Luận văn Phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - Ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay

pdf 82 trang vuhoa 24/08/2022 9040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - Ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phong_chong_rua_tien_trong_linh_vuc_tai_chinh_ngan.pdf

Nội dung text: Luận văn Phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - Ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. ````` VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THU THỦY PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THU THỦY PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học – xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học – xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Thu Thủy
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 6 1.1. Lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàngError! Bookmark not defined. 1.2. Pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng: 14 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 22 2.1. Tình hình hoạt động rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua [9] 22 2.2. Thực trạng quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam 27 2.3. Thực thi pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam 49 2.4. Hiệu quả của pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam 61 2.5. Những hạn chế tồn tại trong các quy định pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng 63 Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 68 3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng 68 3.2. Nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng 70 KẾT LUẬN 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một vấn nạn nguy hiểm đối với các quốc gia trên toàn thế giới và là vấn đề được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Hoạt động rửa tiền gây ra mức độ tổn thương đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng của tất cả các quốc gia ở nhiều mức độ khác nhau và ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với những quốc gia đang phát triển có sức đề kháng yếu. Các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố được thừa nhận rộng rãi nhất toàn cầu là 49 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về phòng, chống rửa tiền (Financial Action Task Force - viết tắt là FATF). FATF là một cơ quan liên chính phủ được thành lâp năm 1989 bởi Bộ trưởng các quốc gia thành viên nhằm đưa ra các chuẩn mực thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền. Tính đến thời điểm hiện tại, có hơn 190 quốc gia toàn cầu đã cam kết thực thi các khuyến nghị của FATF thông qua mạng lưới các tổ chức khu vực kiểu FATF (FATF-Style Regional Bodies - viết tắt là FSRB) toàn cầu và các thành viên, 09 FSRBs toàn cầu có vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả các khuyến nghị của FATF và đóng góp ý kiến cho việc dự thảo các chính sách của FATF. Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (Asian/Pacific Group on Money Laundering - viết tắt là APG), thành viên liên kết của FATF là mô hình FSRB tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, kể từ khi được thành lập đến nay, số lượng thành viên của APG không ngừng tăng và hiện có 41 thành viên và một số quan sát viên quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ của APG là phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (Anti-Money Laundering/ Counter-Financing Terrorist- viết tắt là AML/CFT) trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam với tư cách là thành viên của APG, cần có những động thái đóng góp vào sự phát triển của chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền, với mục tiêu đó, trong 5 năm qua, các Cơ quan Quốc hội, Chính Phủ của Việt Nam đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa tiền và đã có những nỗ lực để triển khai ngày càng có hiệu quả hơn cơ chế phòng, chống rửa tiền thông qua việc ban hành và triển khai có hiệu quả các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. 1
