Luận văn Pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_viet_nam_ve_tien_luong_toi_thieu.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THỊ LAM PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ TIÒN L¦¥NG TèI THIÓU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THỊ LAM PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ TIÒN L¦¥NG TèI THIÓU Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN THU HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lƣu Thị Lam
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU 7 1.1. Khái niệm, vai trò, đặc trƣng, các yếu tố ảnh hƣởng và căn cứ xác định tiền lƣơng tối thiểu 7 1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu 7 1.1.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu 12 1.1.3. Đặc trưng của tiền lương tối thiểu 14 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương tối thiểu 15 1.1.5. Các tiêu chí xác định tiền lương tối thiểu 18 1.2. Pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 19 1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về tiền lương tối thiểu 19 1.2.2. Nội dung và hình thức của pháp luật về tiền lương tối thiểu 22 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU 29 2.1. Quy định hiện hành về tiền lƣơng tối thiểu ở nƣớc ta hiện nay 29 2.1.1. Tiền lương tối thiểu chung 30 2.1.2. Tiền lương tối thiểu vùng 35 2.1.3. Tiền lương tối thiểu ngành 41 2.1.4. Về tổ chức triển khai thực hiện tiền lương tối thiểu 42 2.2. Thực tiễn thực hiện chính sách tiền lƣơng tối thiểu 43 2.2.1. Về xác định mức lương tối thiểu 43 2.2.2. Về thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu 46 2.3. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 67
- 2.3.1. Những kết quả đạt được 67 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế 69 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM 72 3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 72 3.1.1. Yêu cầu chung của cải cách hệ thống chính sách tiền lương 72 3.1.2. Yêu cầu của bối cảnh kinh tế xã hội trong nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 73 3.1.3. Yêu cầu về sự phù hợp với các Công ước của ILO 75 3.1.4. Yêu cầu từ quan hệ cung, cầu trên thị trường lao động 76 3.1.5. Yêu cầu từ việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng về tiền lương 78 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lƣơng tối thiểu 81 3.2.1. Xác định mức lương tối thiểu trên cơ sở tính đúng, đủ (đảm bảo) mức sống tối thiểu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ 81 3.2.2. Điều chỉnh lương tối thiểu khi kinh tế tăng trưởng, lạm phát 82 3.2.3. Thực hiện lương tối thiểu ngành thông qua thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh nghiệp 82 3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tiền lương tối thiểu, tiến tới xây dựng Luật tiền lương tối thiểu 83 3.2.5. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lương tối thiểu 91 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 PHỤ LỤC 103
- DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: So sánh chênh lệch tiền lương tối thiểu giữa các vùng 103 Bảng 2.2: Mức lương tối thiểu chung ấn định so với mức lương tối thiểu được xác định theo phương pháp dựa vào nhu cầu tối thiểu 103 Bảng 2.3: Điều chỉnh mức lương tối thiểu chung so với CPI (năm trước bằng 100%) 104 Bảng 2.4: Điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu đối với khu vực FDI 104 Bảng 2.5: Mức lương tối thiểu vùng giai đoạn 2008-2015 99
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ChÝnh s¸ch tiÒn l•¬ng cã vÞ trÝ quan träng trong hÖ thèng chÝnh s¸ch kinh tÕ x· héi cña ®Êt n•íc, lµ ®éng lùc ®Ó sö dông cã hiÖu qu¶ nguån lao ®éng. Chính sách tiền lương nước ta sau nhiều lần cải cách đã và đang thể hiện được vai trò và chức năng của mình trong sản xuất kinh doanh và đời sống của người lao động, nhất là chính sách tiền lương từ năm 1993 đến nay đã từng bước đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không tính bình quân, cào bằng. Tiền lương được coi là giá cả sức lao động và được hình thành trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua ký kết hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể. Tiền lương trở