Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_pho_bien_giao_duc_phap_luat_tu_thuc_tien_thi_xa_son.pdf
Nội dung text: Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MÙI PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng Hà Nội, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Mùi
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ATGT An toàn giao thông CLB Câu lạc bộ CP Chính phủ CT Chỉ thị GDTX Giáo dục thường xuyên HĐND Hội đồng nhân dân HGV Hòa giải viên MTTQ Mặt trận Tổ quốc NĐ Nghị định NQ Nghị quyết PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật QĐ Quyết định TTg Thủ tướng TTPBGDPL Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật TTV Tuyên truyền viên TW Trung ương THPT Trung học phỏ thông UBND Ủy ban nhân dân
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật 8 1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật 12 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm đối với phổ biến, giáo dục pháp luật 15 Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ SƠN TÂY, HÀ NỘI 23 2.1. Khái quát về thị xã Sơn Tây 23 2.2. Hiện trạng các cơ quan làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở thị xã Sơn Tây 27 2.3. Thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây 30 2.4. Những tồn tại, hạn chế trong công tác phổ biến pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây 44 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 49 HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ SƠN TÂY 49 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây 49 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây 55 KẾT LUẬN 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) ngày càng khẳng định vai trò là một bộ phận không thể thể rời của quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật. Đồng chí Đỗ Mười – nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Việc ban hành pháp luật là quan trọng, song điều quan trọng hơn nữa là phải giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thực thi pháp luật”[22, tr.13]. Với ý nghĩa đó, PBGDPL là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật, là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, hay áp dụng pháp luật, trước hết phải hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác PBGDPL thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả trên thực tế. Bên cạnh đó, PBGDPL còn giúp hình thành ý thức pháp luật, tạo lòng tin vào pháp luật từ đó giúp đối tượng (Công dân) hình thành thói quen thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và sử dụng quyền và nghĩa vụ pháp lý đó trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác và toàn xã hội; thói quen áp dụng pháp luật giúp công dân tự giác tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật cao từ đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội của pháp luật trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác PBGDPL như trên, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này. Ngay từ ngày thành lập nước Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chủ trương quản lý nhà nước bằng pháp luật. Trong nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng đã tiếp tục khẳng định chủ trương đó [4, 8, 9, 1
- 10, 12 ]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), cùng với việc đề ra đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh phải “coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội” [10, tr.56]. Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đấy mạnh công tác tuyên truyền PBGDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác PBGDPL trong các giai đoạn khác nhau. Đặc biệt, chỉ thị số 32 – CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32 – CT/ TW) đã khẳng định: “phổ biến giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [1, tr.7]. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ vai trò và giái trị xã hội của pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần đem lại cho mọi người có trí thức pháp luật, có hành vi hợp pháp, biết sử dụng pháp luật làm phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp 2
- phần nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của mọi thành viên trong xã hội trong đó có học sinh, sinh viên. Để tiếp tục pháp huy hiệu quả của công tác phổ biến pháp luật nói chung và của thị xã Sơn Tây nói riêng, cũng như góp phần xây dựng một xã hội tuân thủ pháp luật là vô cùng quan trọng và cần thiết để xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của Nhân Dân, do Nhân Dân và vì Nhân Dân. Vì vậy tôi chọn Đề tài “Truyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời điểm hiện nay, công tác phổ biến giáo dục pháp luật là công việc hết sức quan trọng. Công tác này đã và đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Việc nghiên cứu về phổ biến pháp luật dưới góc độ khoa học pháp lý được các nhà khoa học Việt Nam rất quan tâm. Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật của các nhà khoa học được công bố. Tìm hiểu về các công trình nghiên cứu đã được công bố trong nước cho thấy, Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được nhắc đến với nhiều khái niệm khác nhau. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố như: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới" của Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý. Bộ Tư pháp, Hà Nội 1995; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta- Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sỹ của Hồ Quốc Dũng, 1997; "Một số vấn đề giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000; "Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp 3
- luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay", Luận văn thạc sỹ của Lê Thanh Hải, 2008; "Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Luận văn tiến sỹ của Nguyễn Quốc Sửu, 2010; "Giáo dục pháp luật trong các trường cao đẳng, đại học qua thực tiễn ở tỉnh Nam Định", Luận văn thạc sỹ của Đoàn Quốc Đại, 2011. Luận án tiến sỹ luật học của Lê Thị Phương Nga "Giáo dục pháp luật cho trẻ em", Học viện Khoa học xã hội, 2014. Đề tài khoa học cấp Bộ: Một số vấn đề lý luận về thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới. Nguyễn Đình Lộc (Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994 của Bộ Tư pháp). Trong đó nêu lên được những nội dung cơ bản về giáo dục pháp luật và giải pháp cho việc giáo dục pháp luật trong giai đoạn đổi mới. Sách "Bàn về giáo dục pháp luật", tác giả Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995. Sách đưa ra và nghiên cứu các khái niệm, phạm trù cơ bản của khoa học giáo dục pháp luật, bao gồm: Bản chất của giáo dục pháp luật, mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác; mục đích của giáo dục pháp luật, vai trò của giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay; chủ thể, khách thể, đối tượng, nội dung hình thức, phương pháp và hiệu quả giáo dục pháp luật. Bài báo "Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Quốc Sửu, Đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2010 trong đó nghiên cứu khái quát hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào. Công trình khoa học của Bộ Tư pháp đã đăng trong cuốn Kỷ yếu "Tọa đàm tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật" của Ban 4
- chỉ đạo Đề án 2 - Bộ Tư pháp, Hà Nội - 2011 với sự pham gia của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, cán bộ thực tiễn làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nội dung các bài khoa học trong công trình này đã tập trung nghiên cứu về hiệu quả giáo dục pháp luật trên hai phương diện cơ bản là hiệu quả quản lý và hiệu quả xã hội. Sác chuyên khảo: "Ý thức pháp luật" Nxb Chính trị quốc gia 2011, của PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, trong đó đề cập đến những vấn đề về giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Các công trình này đã nghiên cứu khá toàn diện về những vấn đề giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới các tần lớp nhân dân. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về PBGDPL trên địa bàn thị xã Sơn Tây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn công tác phổ biến giáo dục, pháp luật nói chung và thực tiễn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội nói riêng. Nhiệm vụ nghiên cứu: Một là, nghiên cứu lý luận về công tác phổ biến pháp luật. Luận văn phân tích rõ đặc điểm và vai trò phổ biến pháp luật nói chung và thực tiễn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Hai là, phân tích thực trạng công tác phổ biến pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây để tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả của công tác trên chưa đạt được như mong muốn. Ba là, Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và trên địa bàn thị xã Sơn Tây nói riêng. 5
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Luận văn khảo sát, đánh giá tập trung vào cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc trong bộ máy nhà nước thuộc 2 cấp: phường, thị xã Sơn Tây. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Giáo dục pháp luật là một phạm trù rất rộng được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ giới hạn trong việc phân tích lý luận về giáo dục pháp luật và thực trạng giáo dục pháp luật trên địa bàn tthị xã Sơn Tây hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng PBGDPL cho các tần lớp nhân dân từ thực tiễn từ thị xã Sơn Tây, Hà Nội 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp xã hội học pháp luật; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát thực tế; phương pháp thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về phổ biến pháp luật, nêu được vai trò của công tác phổ biến GDPL trong cộng đồng dân cư. Những giải pháp được đề ra trong Luận văn sẽ được áp dụng trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật và thực tiễn. 6