  6. Tài chính - ngân hàng là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, do đó, việc bảo vệ lĩnh vực này khỏi sự xâm hại của vấn nạn rửa tiền là vô cùng cấp bách, trong đó việc xây dựng và triển khai có hiệu quả pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực này cực kỳ quan trọng. Để góp phần làm rõ được thực trạng pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền theo pháp luật trong lĩnh vực này, học viên lựa chọn thực hiện đề tài “Phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay, một số công trình nghiên cứu về pháp luật về phòng chống rửa tiền như Luận văn thạc sĩ: “Lý luận và thực tiễn về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực hải quan” của tác giả Nguyễn Ngọc Linh – Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; Luận văn “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam” của Thạc sĩ Lê Xuân Hiền Nhìn chung các nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu các vấn đề về phòng, chống rửa tiền trong một số lĩnh vực cụ thể, trong đó cũng nêu ra các nội dung tổng quan về vấn đề rửa tiền bao gồm khái niệm, quy trình, cách thức cũng như hậu quả của hành vi rửa tiền, đối với luận văn của Thạc sĩ Lê Xuân Hiển liên quan đến phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đã nêu ra thực trạng rửa tiền diễn ra qua hệ thống ngân hàng và cách thức các ngân hàng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống của mình, tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam hiện nay nhìn nhận trên phương diện pháp luật, tại Luận văn của mình, học viên đưa ra cái nhìn tổng quan về vấn đề rửa tiền trong đó có khái niệm, cách thức, quy trình rửa tiền, cách thức để phòng, chống rửa tiền, trong đó pháp luật được coi là phương thức hiệu quả hữu hiệu, và khác với các công trình nghiên cứu trước đây, tại Luận văn của mình, Học viên đã đưa ra vấn đề thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam và các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng, chống rửa tiền theo pháp luật về tài chính – ngân hàng tại Việt Nam. 2
  7. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và thực trạng các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam hiện nay và việc thực hiện các quy định pháp luật này trong thực tế, qua đó, nhìn nhận được các thiếu sót về quy định pháp luật, cũng như những yếu tố tác động đến việc thực hiện chưa hiệu quả các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền, là nguyên nhân dẫn đến công tác phòng, chống rửa tiền còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả, trên cơ sở đó luận văn có đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật tại Việt Nam, góp phần tăng cường hiệu quả phòng, chống rửa tiền nói chung tại Việt Nam, bảo đảm minh bạch nền kinh tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Trước hết cần làm rõ khái niệm về rửa tiền thông qua các văn bản pháp lý trên thế giới và các phương thức, quy trình rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng như cách thức mà các quốc gia trên thế giới sử dụng để thực hiện phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, làm rõ pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được quy định như thế nào trên thế giới. - Tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về phòng, chống rửa tiền, rà soát các quy định liên quan phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, qua đó làm rõ thực trạng pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam hiện nay so với pháp luật phòng, chống rửa tiền trên thế giới và cần đánh giá việc thực thi các quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong thực tế. - Qua quá trình tổng hợp và nhận thức về thực trạng pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng và thực thi trong thực tế, phải làm rõ được các hạn chế về pháp luật phòng, chống rửa tiền cũng như những tồn tại dẫn đến việc thực thi pháp luật phòng, chống rửa tiền kém hiệu quả qua đó đề xuất giải 3
  8. pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu về pháp luật phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật; những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là quản lý nhà nước bằng pháp luật; và hoàn thiện hệ thống pháp luật (bao gồm cả pháp luật về phòng, chống rửa tiền) trong xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu, thực hiện đề tài gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống. Qua việc nghiên cứu tài liệu trong và ngoài nước về phòng, chống rửa tiền, phương pháp phân tích được sử dụng để đi sâu xem xét nội dung của pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng; phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát các yêu cầu cơ bản của pháp luật về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Từ việc tìm hiểu, khảo sát thực tiễn hoạt động phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam, nghiên cứu các quy định pháp luật có liên quan, phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định cùng loại trong pháp luật của một số nước khác với pháp luật của nước ta, so sánh với quy định trong 4
