Luận văn Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phien_toa_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh_su_ma_bi_cao_la.pdf
Nội dung text: Luận văn Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ PHƠ PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUANG VINH HÀ NỘI – 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được sử dụng trung thực, có đầy đủ nguồn dữ liệu đáng tin cậy theo quy định của một công trình khoa học. Kết qủa nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào. Tác giả luận văn LÊ THỊ PHƠ
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 6 1.1. Khái niệm và ý nghĩa phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi 6 1.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi 13 1.3. Khái lược lịch sử phát triển của quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi 19 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 25 2.1. Những vấn đề chung về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi 25 2.2. Trình tự và thủ tục của phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 39 2.3. Văn bản tố tụng của phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn xét xử Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 47 2.4. Đánh giá thực trạng phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 52 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TTHS VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI 61 3.1. Cải cách tư pháp về định hướng nâng cao hiệu quả xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 61 3.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 64 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự TTHS Tố tụng hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự NCTN Người chưa thành niên HTND Hội thẩm nhân dân TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKSND Viện kiểm sát nhân dân HĐXX Hội đồng xét xử
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1. Bảng số 2.1: Thống kê về số lượng HTND là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên, người kiêm nhiệm, độ tuổi và được chứng nhận hoặc cấp chứng chỉ công nhận có trình độ hiểu biết về khoa học giáo dục và tâm lý học đối với người phạm tội dưới 18 tuổi. 2. Bảng số 2.2: Thống kê tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến 2016. 3. Bảng số 2.3: Thống kê các loại tội phạm do NCTN thực hiện đã được xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2016. 4. Bảng số 2.4: Thống kê xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội chia theo nhóm tuổi trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thể hiện quan điểm và chủ trương của Đảng ta về cải cách tư pháp hình sự đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, giữ vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử trong TTHS và thực hiện tranh tụng. Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cùng với việc xác định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Với vị trí đặc biệt và những thẩm quyền hiến định thì chỉ Tòa án thực hiện xét xử đưa ra phán quyết nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thẩm quyền coi một người là có tội và phải chịu hình phạt, bảo đảm quyền quan trọng của bị can, bị cáo với tính cách là quyền con người về dân sự. Trong toàn bộ quá trình TTHS, phiên tòa xét xử là nơi thể hiện tập trung và rõ nét bản chất hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ quyền con người và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường là động lực to lớn đưa đất nước tiến lên, nhưng mặt trái của nó cũng mang lại nhiều hiện tượng tiêu cực, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết, trong đó có tình hình tội phạm và tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng gia tăng và trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Sự phạm tội của người dưới 18 tuổi không chỉ hủy hoại cuộc đời của chính các em mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, khả năng nhận thức và kinh nghiệm sống còn bị hạn chế hơn so với người trưởng thành nên người dưới 18 tuổi được xem là đối tượng dễ bị xâm phạm, cần được sự quan tâm, bảo vệ của toàn xã hội. Việc người dưới 18 tuổi phạm tội suy cho cùng trách nhiệm chính thuộc về gia đình, nhà trường và xã hội, vì đã 1
- quan tâm, chăm sóc, giáo dục người dưới 18 tuổi chưa đúng mức, chưa đầy đủ. Pháp luật hình sự và TTHS đã có những Điều luật quy định riêng, chương riêng trong việc áp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Điều 301 đến Điều 310 - Chương XXXII của BLTTHS 2003 quy định về thủ tục tố tụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, qua thực tiễn các quy định này chưa đủ chi tiết, cụ thể để những người tiến hành tố tụng bảo đảm hệ thống tố tụng được vận hành phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Hiện tại, Việt Nam đã có tòa án xét xử dành riêng cho người dưới 18 tuổi theo tinh thần cải cách tư pháp, có quy định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (Điều 413 đến Điều 430, Chương XXVIII của BLTTHS 2015), nhưng chưa được áp dụng rộng rãi trên thực tế. Để đảm bảo tất cả các vụ án hình sự đều được đưa ra xét xử theo đúng tinh thần cải cách tư pháp, để có được Bản án công bằng, vô tư luôn tạo ra sức mạnh và được người dân tin tưởng thì mục đích lớn nhất trong việc xử lý người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội, nhằm góp phần phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật hình sự là một vấn đề vừa mang tính nhân văn, vừa mang tính pháp lý. Vì vậy, phiên tòa xét xử hình sự nói chung và phiên tòa xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng phải đảm bảo được vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử của Tòa án trong TTHS và đảm bảo thực hiện tính tranh tụng tại phiên tòa theo đúng tinh thần cải cách tư pháp. Qua nghiên cứu các nội dung quy định của pháp luật về phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, học viên thấy rằng mặc dù quy định pháp luật hình sự và TTHS nước ta đã tương đối tiến bộ, đầy đủ, nhưng thực tiễn vẫn còn nhiều trường hợp chưa được áp dụng hoặc chưa áp dụng đúng pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm về trình tự, thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, kỹ năng điều khiển phiên tòa của Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa còn bất cập, Hội thẩm nhân dân (HTND) chưa thể hiện được tính độc lập và vai trò giáo dục khi xét xử người phạm tội dưới 18 tuổi, Kiểm sát viên không tranh luận với người bào chữa, người bào chữa chưa làm tròn trách nhiệm của mình, bị cáo và người tham gia tố tụng khác chưa hiểu quy định pháp luật để sử dụng bảo vệ quyền lợi chính đáng của 2
- mình. Vì vậy những quy định tiến bộ, nhân đạo đã không phát huy được mặt tích cực của nó. Bên cạnh đó, một số nội dung quy định pháp luật hiện nay đã không theo kịp sự phát triển của xã hội, hay có quan hệ xã hội phát sinh mới, một số quy định chưa có sự điều chỉnh phù hợp để được đi vào thực tế. Chính vì vậy, học viên chọn đề tài luận văn "Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh" với mong muốn có những đóng góp cho việc bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khi chọn đề tài "Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh" cho luận văn của mình, học viên đã tham khảo một số nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp đối với người dưới 18 tuổi như: "Những vướng mắc trong thực tiễn xét xử NCTN phạm tội" của Ths Quách Hữu Thái tham luận tại hội thảo chuyên đề của trường đại học uật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013; "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam" luận án tiến sỹ 2013 Học viện Khoa học Xã hội của Trần Hưng Bình; “Xét xử hình sự sơ thẩm đối với NCTN phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” uận văn Thạc sĩ luật học năm 2016 Học viện Khoa học Xã hội của Trương Hồng Tú; "Về hình thức tổ chức và thủ tục xét xử của phiên tòa hình sự" của Ths Đinh Văn Quế; "Xét xử sơ thẩm trong TTHS Việt Nam " của NCS Võ Thị Kim Oanh Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên đều cập đến cả quá trình giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho đến thi hành án mà chưa đi sâu vào hoạt động tố tụng tại phiên tòa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay, định hướng đến năm 2020. 3
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và thực tiễn hoạt động tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm, luận văn đưa ra một số tồn tại, hạn chế cũng như khó khăn vướng mắt, từ đó kiến nghị các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng, cũng như toàn xã hội trong việc bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong TTHS nói chung và hoạt động tố tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu uận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa theo quy định của BLTTHS hiện hành. Căn cứ trên phạm vi nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm đối với người phạm tội dưới 18 tuổi từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu uận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật. Các nghiên cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các bản án sơ thẩm và Biên bản phiên tòa của TAND Quận 7 đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi; phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp các số liệu, báo cáo của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016; phương pháp so sánh, đối chiếu các số liệu, tài liệu với thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn xét xử hiện hành để từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xét xử. 4
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu và những vấn đề xuất trong luận góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tố tụng tại phiên tòa xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS Việt Nam cho những người làm công tác xét xử, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự nói chung, trong đó có vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. uận văn có thể được sử dụng làm tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm nghiên cứu pháp luật TTHS về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử đối với người phạm tội dưới 18 tuổi (sinh viên, học viên, tài liệu tuyên truyền pháp luật ). 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các bảng biểu, phụ lục và các từ viết tắt, nội dung luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lí luận về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Những vấn đề pháp lý về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Hoàn thiện pháp luật TTHS và giải pháp nâng cao hiệu quả của phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. 5