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc phổ biến GDPL trong cộng đồng dân cư nói chung và thị xã Sơn Tây nói riêng để đưa pháp luật vào cuộc sống. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật Chương 2: Thực trạng phổ biến pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây, Hà Nội Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thị xã Sơn Tây, Hà Nội 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật 1.1.1 Khái niệm Khi pháp luật ra đời và muốn pháp luật đi vào thực tế đời sống của người dân thì việc phổ biến pháp luật là nhu cầu cần thiết. Nhưng cho đến nay các khái niệm về phổ biến pháp luật vẫn còn có những quan điểm khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt năm 2009: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra" [41, tr 510]. Phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có ý nghĩa nhất định là đưa pháp luật vào cuộc sống, xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, làm cho đông đảo quần chúng nhân dân biết các văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành bằng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật. Trên cơ sở một số nghiên cứu gần đây, có thể khái quát về khái niệm PBGDPL như sau: Phổ biến pháp luật là việc tuyền tải thông tin về pháp luật hiện hành, về văn bản pháp luật cho nhân dân; theo đó phổ biến pháp luật là việc tuyên truyền pháp luật cho mọi tanàg lớp nhân dân để nâng cao tri thức pháp luật, hướng tới hình thành ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. PBGDPL có mục đích nâng cao sự hiểu biết pháp luật; hình thành lòng tin vào pháp luật; nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của dối tượng và thường nhằm vào số đông, chủ yếu để cung cấp thông tin, thường có tính cập nhật, thời sự pháp luật để trang bị, mở mang, nâng cao hiểu biết, tri thức 8
- pháp luật từ đó nâng cao nhận thức, dân trí của số đông. Hoạt động này thường được thực hiện bởi những chủ thể có kiến thức pháp luật; có nhiệt tình tâm huyết với công việc; có khả năng nói và viết; có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền; có hiểu biết nhất định về xã hội, phong tục, tập quán. Xuất phát từ khái niệm PBGDPL trên cho thấy PBGDPL là hình thức giáo dục cụ thể, là "cái riêng, cái đặc thù" trong mối quan hệ với giáo dục nói chung. PBGDPL với tư cách là một bộ phận trong hệ thống giáo dục, vừa mang những nét của quá trình giáo dục pháp luật, sử dụng các hình thức và phương pháp của quá trình PBGDPL nói chung vừa có những nét đặc thù. Những nét riêng có được thể hiện trước hết ở mục đích của nó là hình thành tri thức, hình thành tình cảm, lòng tin đối với pháp luật và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp. Qua sự phân tích trên có thể hiểu PBGDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. PBGDPL là nhân tố chủ quan của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở cá nhân con người và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó. Bên cạnh việc phổ biến pháp luật, cần phải giáo dục pháp luật cho nhân dân, cho cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước, các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Nếu như tuyên tuyền pháp luật chỉ hướng tới mục tiêu nanag cao tri thức pháp luật, hiểu biết pháp luật của các đối tượng, thì giáo dục pháp luật là sự thuyết phục đối tượng, để đối tượng có niềm tin vào pháp luật, tự giác tuân thủ pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Giáo dục pháp luật có sự giao thoa với đào tạo pháp luật. Đào tạo pháp luật là đào tạo các chuyên gia pháp luật, những người có trình độ pháp luật để áp dụng pháp luật (các công chức trong bộ máy công quyền và trong hệ thống 9
- tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công án, cảnh sát ). Đào tạo pháp luật cũng có thể chỉ giới hạn ở tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đó là việc đưa môn học về pháp luật (giáo dục công dân ở các cấp họcphổ thông và môn Pháp luật đại cương ở các trường đại học, cao đẳng không chuyên luật). Như vậy, các khái niệm tuyển tuyền, phổ biến, giáo dục và đào tạo pháp luật có liên quanchặt chẽ mới nhau, có các cấp độ, mức độ khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân. 1.1.2. Đặc điểm của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Thứ nhất, PBGDPL là khâu đầu tiên trong quá trình thực thi pháp luật, là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống. Trên thực tế, các chính sách, quy định của pháp luật dù có tốt đẹp, có phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội nhưng nếu không được truyền tải kịp thời tới người dân thì hệ thống pháp luật đó cũng không mang tính thực tế, khả thi. Do đó, có thể khẳng định PBGDPL là phương tiện nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Thứ hai, nội dung PBGDPL là những tri thức về nhà nước và pháp luật, về hoạt động của bộ máy nhà nước và đặc biệt là nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật thực định. Đó có thể là các thông tin pháp luật (kiến thức pháp luạt cơ bản và văn bản quy phạm pháp luật), các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình trạng phạm pháp, về việc điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật, các thông tin về kết quả nghiên cứu điều tra xã hội học về thực hiện, áp dụng pháp luật, về vị trí, tác động của từng văn bản pháp luật lên từng đối tượng; đồng thời phản ánh những yêu cầu, đề xuất của các tầng lớp dân cư, các chuyên gia pháp luật và các ngành khác trong việc hoàn thiện pháp luật; các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân 10