thành động lực, đòn bẩy kích thích, khuyến khích người lao động làm công việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, đồng thời là phương tiện đảm bảo cuộc sống ngày càng nâng cao. Tiền lương tối thiểu là một nội dung cơ bản và quan trọng của chính sách tiền lương trong kinh tế thị trường. Tiền lương tối thiểu tham gia vào quá trình phân phối, điều tiết vĩ mô về tiền lương và thu nhập trên phạm vi toàn xã hội; đồng thời là yếu tố tham gia vào hình thành chi phí đầu vào của doanh nghiệp và phân phối theo kết quả đầu ra của sản xuất kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, tiền lương tối thiểu có vị trí quan trọng, là sàn thấp nhất mà không một người sử dụng lao động có quyền trả thấp hơn mức đó và là lưới an toàn cho người làm công ăn lương trong xã hội. Tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định là một trong những công cụ quan trọng quản lý vĩ mô về tiền lương, giảm bất bình đẳng về tiền lương, thu nhập, chống nghèo đói, bóc lột lao động quá sức, là căn cứ pháp lý để người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận các mức tiền công cao hơn trên thị trường 1
- lao động. Tiền lương tối thiểu tham gia vào quá trình phân phối, điều tiết vĩ mô về tiền lương và thu nhập trên phạm vi toàn xã hội; đồng thời, là yếu tố tham gia vào hình thành chi phí đầu vào của doanh nghiệp và phân phối theo kết quả đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, tiền lương tối thiểu được coi là một trong những chỉ báo quan trọng thể hiện là nền kinh tế thị trường. Đối với nước ta, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức về tiền lương tối thiểu trong kinh tế thị trường ngày càng rõ nét. Chính sách tiền lương ở Việt Nam nói chung và tiền lương tối thiểu nói riêng qua nhiều lần cải cách đã không ngừng hoàn thiện, phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, đã từng bước đổi mới theo định hướng thị trường, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển dựa trên nguyên tắc coi tiền lương là yếu tố của sản xuất, là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động. Hiện nay, chính sách tiền lương tối thiểu được luật hóa trong Bộ luật lao động (Điều 56 Bộ luật lao động 1994 và Điều 91 Bộ luật lao động năm 2012). Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế thì tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tế, đó là: Thứ nhất, tiền lương tối thiểu còn thấp, chưa đảm bảo được mức sống của người lao động, (theo mức lương tối thiểu vùng mới được điều chỉnh từ ngày 01/01/2014 mới đáp ứng khoảng 70% mức sống tối thiểu của người lao động) [27]. Thứ hai, tiền lương tối thiểu, bao gồm từ cơ chế và nguyên tắc hình 2
- thành, xác định mức lương tối thiểu chưa được luật hóa rõ ràng, đầy đủ và thống nhất, đồng bộ, các căn cứ, tiêu chí điều chỉnh mức lương tối thiểu chưa được lượng hóa cụ thể dẫn đến việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu trên thực tế chưa thực sự dựa trên các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Trong điều kiện thị trường lao động ở nước ta mới được hình thành, việc thoả thuận tiền lương chưa trở thành thông lệ, người lao động luôn trong tình trạng bị ép tiền công thì tiền lương tối thiểu hiện nay chưa thực sự là công cụ tối ưu để bảo vệ người làm công ăn lương, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển [51]. Thứ ba, về mặt luật pháp thì tiền lương tối thiểu đối với khu vực sản xuất, kinh doanh đã được tách khỏi khu vực hành chính, sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Bộ luật lao động năm 2012) nhưng các nội dung còn quy định chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, một số chế độ, chính sách của người lao động vẫn còn phụ thuộc vào chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang (chế độ đóng, hưởng bao hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; chính sách lao động dôi dư; lương hưu ). Luật về tiền lương tối thiểu cũng đã được cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, soạn thảo, tuy nhiên, đến thời điểm này vẫn chưa trình Quốc hội cho ý kiến (dự kiến năm 2016 sẽ trình Quốc hội cho ý kiến về Luật tiền lương tối thiểu). Việc liên tục phải điều chỉnh lương tối thiểu và việc Luật tiền lương tối thiểu chưa thể ban hành đúng kế hoạch đã chứng minh sự thiếu ổn định ở tầm vĩ mô về những quy định liên quan đến lương tối thiểu [37]. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá mặt được và mặt hạn chế của tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định, thực trạng tình hình thực hiện các quy định của Nhà nước về tiền lương tối thiểu và các yêu cầu đối với tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường, của Tổ chức lao động quốc tế, khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại thế giới, đề tài khuyến nghị các nội 3