  9. một số lĩnh vực khác; phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của các quy định hiện hành có liên quan đến phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Cuối cùng phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hoá nhằm đưa ra các kết luận của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Làm rõ vai trò, yêu cầu của pháp luật về phòng chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng; chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng theo pháp luật tại Việt Nam nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, khả thi giúp tăng cường hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền nói chung, giảm thiểu tối đa mức độ tổn thương rửa tiền đối với nền kinh tế quốc gia. - Về phương diện lý luận, kết quả nghiên cứu mới của luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú những vấn đề lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, pháp luật về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền theo pháp luật nói chung tại Việt Nam. - Về phương diện thực tiễn, Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho nhà nghiên cứu, các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền, cụ thể là lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho việc học tập, giảng dạy pháp luật có liên quan đến vấn đề phòng, chống rửa tiền. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương. 5
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 1.1. Lý luận về phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng: Định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền được nhắc đến trong một văn bản mang tính chất quốc tế là Công Ước Viên năm 1988. Theo đó Công ước viên quy định về tội phạm và hình phạt đối với hành vi “chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội, với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi của mình; hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có; hành vi mua, tàng trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có” [6]. Công ước Viên chỉ quy định tội phạm nguồn của tội rửa tiền là buôn bán bất hợp pháp ma túy, vì vậy, những hành vi phạm tội không liên quan đến buôn bán bất hợp pháp ma túy như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế thì không cấu thành tội rửa tiền theo Công ước Viên. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế cho rằng các tội phạm nguồn của tội rửa tiền cần phải được mở rộng lớn hơn thế, chứ không phải chỉ bó hẹp trong hành vi buôn bán bất hợp pháp ma túy. Vì vậy, FATF và các tổ chức quốc tế khác đã mở rộng định nghĩa của Công ước Viên về tội phạm nguồn để bổ sung cả những hành vi phạm tội nghiêm trọng khác. Định nghĩa về rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất, đó là định nghĩa rửa tiền theo Công ước Palermo năm 2000, theo đó rửa tiền là hành vi: “chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại; Che dấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên quan đến tài sản, dù biết tài 6
  11. sản đó do phạm tội mà có; Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có; Tham gia, phối hợp hoặc có âm mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện thuận lợi và lập kế hoạch để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với quy định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có” [5]. Theo lực lượng đặc nhiệm tài chính - FATF thì: “rửa tiền là việc xử lý thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng” [4]. Rửa tiền là hành vi rất nguy hiểm. Nó không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nền kinh tế mà còn có những ảnh hưởng đến an ninh từng quốc gia, tác động nghiêm trọng đến sự trong sạch và hoàn chỉnh của hệ thống tài chính toàn thế giới. Hành vi rửa tiền được xem là một tội phạm xuyên biên giới và loại tội phạm quốc tế điển hình vì hành vi này mang 2 đặc trưng chính, một là có thể xảy ra từ khi bắt đầu đến kết thúc liên quan đến nhiều quốc gia, hai là muốn chống lại hành vi rửa tiền hiệu quả, phải có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới. Chủ thể của tội phạm rửa tiền là cá nhân hoặc pháp nhân có đầy đủ năng lực hành vi, vấn đề còn gây tranh cãi hiện nay đó là chủ thể của tội phạm rửa tiền có hay không bao hàm người đã thực hiện hành vi phạm tội nguồn (Tội phạm nguồn của tội rửa tiền là tội phạm chính tạo ra thu nhập mà khi được rửa sẽ dẫn đến tội rửa tiền). Động cơ phạm tội rửa tiền rất nhiều (do nể nang, do vụ lợi về vật chất, ) nhưng mục đích của tội phạm rửa tiền là yếu tố bắt buộc, tức là hành vi rửa tiền phải xuất phát từ một trong hai trường hợp sau: - Trường hợp một: Nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản; - Trường hợp hai: Nhằm giúp đỡ người phạm tội trốn tránh các hậu quả pháp lý do hành vi phạm tội của mình gây ra. Người phạm tội rửa tiền có lỗi cố ý trực tiếp, họ nhận thức được đó là tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc nhận biết rõ tiền, tài sản do chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có và với mong muốn hợp pháp hoá số tiền, tài sản đó. Mục đích của hoạt động rửa tiền là làm cho đồng tiền “bẩn” trở nên sạch hay nói cách khác là tạo ra một khoảng cách giữa tài sản bất hợp pháp và tội phạm nguồn nhằm trốn tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Những 7