- (quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các quy trình, thủ tục để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp) Thứ ba, PBGDPL là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài lên đối tượng tác động. Khác với loại hình dịch vụ pháp lý khác, hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật được tiến hành thường xuyên trong mọi gia đình, tập thể, người lao động, trong mọi cấp trường học, mọi tổ chức, cơ quan Nhà nước Thứ tư, PBGDPL là sự tác động có tổ chức theo một hệ thống và có mục đích rõ rệt lên mỗi thành viên xã hội nhằm hình thành một cách bền vững ý thức pháp luật và những thói quen tích cực trong mọi hành vi xử sự của công dân trong đời sống xã hội. 1.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật PBGDPL là hoạt động định hướng, có tổ chức, có chủ định, có hệ thống và thường xuyên nhằm hình thành ở đối tượng bị tác động những tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Với cách tiếp cận đó, hoạt động PBGDPL có vị trí, vai trò rất quan trọng và là khâu đầu tiên của hoạt động thực hiện pháp luật, là cầu nối để đưa pháp luật vào đời sống xã hội. Để đưa pháp luật vào cuộc sống, trở thành hành vi của chủ thể pháp luật thì trước hết và chủ yếu, các chủ thể pháp luật đều phải có kiến thức nhất định về pháp luật. Dù ở bất cứ chế độ nào, nhất là chế độ xã hội chủ nghĩa thì pháp luật luôn tồn tại và có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu. Pháp luật là công cụ chủ yếu để thiết lập, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội xã hội chủ nghĩa; là công cụ pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước thực sự lãnh đạo, quản lý đối với toàn xã hội, là phương tiện chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ đối với xã hội. Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là yêu cầu và tiêu chí quan trọng của mỗi công dân. 11
- Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị với mục tiêu là "Giáo dục kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân". Có thể nói rằng mỗi một quy phạm pháp luật đều là phương tiện để củng cố, ghi nhận, một quy tắc mà xã hội cần, xã hội ủng hộ nhằm bảo vệ những lợi ích của Nhà nước mà còn là của mỗi công dân. Bởi vậy, khi thực hiện hoạt động PBGDPL sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần hình thành ở đối tượng giáo dục những quan hệ giá trị xác định với chính trị tư tưởng. Ngược lại trong giáo dục chính trị tư tưởng có chức năng đan xen trong nội dung của mình những hiện tượng của pháp luật, củng cố những quan hệ tích cực đối với những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật thiết qua lại chặt chẽ giữa PBGDPL và giáo dục ý thức chính trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể PBGDPL phải kết hợp và bổ sung cho nhau. 1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật 1.2.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật Nội dung phổ biến pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình phổ biến pháp luật. Xác định đúng nội dung phổ biến pháp luật là đảm bảo cần thiết để phổ biến pháp luật có hiệu quả, Nội dung phổ biến pháp luật được xác định dựa trên cơ sở mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri thức pháp luật, tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Do đó, nội dung của giáo dục pháp luật nói chung bao gồm việc cung cấp một cách thường xuyên, có hệ thống 12
- các loại thông tin về pháp luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ pháp luật. Đó là một phạm vi rộng bao gồm các kiến thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các nghành luật, các văn bản pháp luật thực định, các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các qui định và thủ tục để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân. Tuy nhiên, mức độ về nội dung phổ biến pháp luật phải được xác định cho từng nhóm đối tượng cụ thể thì mới có hiệu quả thiết thực trong việc giáo dục pháp luật. - Mức độ tối thiểu về nội dung giáo dục pháp luật cho mọi công dân. Các nội dung tối thiểu có thể là những thông tin về một số quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Bởi lẽ, sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công đan phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. - Mức độ phổ biến pháp luật theo nhu cầu ngành nghề. Trong xã hội có rất nhiều nghành nghề khác nhau ở các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, văn hóa xã hội khác nhau. Ngoài kiến thức pháp luật cơ bản thường gặp trong thực tiễn, nội dung phổ biến pháp luật theo nghành nghề bao gồm một ssos luật thực định liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động cụ thể. Bởi vậy, những người hoạt động trong các lĩnh vực đó cần phải có hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức cao hơn, mang tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn. Mức độ phổ biến pháp luật chuyên nghành cho người hành nghề pháp luật. Đây là mức độ cao nhất của nội dung phổ biến pháp luật nhằm mục đích 13