- dung cơ bản hoàn thiện tiền lương tối thiểu ở Việt Nam phù hợp hơn theo kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ổn định, lành mạnh cùng phát triển, gồm: - Đề xuất, khuyến nghị nội dung và giải pháp để luật hóa đầy đủ, đồng bộ tiền lương tối thiểu phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế (bao gồm cơ chế và nguyên tắc hình thành, xác định, điều chỉnh các mức lương tối thiểu) nhằm thực hiện thống nhất, góp phần bảo vệ người làm công ăn lương, xây dựng mối quan hệ lao động ổn định, lành mạnh, phát triển. - Đề xuất, khuyến nghị nội dung và giải pháp để thực hiện tách tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp và tiền lương tối thiểu đối với khu vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhằm tạo sự linh hoạt của tiền lương tối thiểu theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, có một số đề tài, luận văn nghiên cứu về tiền lương tối thiểu như: Đề tài cấp Nhà nước về “Xác định tiền lương tối thiểu trên cơ sở điều tra nhu cầu mức sống dân cư làm căn cứ cải cách tiền lương ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” do tác giả Nguyễn Văn Thường làm chủ nhiệm; Luận văn Thạc sĩ luật học năm 2010 “Chế độ pháp lý về tiền lương tối thiểu và hướng hoàn thiện” của tác giả Đào Duy Phương; cùng một số bài viết như: “Đánh giá tác động của lương tối thiểu đến nhu cầu lao động ở doanh nghiệp tại Việt Nam" của tác giả Nguyễn Việt Cường (2012); “Nghiên cứu mức lương tối thiểu theo giờ” của đồng các tác giả Nguyễn Huyền Lê, Nguyễn Thị Hương Hiền và Trần Thị Diệu (2012) Từ những thống kê trên cho thấy, các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp đến tiền lương tối thiểu còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế. Các văn bản pháp lý về tiền lương tối thiểu thay đổi thường xuyên, liên tục; chưa có văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương tối thiểu được ban hành dưới hình thức một Luật riêng để điều chỉnh về nội dung này. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu luật 4
- học đáng kể nào về tiền lương tối thiểu, nghiên cứu được toàn diện, đầy đủ về các nội dung cơ bản của tiền lương tối thiểu. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau: Khái niệm, bản chất, vai trò của tiền lương tối thiểu, các phương pháp xác định tiền lương tối thiểu; các yếu tố ảnh hưởng đến quy định về mức lương tối thiểu; nội dung và hình thức của pháp luật về tiền lương tối thiểu. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu cũng như các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam. Lương tối thiểu là vấn đề của cả người lao động làm công ăn lương nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng. Vì vậy, luận văn tiếp cận tiền lương tối thiểu với cả hai đối tượng trên. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp thống kê. Đồng thời, thực hiện việc kết hợp giữa các nhóm phương pháp để nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu đề ra. 5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài với mục đích cụ thể là: xây dựng quan điểm và lý thuyết về tiền lương tối thiểu. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về lương tối thiểu để rút ra những ưu, nhược điểm của hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về lương tối thiểu. Thông qua việc đánh giá khách quan, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về lương tối thiểu, nhằm góp phần xây dựng pháp luật lao động hoàn chỉnh, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục đích đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu, giải quyết 5