  12. đồng tiền “bẩn” thường có được từ: Nguồn tiền từ những lao động bất hợp pháp: như buôn lậu, mua bán chất ma túy, vũ khí và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi; Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc Nguồn tiền tham nhũng: do tham nhũng, nhận hối lộ, tham ô của các viên chức nhà nước hoặc do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước mà có như lợi dụng việc biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, quy hoạch v.v để trục lợi; Nguồn tiền trốn thuế: Tiền có được do trốn thuế dù thu nhập là hợp pháp, có nguồn gốc hợp pháp. Song, vì “bẩn” nên nó không thể trực tiếp đưa vào lưu thông, không thể sử dụng ngay được mà nó phải được “rửa sạch” thông qua rất nhiều phương thức và thủ đoạn khác nhau. Tuy nhiên, việc người rửa tiền có đạt được mục đích hay không còn phụ thuộc vào phương thức, thủ đoạn mà họ thực hiện. Rửa tiền có thể coi là một quy trình nhằm chuyển những tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp biến nó thành những tài sản trông có vẻ như có nguồn gốc hợp pháp, quy trình này bắt đầu từ khi tổ chức, cá nhân nắm trong tay tài sản, tiền bẩn và kết thúc khi số tài sản này trở thành tiền sạch và đưa vào lưu thông hợp pháp. Hoặc cũng có thể tài sản có nguồn gốc hợp pháp (tiền sạch) nhưng chủ tài sản có các hành vi bất hợp pháp để trốn tránh các nghĩa vụ cụ thể (ví dụ như thuế) thì tài sản trốn tránh các nghĩa vụ này trở thành tiền bẩn, tuy nhiên, do phạm vi luận văn có hạn, học viên chỉ tập trung đi sâu khai thác các vấn đề liên quan đến hành vi rửa tiền biến “tiền bẩn” thành “tiền sạch”. Quy trình rửa tiền điển hình bao gồm ba giai đoạn riêng biệt. Các giai đoạn có thể hiện hữu theo dạng này hay dạng khác với mức độ khác nhau và thậm chí có thể chồng chéo. Việc đánh giá đúng về ba giai đoạn này sẽ giúp xác định và phân tích kiểu hình, phát triển các kỹ thuật để phát hiện và phòng chống rửa tiền một cách kịp thời. Giai đoạn rửa tiền đó là: Thứ nhất là giai đoạn cài đặt: Khi tiền có được do hành vi bất hợp pháp được tạo ra, giai đoạn đầu tiên của quá trình rửa tiền sẽ nhằm mục đích tách tiền có được từ tội phạm nguồn bằng cách đưa nó vào hệ thống tài chính hoặc chuyển đổi nó thành một tài sản tài chính khác. Việc này có thể tiến hành bằng nhiều cách, ví dụ như: gửi tiền vào ngân hàng, mua trái phiếu hoặc chứng khoán bằng tiền mặt, mua bảo hiểm, mua bất động sản, mua 8
  13. đá quý và kim loại quý, mua các mặt hàng xa xỉ Những tổ chức có giao dịch liên quan cần phải kiểm soát để phát hiện và báo cáo và phát hiện kịp thời về việc cài đặt tiền mặt như trên. Có thể nói, hành vi cài đặt là giai đoạn nguy hiểm nhất của quá trình rửa tiền bởi lẽ khi nó diễn ra ở các nước có pháp luật về phòng, chống rửa tiền tuân theo chuẩn mực quốc tế và được quản lý hiệu quả, tội phạm rửa tiền sẽ tìm cách di chuyển tiền qua biên giới để tới các vùng lãnh thổ có luật định về phòng, chống rửa tiền được thực thi một cách yếu kém. Sau khi đã qua giai đoạn cài đặt, tiền vẫn còn "bẩn" và dễ dàng có thể lần theo dấu vết tới đối tượng rửa tiền, nhưng ít nhất tiền không còn ở dạng ban đầu và hình thức mới của tiền sẽ phù hợp hơn cho các giai đoạn rửa tiền tiếp theo. Thứ hai là giai đoạn xếp lớp: Khi tiền bất hợp pháp được đưa vào hệ thống tài chính, mục tiêu tiếp theo sẽ là tiếp tục tạo thêm khoảng cách giữa tiền bất hợp pháp với tội phạm nguồn. Quá trình tạo khoảng cách này bao gồm việc tạo ra các lớp phủ phức tạp nhằm gây khó khăn cho việc lần theo dấu vết dẫn đến nguồn tiền. Tiền càng được rửa kỹ thì càng có nhiều lớp phủ và sẽ càng khó cho các nhà chức trách lần theo dấu vết giao dịch thông qua các lớp đó. Các lớp phủ thường gồm chuyển giao quyền sở hữu nhằm che giấu và/hoặc khiến cho việc xác định chủ sở hữu thực sự gặp khó khăn hoặc không thể thực hiện được. Các lớp phủ có thể liên quan đến giao dịch tài chính cơ bản, giao dịch tài chính phức tạp, giao dịch qua biên giới quốc tế, giao dịch sản phẩm, giao dịch thương mại, giao dịch dịch vụ, hay bất kỳ giao dịch nào khác nhằm tạo lớp vỏ che đậy. Số lượng và kiểu xếp lớp tuỳ thuộc