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1 Khái niệm và ý nghĩa phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi 1.1.1 Khái niệm phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi Khái niệm người phạm tội dưới 18 tuổi trong pháp luật TTHS Theo các giai đoạn phát triển và theo lứa tuổi của con người được hiểu dưới góc độ thuật ngữ pháp lý thì chia thành người chưa thành niên (NCTN) (trong đó có trẻ em) và người đã thành niên. Người thành niên có thể hiểu là người thuộc về lứa tuổi trưởng thành cả về thể chất và tinh thần, về tâm lý lẫn sinh lý. Theo từ điển tiếng Việt khái niệm NCTN là: “NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân”. Ở phạm vi rộng hơn, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến NCTN mà Việt Nam đã phê chuẩn là thành viên gồm: Công ước về quyền trẻ em (được Đại hội đồng iên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989); Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của iên hợp quốc về áp dụng pháp luật với trẻ em (gọi là Quy tắc Bắc Kinh ngày 29-11-1985); Hướng dẫn của iên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở trẻ em (Hướng dẫn Ri-át, ngày 14-12-1990), thì trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi. Còn các văn kiện của một số tổ chức thuộc iên hợp quốc như: Quỹ dân số thế giới (UNFPA), Tổ chức ao động quốc tế (I O) quy định trẻ em là người dưới 15 tuổi. Như vậy, theo pháp luật quốc tế người dưới 18 tuổi được coi là trẻ em. Pháp luật Việt Nam quy định chưa có sự thống nhất với nhau một cách cụ thể để xác định lứa tuổi nào là trẻ em, lứa tuổi nào là NCTN, cũng như phân biệt một cách rõ ràng khái niệm trẻ em, trẻ vị thành niên và NCTN. Cụ thể: Điều 161 Bộ luật ao động năm 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Điều 1 uật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “người chưa đủ 18 6
- tuổi là NCTN”. Theo đó, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi và như vậy cũng phù hợp với các quy định chung của công ước quốc tế về trẻ em mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Dưới góc độ pháp luật hình sự, NCTN phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi (Điều 69 B HS) vào thời điểm họ thực hiện tội phạm. Từ quy định này của B HS hiện hành NCTN là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, những người dưới 14 tuổi không bị truy cứu TNHS đối với mọi hành vi của mình. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Như vậy, tuổi bắt đầu có năng lực TNHS là từ đủ 14 tuổi và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ là đủ 16 tuổi trở lên. Dưới góc độ pháp luật TTHS, Điều 50 BLTTHS 2003 quy định bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử tại phiên tòa. Căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của B HS về tuổi chịu TNHS, thì có thể hiểu bị cáo dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Có thể nhận thấy sự khác biệt trong việc xác định thời điểm tính tuổi của người phạm tội trong lĩnh vực hình sự với cách tính tuổi của bị cáo trong TTHS. Sự khác biệt này hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ: + Dưới góc độ pháp luật hình sự, thời điểm tính tuổi người phạm tội phải căn cứ vào thời điểm thực hiện tội phạm bởi tại thời điểm đó mới phản ánh đúng trình độ nhận thức của người phạm tội đối với yêu cầu đòi hỏi của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Việc xác định TNHS chỉ phù hợp khi cân nhắc đến trình độ nhận thức của người phạm tội về hành vi phạm tội của mình đúng vào thời điểm thực hiện tội phạm. Hệ quả của việc xác định này đưa đến việc lựa chọn đường lối xử lý phù hợp đối với NCTN phạm tội. + Dưới góc độ TTHS, việc xác định tuổi của bị cáo phải căn cứ vào thời điểm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, bởi lẽ vào thời điểm mở phiên tòa xét xử bị cáo phải được đối xử theo một trình tự tố tụng phù hợp đúng với lứa tuổi của họ. Hệ quả của cách xác định nêu trên đưa đến quy định là chỉ áp dụng trình tự tố tụng đặc biệt 7
- đối với NCTN phạm tội, nếu tại thời điểm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử họ là người dưới 18 tuổi. Như vậy, nếu lúc phạm tội, người thực hiện tội phạm dưới 18 tuổi, nhưng khi đưa vụ án ra xét xử hộ đã tròn 18 thì sẽ giải quyết theo hướng: ở khía cạnh P HS, người phạm tội sẽ được áp dụng các quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; nhưng thủ tục và trình tự tố tụng được áp dụng là thủ tục chung đối với người đã đủ 18 tuổi. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người phạm tội dưới 18 tuổi như sau: Dưới góc độ TTHS, người phạm tội dưới 18 tuổi là người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Khái niệm phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi Với vai trò và thẩm quyền hiến định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102 Hiến pháp năm 2013), chỉ Tòa án với bản án của mình mới có thẩm quyền coi một người có tội và phải chịu hình phạt, nhưng để xác định một người có tội và phải chịu hình phạt hay không đòi hỏi phải đưa họ ra xét xử trước phiên tòa, trước hết là ở phiên tòa sơ thẩm. Trong khoa học uật TTHS, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn TTHS quan trọng do Tòa án thực hiện lân đầu ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự được thể hiện và tập trung cao nhất là hoạt động xét xử tại phiên tòa, bởi vì tại phiên tòa, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết, chứng cứ của vụ án một cách công khai thông qua hoạt động xét hỏi và tranh luận, HĐXX xác định một người có tội hay không, hình phạt và biện pháp tư pháp đối với họ, dựa trên những căn cứ, theo những trình tự do pháp luật TTHS quy định. 8