- các nhiệm vụ: nghiên cứu quan điểm, khái niệm, bản chất, vai trò và các vấn đề chung về lương tối thiểu; sự phát triển của pháp luật Việt Nam về lương tối thiểu qua các thời kỳ. Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lương tối thiểu. Nghiên cứu đề ra các biện pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lương tối thiểu trên cơ sở đánh giá khoa học. Đồng thời, nghiên cứu những vấn đề liên quan về lương tối thiểu của một số nước trên thế giới. 6. Một số điểm mới của luận văn Xây dựng khái niệm tương đối toàn diện, hoàn chỉnh về lương tối thiểu; bản chất, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng của lương tối thiểu; các phương pháp xác định lương tối thiểu. Đánh giá tương đối toàn diện quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tiền lương tối thiểu. Đề ra những yêu cầu, biện pháp tương đối toàn diện, độc lập để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội về lĩnh vực này trong thị trường lao động. 7. Kết cấu của luận văn Với phạm vi, đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương chính như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tiền lương tối thiểu. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU 1.1. Khái niệm, vai trò, đặc trƣng, các yếu tố ảnh hƣởng và căn cứ xác định tiền lƣơng tối thiểu 1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu 1.1.1.1. Quan niệm tiền lương tối thiểu của C. Mác Trong lí luận về giá trị thặng dư C. Mác đã chỉ ra tiền lương là giá cả hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động, lên xuống xoay quanh giá trị của nó - giá trị sức lao động. Cũng như các loại hàng hóa khác, giá trị hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó, tức là giá trị những tư liệu sinh hoạt nhằm bù đắp lại sức lao động đã hao phí của người lao động, gồm 3 loại chi phí sau: (1) chi phí để nuôi sống và duy trì khả năng lao động của bản thân người lao động với tư cách là người công dân tự do tự nguyện bán sức lao động (ký kết hợp đồng lao động); (2) chi phí để học tập và đào tạo để trở thành người lao động; và (3) chi phí để nuôi sống gia đình người lao động [8]. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và sự đòi hỏi chất lượng lao động ngày càng cao của nền sản xuất xã hội, nên chi phí học tập và đào tạo ngày càng tăng và tăng nhanh hơn so với sự tăng lên của 2 loại chi phí còn lại. Trong điều kiện lao động giản đơn không cần học nghề thì những chi phí cần thiết này chỉ là những hàng hóa cần thiết để duy trì đời sống người lao động, là “giới hạn tột cùng” của giá trị sức lao động và tương đối giống nhau giữa những người lao động khác nhau. Từ đó C. Mác kết luận: Chi phí sản xuất ra sức lao động đơn giản gồm chi phí sinh hoạt 7
- của người công nhân và chi phí tái sản xuất ra người công nhân. Giá những chi phí sinh hoạt và chi phí tái sản xuất đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy là tiền công tối thiểu [8, tr.38-39]. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại khi người lao động sống và tham gia các quan hệ xó hội, do đó ngoài yếu tố thuần túy sinh lý, giá trị sức lao động cũng có tính lịch sử xã hội. Giới hạn tột cùng của giá trị sức lao động do yếu tố sinh lý quyết định - đó là giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để người công nhân tự duy trì và tái sinh. Yếu tố lịch sử xó hội phụ thuộc vào hoàn cảnh sống và tập quán sinh hoạt của mỗi cộng đồng người, vào công bằng và tiến bộ xó hội đạt được trong mỗi thời kỳ ở mỗi vùng, mỗi quốc gia; yếu tố lịch sử xó hội thường xuyên thay đổi, nhưng có thể không được tính đến khi xác định giá trị sức lao động. 1.1.1.2. Quan niệm tiền lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) Năm 1919, trong hiến chương thành lập, ILO đã khuyến cáo “bảo đảm mức tiền lương đủ sống cho người lao động” là một trong những nội dung nhằm hoàn thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội và thúc đẩy hoà bình [42]. Trong Công ước số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho người lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội" [41]. Năm 1970, tại Công ước 131 về tiền lương tối thiểu, ILO đã xác định: “bảo đảm cho những người làm công ăn lương một sự bảo đảm xã hội cần thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống” [43]. Hay nói cách khác, tiền lương tối thiểu là mức tiền lương duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu cho người làm công ăn lương. Năm 1976, trong tuyên bố Chương trình hành động tại hội nghị thế giới 8