vào mức độ liều lĩnh của tội phạm, phí tổn mà tội phạm sẵn sàng mất và thời gian tội phạm sẵn sàng chờ đợi trước khi hưởng được khoản tiền, kiến thức của tội phạm về hệ thống tài chính, kỹ năng rửa tiền, khả năng sử dụng vốn hiểu biết và kỹ năng này để tiếp cận với đồng đảng và quan trọng nhất là nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực thi pháp luật. Các nguy cơ bị phát hiện, điều tra và truy tố bởi cơ quan thực thi pháp luật lại phụ thuộc vào khả năng và sự sẵn sàng của các tổ chức tài chính để phát hiện và báo cáo các hoạt động rửa tiền và khả năng phối hợp của các cơ quan điều tra và tư pháp trong việc điều tra và truy tố các hoạt động như vậy bất cứ khi nào và 9
  14. ở bất cứ nơi nào tội phạm hoạt động, đặc biệt là khi hoạt động tội phạm vượt qua các biên giới quốc tế và đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế. Thứ ba là giai đoạn hoà nhập: Giai đoạn cuối cùng khi số tiền bất hợp pháp, vốn đã rất khó để lần theo dấu vết, lại được tích hợp vào nền kinh tế chính thống để có vẻ ngoài hợp pháp và sinh lợi cho tội phạm nguồn. Số tiền này được hoà nhập dưới nhiều hình thức có thể dưới hình thức tiền lương, quà tặng, lãi từ đầu tư, thắng cờ bạc, tiền thu từ các thoả thuận kinh doanh có vẻ như hợp pháp, tiền thuê v.v Có vô số cách để rửa tiền thông qua các phân đoạn này. Quá trình rửa tiền rất đa dạng và liên tục phát triển tinh vi hơn trong bối cảnh nhà chức trách có các phương pháp điều tra, phát hiện và truy tố tốt hơn. Mỗi lần cơ quan thực thi pháp luật xóa được một phương thức rửa tiền thì một phương thức rửa tiền mới lại xuất hiện và điều này là không thể tránh khỏi, do đó cơ chế phòng, chống rửa tiền cũng phải ngày càng phát triển với mục tiêu hiệu quả là tiếp tục đẩy tội phạm rửa tiền ra khỏi hệ thống tài chính và buộc chúng phải sử dụng các phương thức rửa tiền rủi ro, khó khăn và tốn kém hơn. Bằng cách gia tăng rủi ro và làm giảm các lợi ích của tội phạm kinh tế, chúng ta sẽ triệt hạ được căn nguyên để loại tội phạm này tồn tại. Rửa tiền được thực hiện trong rất nhiều lĩnh vực như: Lĩnh vực đầu tư nước ngoài; lĩnh vực tài chính – ngân hàng (như thông qua công ty bảo hiểm, qua đầu tư chứng khoán, hệ thống ngân hàng, vận chuyển tiền mặt ) hoặc trong các giao dịch bất động sản, kim loại quý, tuy nhiên rửa tiền trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng hiện nay là phổ biển hơn cả và chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch rửa tiền. Việc nghiên cứu cách thức, thủ đoạn rửa tiền rất hữu ích đối với các cấp quản lý và bản thân các tổ chức tài chính hiểu được khách hàng có dấu hiệu nghi vấn không để đưa ra biện pháp phòng ngừa kịp thời, Về mặt không gian, cách thức, thủ đoạn rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp: - Trường hợp 1: Các nguồn tiền được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp được thu, được rửa cũng như được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó. 10
  15. - Trường hợp 2: Lượng tiền “Bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên thị trường trong nước. - Trường hợp 3: Tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay một nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển. - Trường hợp 4: Số tiền được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó. - Trường hợp 5: Lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi. Hành vi, phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất phong phú đa dạng, gắn liền với khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về tài chính, ngân hàng Về mặt hành vi, một số cách thức rửa tiền, thường được gọi là hình thức/kiểu hình rửa tiền phổ biến đã được sử dụng trên toàn thế giới trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng gồm: Một là, hình thức vận chuyển tiền mặt: Đây được coi là một hình thức rửa tiền đơn giản và truyền thống vẫn đang được sử dụng rộng rãi. Thực tế cho thấy việc sử dụng phương pháp này đang có chiều hướng gia tăng vì một số chính phủ đã quản lý hệ thống tài chính của họ hiệu quả hơn. Theo phương pháp này, bọn tội phạm hoặc đồng phạm của chúng chỉ cần thực hiện hành vi đơn giản là mang tiền qua biên giới. Sau khi qua biên giới, tiền có thể được đổi sang nội tệ và được sử dụng để chi trả cho tài khoản ngân hàng, đầu tư, mua hàng v.v Thông thường tiền được di chuyển từ quốc gia nơi tiền có được do phạm tội hình sự được tạo ra và di chuyển đến các quốc gia mà ở đó chúng có thể được sử dụng hoặc cài đặt vào hệ thống. Quốc gia là điểm đến của luồng tiền thu được do phạm tội này thường là các quốc gia có luật lệ và/ hoặc kiểm soát phòng, chống rửa tiền yếu kém. Phương pháp này thường được gọi là buôn lậu tiền mặt số lượng lớn. Lợi ích chủ yếu của phương pháp này ngoài tính giản đơn thì có ưu điểm là không để lại dấu vết kiểm toán và rất khó để lần theo nguồn gốc của tiền. Hai là, rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm: 11
