Luận văn Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_viet_nam_ve_thoa_thuan_trong_tai_thuong_m.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG THỊ LAN HƢƠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG THỊ LAN HƢƠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý HÀ NỘI - 2011
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ THỎA 5 THUẬN TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại 5 1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại 5 1.1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại 7 1.1.3. Các hình thức tổ chức trọng tài 10 1.2. Khái quát chung về thỏa thuận trọng tài thương mại 15 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận trọng tài 15 1.2.2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp 20 thương mại Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG 22 TÀI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỎA THUẬN TRỌNG TÀI TRÊN THỰC TẾ Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài 22 2.1.1. Hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận 24 trọng tài 2.1.2. Những quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận trọng tài 25 thương mại 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam 47 2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt 47 1
- Nam thông qua một số vụ việc điển hình 2.2.2. Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng 62 các quy định của thỏa thuận trọng tài Chương 3: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG 68 MẠI (2010) VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM 3.1. Luật Trọng tài thương mại và những điểm mới so với Pháp 68 lệnh Trọng tài thương mại 2003 3.1.1. Sự cần thiết ra đời Luật Trọng tài thương mại 68 3.1.2. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại so 69 với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 3.2. Điểm mới về pháp luật thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam theo 74 Luật Trọng tài thương mại 3.2.1. Về định nghĩa thỏa thuận trọng tài 74 3.2.2. Về hình thức của thỏa thuận trọng tài 75 3.2.3. Về thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên tổ 77 chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết 3.2.4. Về thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không thể thực 77 hiện được 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thỏa 78 thuận trọng tài trong thực tiễn ở Việt Nam 3.3.1. Lựa chọn hình thức trọng tài phù hợp 78 3.3.2. Thỏa thuận trọng tài đơn giản và chính xác 79 3.3.3. Sử dụng ngôn ngữ trọng tài 79 3.3.4. Lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài 80 3.3.5. Lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp 81 3.3.6. Sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu 81 2
- KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 3
- MỞ ĐẦU 1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Quan hệ kinh tế quốc tế cùng với mối quan hệ về chính trị, ngoại giao, văn hóa là những nhân tố quan trọng cấu thành nên bức tranh tổng thể về quan hệ quốc tế ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Nó ra đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động quốc tế, bao gồm một hệ thống đa dạng và phong phú các hoạt động như: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ Cùng với xu thế toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế nói chung, hoạt động kinh tế quốc tế đang đạt được bước phát triển mạnh chưa từng thấy mang tính thời đại sâu sắc và sẽ còn tiếp tục được bổ sung, phát triển hơn nữa bởi những nhân tố mới trong tương lai. Trong bối cảnh đó, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết nhanh chóng, hiệu quả nhằm bảo đảm cho các hoạt động đó được diễn ra một cách liên tục và thuận tiện. Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ, quá trình liên doanh, liên kết, tự do hợp đồng ngày càng phát sinh nhiều các mâu thuẫn, bất đồng, sự ra đời của trọng tài trong điều kiện đó như là một hệ quả tất yếu, góp phần quan trọng trong việc đa dạng hóa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội giao dịch thương mại với các đối tác nước ngoài nên đã làm quen và sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhiều hơn trước. Nhưng các doanh nghiệp vẫn còn e ngại khi chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp thuộc lĩnh vực thương mại, một mặt do hiểu biết hạn chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam còn nhiều bất cập. Mặc dù vậy, với tốc độ phát triển như hiện nay 4
- của kinh tế thị trường, giới luật gia quốc tế và trong nước đều cho rằng giải quyết tranh chấp thương mại qua Trọng tài thương mại là một phương thức có nhiều ưu điểm, ngày càng ưa chuộng và phát triển. Cùng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu, các tranh chấp thương mại đang phát sinh ngày càng nhiều với tính chất phức tạp ngày càng cao. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp đang được sử dụng để tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời làm giảm sự quá tải về số lượng vụ việc cho hệ thống tòa án. Tổng thư ký Tòa án Trọng tài Quốc tế (ICC) Jason Fry đã khẳng định trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, lựa chọn có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài có giá trị trung thẩm Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng: Đây là con đường mà các doanh nghiệp nước ngoài tin tưởng và các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tin tưởng và lựa chọn. Chính vì vậy mà hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài thương mại đang được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu trong nỗ lực tạo điều kiện để phát triển trọng tài thương mại nói riêng và hỗ trợ có hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại nói chung ở nước ta. Thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài kể từ lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một phần không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Sự cần thiết hoàn thiện các chế định pháp lý về thỏa thuận trọng tài do đó cũng là một yêu cầu tất yếu và là hạt nhân quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý về Trọng tài thương mại. Thực tiễn pháp luật và áp dụng pháp luật về Trọng tài thương mại ở Việt Nam cho thấy, nhiều doanh nghiệp còn chưa đánh giá đúng vai trò của 5