- “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử cấp thứ nhất do tòa án có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật TTHS [37, tr.451]. Theo BLTTHS 2003, thủ tục, trình tự tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục đặc biệt. Với những nội dung trên, “Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi là việc xét xử vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng đặc biệt, mà bị cáo trong phiên tòa là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, do Tòa án có thẩm quyền mở ra lần đầu ở cấp thứ nhất để xem xét, đánh giá họ có tội hay không có tội theo cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.” Như vậy, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi có những đặc điểm sau: + Đây là phiên tòa cấp thứ nhất xét xử vụ án hình sự Hiến pháp 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều 103 Hiến pháp 2013). Tinh thần Hiến định nêu trên đã được thể hiện tại Điều 20 BLTTHS 2003 quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử theo đó xét xử sơ thẩm là cấp thứ nhất xét xử vụ án hình sự. Phiên tòa xét xử sơ thẩm là nơi vụ án lần đầu tiên được đưa ra xét xử công khai trước các bên có liên quan đến vụ án và trước công chúng tham dự phiên tòa. Ở giai đoạn khởi tố, điều tra chưa có sự hiện diện của Tòa án trong vai trò cơ quan xét xử, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm mà cụ thể là ở phiên tòa sơ thẩm, trước sự chứng kiến của người tham dự phiên tòa, vụ án được xem xét công khai và toàn diện, có sự tham gia đầy đủ cùng một lúc của các chủ thể, trong đó Tòa án trong vai trò là người thực hiện chức năng xét xử để giải quyết vụ án. Phiên tòa xét xử là nơi các bên thực thi chức năng tố tụng của mình một cách công khai và đầy đủ nhất. Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là người thực hiện chức năng buộc tội – thực hành quyền công tố trước phiên tòa. Bị báo và người bào chữa của họ thực hiện chức năng bào chữa trong sự bảo hộ đầy đủ hơn của pháp luật. Tòa án thực hiện chức năng xét xử và phán xét bị cáo có tội hay không có tội. + Bị cáo là người dưới 18 tuổi 9
- Điểm đặc biệt của phiên tòa sơ thẩm này chính là bị cáo là người phạm tội dưới 18 tuổi. Đây là đối tượng có những đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt thể hiện ở các khía cạnh: Thứ nhất, bị cáo dưới 18 tuổi thường có những hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý do lứa tuổi nên năng lực TNHS của họ hạn chế hơn so với người đã đủ 18 tuổi tở lên. “NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý. Trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn nhiều hạn chế. NCTN phạm tội thiếu điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp. Tuy nhiên, NCTN “có khả năng phục thiện nhanh hơn do động cơ của phần lớn NCTN phạm tội thường mang tính chất đặc thù về lứa tuổi, như nghịch ngợm, muốn tỏ rõ lòng dũng cảm, tự ái không muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu ảnh hưởng của người khác” [37, tr.444] Thứ hai, với những đặc điểm tâm sinh lý nêu trên nên bị cáo dưới 18 tuổi chưa có năng lực đầy đủ để có thể tự bảo vệ lợi ích của mình trước sự buộc tội của Nhà nước. Nhìn nhận sự hạn chế về năng lực tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị cáo dưới 18 tuổi và xuất phát từ chính sách bảo vệ đặc biệt đối với người dưới 18 nên Nhà nước đã quy định thủ tục đặc biệt đối với hoạt động TTHS trong trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi. + Phiên tòa được tiến hành theo thủ tục đặc biệt Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi được xem là phiên tòa đặc biệt, bởi vì phiên tòa đó được tiến hành theo thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho bị cáo là người dưới 18 tuổi. Ngoài đặc điểm chung về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cũng như việc bắt buộc phải tuân thủ những nguyên tắc chung trong quá trình tố tụng khi xét xử sơ thẩm, được quy định tại BLTTHS năm 2003 của phiên tòa hình sự sơ thẩm thông thường, thì phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi còn phải đảm bảo các đặc trưng về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Những đặc trưng này thể hiện ở các quy định: 10
- Về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng “phải là những người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN” (Điều 302 BLTTHS 2003). Xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi thì ngoài yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm phải là người nắm vững kiến thức pháp luật thì đòi hỏi họ phải có thêm điều kiện riêng, đó là họ phải là người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng như hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi. Về thành phần HĐXX hình sự sơ thẩm trong vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, cũng giống như phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự chung là “bảo đảm có Hội thẩm tham gia” và phải đúng theo quy định tại Điều 185 B TTHS 2003 HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, trong vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi thì thành phần HĐXX bắt buộc phải có Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (khoản 1 Điều 307 B TTHS 2003). Việc yêu cầu có một Hội thẩm trong HĐXX là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên là việc cần có một thành viên trong HĐXX hiểu được tâm lý của người dưới 18 tuổi, qua đó dễ thông cảm, sẻ chia và thấu hiểu, để có những đánh giá đầy đủ và toàn diện mức độ nguy hiểm của hành vi do người phạm tội dưới 18 tuổi gây ra, từ đó đưa ra chế tài hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật. Về sự tham gia của người bào chữa trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi là bắt buộc, việc bắt buộc sự có mặt của người bào chữa thể hiện đặc điểm riêng biệt của phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Bảo đảm sự tham gia bắt buộc của người bào chữa là bảo đảm nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa” trong TTHS, sau là hỗ trợ, giúp đỡ cho người dưới 18 tuổi khi phải bị xét xử trước phiên tòa. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự sơ thẩm mà bị cáo là người dưới 18 tuổi thì ngoài những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS 2003, bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định rõ các vấn đề về: Xác định độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN, Điều kiện sinh sống và giáo dục NCTN; 11
- Có hay không có người thành niên xúi giục, Nguyên nhân và điều kiện phạm tội (khoản 2 Điều 302 BLTTHS 2003). Việc tham gia tố tụng tại phiên tòa của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội trong vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. Thông thường, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự chúng ta thấy sự có mặt của gia đình bị cáo, sự có mặt này hoàn toàn không bắt buộc theo quy định của pháp luật. Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi thì sự có mặt của gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội vừa là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ. 1.1.2 Ý nghĩa quy định phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nơi đánh giá trực tiếp các căn cứ trong hồ sơ vụ án và căn cứ bổ sung tại phiên tòa để định đoạt số phận pháp lý của người bị truy cứu TNHS là người dưới 18 tuổi. Giải quyết vụ án hình sự phải tuân thủ đúng đắn thủ tục tố tụng do pháp luật TTHS quy định để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Từ tính chất đặc thù về chủ thể và đặc thù về tính chất vụ việc, thủ tục tố tụng của phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng phải tuân thủ đúng đắn quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng đặc biệt bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo dưới 18 tuổi, mặt khác thể hiện rõ được chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm là người dưới 18 tuổi, có ý nghĩa trong việc giáo dục giúp đỡ người phạm tội dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm để tiếp tục phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội đúng theo chủ trương, mục đích chính sách hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi của Nhà nước ta. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi các nguyên tắc cơ bản của TTHS được thể hiện đậm nét nhất. Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm thường được tiến hành công khai, thể hiện đầy đủ nhất quyền bào chữa của bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời cũng là một hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Có thể nói, chính sách pháp luật của Đảng, nhà nước, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của những người tiến hành tố tụng có tạo được niềm 12
- tin trong quần chúng nhân dân hay không, các nguyên tắc của TTHS được thực hiện như thế nào, mức độ dân chủ, tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa thế nào, thì phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi là nơi để chúng ta nhìn nhận và phán xét. Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm bị cáo dưới 18 tuổi có sự tham gia đầy đủ của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm pháp lý cũng như quyền lợi hợp pháp của người tham gia tố tụng. Thông qua phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi, đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của uật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Bên cạnh đó, phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng. Đồng thời, những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật ấn tượng và hiệu quả, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội nói chung và tội phạm lứa tuổi chưa thành niên nói riêng. 1.2 Các nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi 1.2.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 16 BLTTHS 2003 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, độc lập xét xử không chỉ là nguyên tắc xét xử mà còn là nguyên tắc hiến định đảm bảo cho Tòa án không bị chi phối bởi bởi bất cứ sự tác động nào khi ra bản án hoặc quyết định. Khi xét xử vụ án hình sự, HĐXX căn cứ vào các tình tiết của vụ án, căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào pháp luật để xác định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội, phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án đã xảy ra. Độc lập khi xét xử là sự độc lập giữa các thành viên của HĐXX trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận 13