  16. Tội phạm có thể sử dụng tiền thu được để mua bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm. Sau một khoảng thời gian, hợp đồng bảo hiểm có thể được hoàn trả bằng séc và có vẻ như là một nguồn tiền hợp pháp. Đôi khi hợp đồng bảo hiểm có thể được sử dụng như là tài sản thế chấp thể thực hiện các giao dịch khác (ví dụ như vay nợ, mua hàng). Ba là, rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng: Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những mô hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay của ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của phương thức này là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy vốn của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như nước nào cũng có hệ thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống rửa tiền sơ khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi hơn. Bốn là, rửa tiền thông qua các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tiền tệ/ chuyển nhượng giá trị/các hệ thống chuyển tiền thay thế: Hệ thống ngân hàng chính thức dựa trên các quy tắc và quy định nghiêm ngặt và hiệu lực pháp lý của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh chuyển tiền của họ. Vi phạm các quy định và luật lệ được điều chỉnh thông qua cưỡng chế hành chính và hình sự. Nếu hợp đồng bị vi phạm, các bên có quyền viện dẫn tới quy định của pháp luật trong nước và quốc tế. Khách hàng của các ngân hàng chính thức đặt niềm tin vào "hệ thống". Ngược lại, các hệ thống phi chính thức dựa một mạng lưới các mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng giữa các nhà cung cấp dịch vụ chuyển tiền. Các nhà cung cấp phi chính thức này sẽ ở trong mạng lưới chừng nào họ còn được các đối tác và khách hàng của họ tin cậy. Khách hàng đặt niềm tin vào mối quan hệ cá nhân hơn là hệ thống. Vì lý do đó, hệ thống chuyển giao giá trị không chính thức thường được gọi là hệ thống tín thác. Thường, các hệ thống tín thác này có thể chuyển tiền rẻ hơn và nhanh hơn so với các hệ thống chính thức do có tổng chi phí hoạt động thấp và không mất chi phí tuân thủ theo quy định. Năm là, thông qua hình thức cổ phần và các loại chứng khoán khác: 12
  17. Chứng khoán là một công cụ tài chính có thể trao đổi được đại diện cho một giá trị tài chính. Có nhiều loại chứng khoán khác nhau. Trong trường hợp này, trái phiếu cũng giống như tiền mặt ở chỗ giúp cho việc che giấu danh tính cũng như truy xuất nguồn gốc, tuy nhiên giá trị của chứng khoán đó có thể là lớn hơn nhiều so với giá trị của tiền mặt (lưu ý trên thực tế, tiền tệ là một hình thức trái phiếu vô danh ở cấp độ thấp). Vì lý do đó, các trái phiếu và chứng khoán vô danh có thể cực kỳ hấp dẫn đối với tội phạm rửa tiền và trốn thuế. Việc rửa tiền dù thông qua hình thức nào đi nữa cũng đều gây ra những hậu quả khó lường cho nền kinh tế, chính trị và xã hội không chỉ một mà nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, làm xói mòn hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị gia tăng tội phạm, làm suy yếu các doanh nghiệp và tổ chức tài chính, ảnh hưởng tiêu cực tới khu vực kinh tế tư nhân. Tiền bẩn bóp méo giá trị thực tế của các tài sản cá nhân, làm giảm tính minh bạch của thị trường và gây khó khăn cho quyết định chi tiêu và đầu tư, làm chệch hướng nguồn lực cho đầu tư phát triển. Ở cấp độ vĩ mô, rửa tiền có thể bóp méo toàn bộ nền kinh tế do nó làm chệch hướng phân phối tài sản và đầu tư khỏi những lĩnh vực hiệu quả và có năng suất tới những lĩnh vực kém hiệu quả và kém năng suất hơn; từ các sản phẩm và dịch vụ có hiệu quả xã hội sang các sản phẩm và dịch vụ kém hiệu quả xã hội. Do đó, việc áp dụng các biện pháp phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được các quốc gia đánh giá là vô cùng cấp thiết để bảo hộ nền kinh tế quốc gia. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia phát triển đều đã thực hiện biện pháp phòng, chống rửa tiền cơ bản như sau: Thứ nhất, Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền. Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy mô, mức độ tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng, chống rửa tiền ở các nước có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tài chính thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng; (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền. 13