- 3 bên về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, ILO đã khuyến nghị “Bảo đảm mức sống tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền lương của mỗi nước” [45]. 1.1.1.3. Quan niệm tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương tối thiểu được xem xét trong mối quan hệ với việc làm, liên quan trực tiếp đến quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, đó là mức tiền lương thấp nhất trả cho người làm công ăn lương làm công việc giản đơn trong điều kiện lao động bình thường mà không một người sử dụng lao động nào có quyền trả thấp hơn. Vì vậy, tiền lương tối thiểu là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp khi nó được quy định cao hơn tiền lương cân bằng của quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động. Thông thường tiền lương tối thiểu được luật hóa trên cơ sở có sự tham gia của đại diện người sử dụng lao động và người lao động và trở thành mức sàn thấp nhất theo quy định của pháp luật để trả cho người làm công ăn lương trên thị trường. Mức tiền lương tối thiểu không bao gồm các khoản tiền thưởng hoặc phúc lợi xã hội, không phải là mức trợ cấp xã hội, được tính theo thời gian, thường áp dụng cho lao động thành niên không có kỹ năng, lần đầu tiên tham gia làm việc và có thể được tính theo giờ, ngày, tuần hoặc tháng. Các mức tiền lương thấp nhất xác định thông qua thỏa ước lao động tập thể của các doanh nghiệp không phải là tiền lương tối thiểu, mà đây là mức lương thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và đại diện người lao động. Với những vai trò và đặc điểm nêu trên, tiền lương tối thiểu phải thỏa mãn các yêu cầu như sau: - Bảo đảm đời sống tối thiểu cho người lao động ở trình độ lao động phổ thông, phù hợp với khả năng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, phải bảo đảm mức sống tối thiểu thực tế cho người hưởng mức lương tối thiểu. 9
- - Được tính đúng, tính đủ để trở thành lưới an toàn chung cho những người làm công ăn lương trong toàn xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế và khu vực kinh tế. - Bảo đảm mối quan hệ thực sự giữa mức lương tối thiểu, trung bình và tối đa để chống lại xu hướng gia tăng chênh lệch bất hợp lý tiền lương giữa các loại lao động, vi phạm nguyên tắc phân phối theo lao động. - Là yếu tố tác động đến mức tiền công trên thị trường lao động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tính đủ chi phí đầu vào và đầu tư hợp lý giữa các vùng, ngành, mở rộng môi trường đầu tư và hội nhập. - Là công cụ điều tiết của Nhà nước nhằm bảo đảm xã hội đối với người lao động làm việc trong ngành nghề, khu vực có quan hệ lao động, thiết lập những ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao động, tăng cường trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động. 1.1.1.4. Quan niệm tiền lương tối thiểu ở Việt Nam Ở Việt Nam, năm 1993 khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương, mức lương tối thiểu được quan niệm là căn cứ xây dựng hệ thống trả công lao động cho các khu vực, ngành nghề; tính mức lương cho các loại lao động khác nhau; tạo ra lưới an toàn xã hội cho lao động trong cơ chế thị trường; thiết lập mối quan hệ ràng buộc kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động trong thoả thuận ký kết hợp đồng lao động (về tiền lương, tiền công). Bộ Luật lao động năm 1994 của Việt Nam chỉ rõ: Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương 10
- tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để bảo đảm tiền lương thực tế [38, Điều 56]. Như vậy, tiền lương tối thiểu (hay mức lương tối thiểu) là số lượng tiền thấp nhất do Nhà nước quy định để trả công cho lao động giản đơn nhất trong xã hội trong điều kiện lao động bình thường, người sử dụng lao động không được trả lương cho người lao động thấp hơn mức do Chính phủ quy định. Tiền lương tối thiểu được trả theo tháng, bao gồm tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương tối thiểu ngành. Tiền lương tối thiểu chung là tiền lương tối thiểu áp dụng cho toàn xã hội, là "lưới an toàn" cho toàn bộ những người làm việc hưởng lương trong toàn xã hội. Nó là "nền" của toàn bộ hệ thống tiền lương. Tiền lương tối thiểu theo vùng là tiền lương tối thiểu dùng cho một vùng nào đó của đất nước, phụ thuộc vào nhu cầu tối thiểu của bản thân và gia đình người lao động trong vùng; mức sống chung đạt được và sự chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư; mức tiền lương, tiền công chung đạt được và yếu tố giá cả trong vùng. Ngoài các yếu tố trên, tiền lương tối thiểu theo vùng còn phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Tiền lương tối thiểu theo ngành là tiền lương tối thiểu áp dụng cho một ngành nào đó, dựa trên cơ sở mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và năng suất lao động, khả năng chi trả của doanh nghiệp và quan hệ cung cầu lao động của từng ngành và do đại diện người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận, quy định trong thoả ước lao động ngành. Nhìn chung, tiền lương tối thiểu phải phản ánh mức sống tối thiểu của người lao động làm công ăn lương trong từng thời kỳ nhất định. Do kinh tế xã 11
- hội ngày càng phát triển, mức sống của người lao động ngày càng cao đòi hỏi tiền lương tối thiểu ngày càng phải tăng để đảm bảo đời sống cho những người trong diện hưởng lương tối thiểu. 1.1.2. Vai trò của tiền lương tối thiểu Vai trò của tiền lương tối thiểu sớm được khẳng định trong Công ước số 26 ngày 30/5/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đây có giá trị như một văn bản pháp quy đầu tiên về việc luật pháp hoá các quy chế xây dựng mức lương tối thiểu của các nước thành viên. Tổ chức lao động quốc tế cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho người lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội" [41]. Hội nghị Quốc tế của ILO họp ở Thái Lan (tháng 12/1990) đã khẳng định vai trò cần thiết của việc thiết lập chế độ tiền lương tối thiểu trong các nước, nhất là đối với các nước đang phát triển. Tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định là mức “sàn” thấp nhất của xã hội để trả công cho người lao động tham gia quan hệ lao động, làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường trên thị trường lao động, cho khu vực có quan hệ lao động, không phân biệt thành phần kinh tế, ngành, nghề, vùng lãnh thổ. Tiền lương tối thiểu là một trong những công cụ quan trọng quản lý vĩ mô của Nhà nước về lĩnh vực tiền lương, tiền công và lao động, việc làm nhằm đảm bảo vai trò điều tiết của Nhà nước và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp. Chính sách tiền lương tối thiểu được coi là một trong những biện pháp của Nhà nước nhằm chống nghèo đói, ngăn cản bần cùng hóa dưới mức cho phép và thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, tuỳ từng nơi, từng lúc, vai trò của tiền lương tối thiểu được thể hiện khác nhau, nhưng có vai trò chủ yếu như sau: - Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn đối với người lao động. Người sử 12
- dụng lao động không được trả công thấp hơn mức lương tối thiểu, nên loại trừ sự bóc lột thậm tệ có thể xảy ra đối với những người làm công, ăn lương trước sức ép mức cung quá lớn của thị trường sức lao động. - Bảo đảm sức mua cho các mức tiền lương khác trước sự gia tăng của lạm phát và các yếu tố kinh tế xã hội khác thông qua việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu. - Giảm bớt sự đói nghèo. Vì vậy việc xác định tiền lương tối thiểu được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tiến công trực tiếp vào đói nghèo của một quốc gia. - Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi phí các yếu tố sản xuất tới mức không thoả đáng trong đó có tiền lương. Luật tiền lương tối thiểu buộc các chủ doanh nghiệp phải tìm mọi cách khác để giảm chi phí và tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh. - Bảo đảm sự trả công tương đương cho những công việc tương đương. Luật tiền lương tối thiểu ở mức độ nào đó là sự điều chỉnh quan hệ về tiền lương trong các nhóm người lao động mà ở đó tiền lương không được tính đúng mức (phụ nữ - nam giới, tiền lương ở các vùng khác