ hay chữ ký đó là giả đã trở nên khó khăn. Càng khó khăn hơn nữa khi hoạt động kiểm soát chứng từ và chữ ký đều là do con ng•ời đảm nhận, con ng•ời với khả năng làm việc nhất định, hoạt động theo cơ chế của đồng hồ sinh học sẽ có lúc làm việc không đ•ợc minh mẫn, sáng suốt nh• bản chất của chính ng•ời đó, thêm vào đó các giao dịch trong ngân hàng t•ơng đối lớn nên việc kiểm soát chứng từ sẽ có lúc mắc lỗi, sơ xuất này dễ dàng bị kẻ gian lợi dụng. Không dừng lại ở việc làm chứng từ giả, hồ sơ giả, kẻ gian đã l•u thông tiền giả qua hệ thống ngân hàng kể cả tiền nội tệ (VNĐ) và ngoại tệ mệnh giá lớn đ•ợc các cá nhân n•ớc ngoài dùng hộ chiếu mang vào Việt Nam với mục đích tiêu thụ thông qua hình thức đổi tiền tại các NHTM, ngoại tệ đ•ợc tiêu thụ th•ờng là ngoại tệ mạnh với giá trị quy đổi lớn. Hiện nay, việc thanh toán qua thẻ tín dụng và sử dụng thẻ tín dụng ngày càng trở nên thông dụng nh• thẻ tiền mặt, thẻ ATM, thẻ ghi nợ (Visa debit) có tính năng hoạt động 24/24. Nhìn chung các loại thẻ tín dụng đều rất tiện lợi và an toàn cho ng•ời sử dụng với điều kiện các thông tin về mật khẩu và dữ liệu của chủ thẻ đ•ợc bảo mật và không ai ngoài chủ thẻ biết đ•ợc thông tin đó. Nh•ng cái khó là ở chỗ bản thân khách hàng không biết rằng mã thẻ, mã pin của mình bị kẻ gian đánh cắp lúc nào, nên việc bị mất cắp tiền trên tài khoản chỉ đ•ợc biết khi tiến hành kiểm tra số d•. Bản thân ngân hàng cũng khó nắm rõ giao dịch nào là của chủ thẻ và đâu là tội phạm, vì chỉ cần nhập đúng mã số 13
  17. mật khẩu là giao dịch đ•ợc chấp nhận không phân biệt đó có phải là chính chủ thẻ hay ng•ời đ•ợc chủ thẻ ủy quyền hay tội phạm. Ngân hàng bị lừa đảo trong tình trạng thiếu thông tin: khi cá nhân trong doanh nghiệp (DN) cũ lợi dụng thời gian pháp nhân cũ không còn tồn tại, pháp nhân mới đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nh•ng ch•a có con dấu mới, cố ý dùng các chứng từ ký tr•ớc theo tên chủ tài khoản cũ và con dấu cũ để rút tiền ra khỏi tài khoản tiền gửi của DN cũ tại NH hoặc thông đồng với bên thứ 3 để làm các thủ tục nhận tiền vay NH. Điều này có thể làm cho giao dịch bị vô hiệu; khi xảy ra tranh chấp, NH không có đủ căn cứ pháp lý để thu hồi lại số tiền đã chuyển đi hoặc đã giải ngân. Trong xu thế hội nhập, các giao dịch ngân hàng đã v•ợt qua biên giới quốc gia, việc thanh toán qua tài khoản cá nhân giữa các n•ớc trở nên thuận tiện và nhanh chóng, lợi dụng chính sách mở cửa trên lĩnh vực ngân hàng, nhiều cá nhân n•ớc ngoài đã dùng hộ chiếu giả để mở tài khoản cá nhân để nhận tiền bất chính từ ngân hàng n•ớc ngoài chuyển vào. Sau khi chuyển tiền một thời gian thì các ngân hàng n•ớc ngoài mới phát hiện ra và đề nghị ngân hàng th•ơng mại Việt Nam thoái hối lại số tiền đã chi trả vì lý do giao dịch bị giả mạo, các giao dịch này th•ờng đ•ợc các đối t•ợng gốc Phi sử dụng. Một loại hình tội phạm nữa thông qua hoạt động ngân hàng là hoạt động rửa tiền, vì sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đ•a ra công chúng là tiền tệ nên tiền đi qua ngân hàng và đến tay ng•ời nhận vẫn cứ là tiền tệ. Một •u điểm và lợi thế của ngân hàng là tiền từng tham gia các giao dịch ngân hàng trở nên có nguồn gốc rõ ràng và đ•ợc công nhận tính hợp pháp. Hành vi rửa tiền đ•ợc hiểu là một quá trình mà qua đó, những tội phạm che giấu ngụy trang hay tìm cách xóa bỏ nguồn gốc thật sự của các khoản thu nhập có đ•ợc từ các hoạt động phạm pháp bằng cách gửi vào hệ thống ngân hàng, tài chính để sau đó nhận lại các khoản thu nhập này với danh nghĩa hợp pháp. Chính vì đặc điểm riêng •u việt này mà ngay từ những năm 1935, tại các n•ớc Châu Mỹ Latinh đã xuất hiện loại hình tội phạm mới. Về sau loại 14