- đào tạo những người, những tổ chức chuyên hành nghề pháp luật. Như vậy, từ việc xác định phạm vi và mức độ về nội dung phổ biến pháp luật đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu đặc điểm, đặc thù của từng loại đối tượng cụ thể, áp dụng hợp lý các hình thức, phương pháp phổ biến của các chủ thể khác nhau để đảm bảo được toàn bộ nội dung phổ biến với phạm vi cấp độ khác nhau, với từng loại đối tượng khác nhau. Nội dung phổ biến pháp luật phải thiết thực dựa trên nhu cầu, điều kiện, đặc điểm cuả đối tượng phổ biến. trên phương diện lý luận nói chung, nội dung phổ biến pháp luật phát sinh từ nhu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, từ yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chính trị, kinh tế xã hội, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, nội dung của phổ biến pháp luật có phù hợp hay không phù hợp còn phải căn cứ vào trạng thái ý thức pháp luật của người dân, vào điều kiện khả năng tiếp thu và nhu cầu của họ, nội dung phổ biến phải mang tính thiết thực, dễ hiểu, phù hợp với khả năng, trình độ nhận thức của người dân. Bên cạnh phổ biến giáo dục nội dung đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cần hướng dẫn cho nhân dân trong cộng đồng thực hiện, phát huy các tập quán sinh hoạt tốt đẹp, tập tục phù hợp với pháp luật của Nhà nước, đồng thời phải chỉ ra cho họ thấy được những hủ tục lạc hậu, nặng nề trái với lợi ích công cộng, trái với pháp luật của Nhà nước cần phải loại bỏ trong điều kiện đổi mới hiện nay. 1.2.2. Hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phải được triển khai, thực hiện kịp thời. Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của mỗi nghành, địa phương; tập trung vào nhũng văn bản pháp luật mới, có phạm vi điều chỉnh rộng liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội, có liên quan đến quyền và 14
- nghĩa vụ của người dân . Hình thức tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật phải phong phú, đa dạng: tuyên truyền miệng tại hội nghị, hội thảo; tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng; phát hành các loại tài liệu tuyên truyền pháp luật; PBGDPL qua tủ sách pháp luật; qua sinh hoạt của câu lạc bộ pháp luật; qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý Về hình thức, tác giả luận văn đồng ý với quan điểm: “ Hình thức tuyên truyền, phổ biễn pháp luật là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình phổ biến pháp luật, để thể hiện nội dung phổ biến pháp luật” Bên cạnh về hình thức tuyên truyền phổ biến pháp luật phải chú trọng đến hiệu quả bởi vì công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật không chỉ chú tâm đến hình thức và nội dung tuyên truyền nên để chuyển tải được nội dung phổ biến pháp luật đến đối tượng phổ biến, đòi hởi phải có cách thức và biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp nhận của đối tượng. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm đối với phổ biến, giáo dục pháp luật 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, song song với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác PBGDPL, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị đặt ra dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối với nhân dân, nhận thức về sự cần thiết phải tìm hiểu pháp luật trước hết là phục vụ cho chính bản thân trong việc phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân họ cũng đang từng bước được nâng cao. Nhu cầu tìm hiểu về pháp luật ngày càng tăng, điều này do tác động của chính quyền các cấp thực hiện sự quản lý bằng pháp luật, sự hiểu biết về 15
- vai trò của pháp luật, các dịch vụ pháp lý ngày càng đa dạng và có hiệu quả, cơ hội tiếp cận của người dân nông thôn, vùng cao ngày càng được cải thiện, yêu cầu của công việc sản xuất kinh doanh, thực hiện chính sách xã hội, giao tiếp xã hội của cộng đồng ngày càng được mở rộng Đặc biệt, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nền kinh tế nông nghiệp theo mô hình nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi nhân dân hiểu biết phát luật trên nhiều lĩnh vực, trong đó luật kinh tế là cơ bản. Nắm vững các quy định về hợp đồng, về chất lượng hàng hoá, dịch vụ, về nhãn hiệu hàng hoá, về địa vị pháp lý của chủ hộ gia đình, cá nhân kinh doanh Những điều đó cũng làm cho nhu cầu tìm hiểu, tiếp thu các tri thức pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật của người dân ngày càng tăng. Bên cạnh các yếu tố tích cực, trong công tác GDPL cho công đồng dân cư còn chịu nhiều tác động tiêu cực đó là: - Sự tác động của nền kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hoá nhanh làm cho một số người xem nhẹ việc Nhà nước ta quản lý bằng pháp luật, coi thường pháp luật không nghĩ đến tác hại của việc coi thường pháp luật. - Do sự hạn chế về trình độ dân trí, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn dẫn đến họ biết làm là vi phạm pháp luật nhưng họ vẫn làm như tình trạng buôn bán ma tuý, đưa người ra nước ngoài - Do địa bàn cư trú, điều kiện sinh sống chủ yếu là trên vùng cao, vùng sâu nên việc tiếp cận với các thông tin đại chúng còn hạn chế. Bên cạnh các yếu tố trên, phải kể đến vai trò của Nhà nước ,của các cấp chính quyền ở một số địa phương còn xem nhẹ vai trò quản lý pháp luật, chưa thực sự được tiến hành thường xuyên, liên tục và đồng bộ, rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, nhận thức của các cơ quan Nhà nước vẫn còn có những biểu hiện xem thường, chưa quan tâm đầu 16