nhau, giữa các đẳng cấp, nhóm lao động khác nhau). - Phòng ngừa sự xung đột giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, vì tiền lương tối thiểu là công cụ của nhà nước trong việc điều tiết thu nhập giữa giới chủ và người lao động. Tóm lại, mục tiêu có tính khái quát đặt ra của tiền lương tối thiểu là nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong đó phải tạo điều kiện để tự do dịch chuyển lao động và khả năng thoả thuận của các bên có liên quan; đồng thời là lưới an toàn chung cho lao động xã hội. Tiền lương tối thiểu là căn cứ để xác định mức tiền công của các loại lao động góp phần điều tiết cung cầu lao động, phát triển thị trường lao động lành mạnh. 13
- Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội nhưng điểm xuất phát chưa cao, GDP bình quân đầu người, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, khả năng ngân sách còn hạn hẹp, cung cầu lao động vẫn còn mất cân đối, năng suất lao động so với khu vực và thế giới còn rất thấp, chất lượng nguồn lao động chưa cao, thì mặc dù mục tiêu đề ra của tiền lương tối thiểu là đúng đắn nhưng lại khá cao so với khả năng của nền kinh tế và trình độ phát triển xã hội. Vì vậy, ngoài các mục tiêu có tính chiến lược, cần phải có các mục tiêu cụ thể phù hợp với phát triển kinh tế và nhận thức của từng giai đoạn để có tính khả thi. 1.1.3. Đặc trưng của tiền lương tối thiểu Đặc trưng của tiền lương tối thiểu là những giá trị phản ánh bản chất của nó, đây là vấn đề có tính nhận thức đã từ lâu là mối quan tâm của Chính phủ và các tổ chức quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu xã hội của chính sách tiền lương tối thiểu là nhằm ngăn chặn bóc lột sức lao động và chống đói nghèo. Có nghĩa là lương tối thiểu đưa ra một sức mua vừa đủ để giúp người lao động có được mức sống cơ bản. Lương tối thiểu còn có mục tiêu kinh tế - đó là khuyến khích người lao động và chia sẻ các lợi ích mà tăng trưởng kinh tế mang lại. Như vậy, có thể rút ra bản chất hay đặc trưng của tiền lương tối thiểu là: - Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu tối thiểu (đủ sống) của người lao động làm công ăn lương, bao gồm nhu cầu của bản thân người lao động và gia đình họ. - Đó là sự đảm bảo xã hội cần thiết mà các bên (các chủ thể) trong quan hệ lao động (nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và các chủ thể xã hội khác) phải dựa vào nó để thương lượng, thỏa thuận và xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các bên. 14
- - Tiền lương tối thiểu vừa có mục tiêu về kinh tế vừa có mục tiêu xã hội. Từ đó, việc xác định mức tiền lương tối thiểu phải tính đến các yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội, để đảm bảo vai trò, chức năng của tiền lương tối thiểu trong kinh tế thị trường phát huy một cách hiệu quả nhất. Xuất phát từ thực tiễn, Bộ luật Lao động Việt Nam năm 1994 đã nâng tầm quan trọng của tiền lương tối thiểu lên đúng vị trí của nó, để chính thức luật hóa thể hiện ở một số đặc trưng của tiền lương tối thiểu: - Một là, tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất, người lao động không cần qua đào tạo nghề cũng có thể làm được và làm việc trong điều kiện lao động bình thường không có hại cho sức khỏe của người lao động; - Hai là, mức lương tối thiểu phải đủ để mua những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết bù đắp sức lao động giản đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng phù hợp với mức sống chung của xã hội; - Ba là, được dùng làm cơ sở để tính các mức lương cho các loại lao động khác nhau; - Bốn là, mức lương tối thiểu (chung, vùng, ngành) do Chính phủ quyết định và công bố sau khi tham khảo ý kiến của đại diện người lao động và người sử dụng lao động; - Năm là, được điều chỉnh theo giá sinh hoạt, mức độ tăng trưởng của nền kinh tế và cung cầu lao động trên thị trường từng thời kỳ. 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương tối thiểu 1.1.4.1. Tình hình cung cầu lao động và mức lương trên thị trường lao động Tình hình cung cầu lao động có tác động không nhỏ đến mức tiền lương tối thiểu. Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi cung về lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân 15