- thỏa thuận trọng tài nên trong quá trình soạn thảo, ký kết thỏa thuận trọng tài còn nhiều thiếu sót dẫn đến những tranh chấp không đáng có về thỏa thuận trọng tài. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài còn có nhiều hạn chế, bất cập nên đã gây nhiều cản trở cho hoạt động đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài thương mại và làm giảm tính hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Đây cũng chính là lý tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này nhưng cũng chỉ nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về trọng tài thương mại, bản chất thỏa thuận trọng tài cũng như thực trạng về thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài của Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại. Trước tiên, nghiên cứu về khái quát trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài thương mại, thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại. Sau đó tập trung nghiên cứu đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thỏa thuận trọng tài thương mại. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương 6
- pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại ở Việt Nam; Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại thông qua một số ví dụ cụ thể; Thứ ba: Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thỏa thuận trọng tài thương mại ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài. Chương 3: Những điểm mới của Luật trọng tài Thương mại, pháp luật thỏa thuận trọng tài. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam. 7
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm trọng tài thƣơng mại Thực tiễn thương mại trên thế giới đã chứng tỏ rằng, trọng tài là một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp. Phương thức này đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới. Khái niệm trọng tài được nghiên cứu dưới rất nhiều bình diện khác nhau trong khoa học pháp lý và hiện nay cũng có rất nhiều cách tiếp cận về khái niệm này. Trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp là cách tiếp cận chủ yếu của hệ thống các quy định pháp luật về trọng tài. Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường" thì Trọng tài làm một phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên. Theo Luật mẫu của UNCITRAL - một văn bản nhiều nước tiếp nhận khi xây dựng luật trọng tài thì: Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của tổ chức. Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) thì: Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành. Theo cuốn "Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do GS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ 8
- biên thì Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó. Theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế thì: Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp có liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu [2]. Tuy nhiên, trọng tài thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài kinh tế vì hoạt động thương mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu một cách ngắn gọn thì trọng tài thương mại trước hết phải là một trong những hình thức trọng tài, chức năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh chấp thương mại. Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm này: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp lệnh này quy định" [34, Khoản 1, Điều 2]. Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng là cách tiếp cận khá phổ biến, ví dụ như theo từ điển tiếng Việt thì trọng tài là " Người được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp". Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định pháp luật, theo cuốn Danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là "một chế định cử tư nhân giải quyết sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp" [18]. 9
- Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài, nhưng tựu chung lại, có thể nhìn nhận trọng tài thương mại với hai tư cách: Một là, Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp; Hai là, Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp. 1.1.2. Đặc điểm trọng tài thƣơng mại * Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tại song song với Tòa án. Pháp luật tôn trọng quyền tự do lựa chọn của các bên, khi có tranh chấp trong thương mại phát sinh, các chủ thể có thể lựa chọn hoặc Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, đưa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án không được thụ lý và sẽ trả lại đơn kiện và vụ tranh chấp đó sẽ do trọng tài giải quyết. Trong tương quan so sánh với Tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước, Trọng tài thương mại có những đặc trưng riêng khác hẳn với Tòa án, cụ thể là: Một là, với hình thức là một Trung tâm Trọng tài thì trọng tài là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại; còn với hình thức là trọng tài vụ việc (ad- hoc) thì trọng tài là một tổ chức lâm thời do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết một vụ việc tranh chấp cụ thể. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là viên chức Nhà nước và cũng không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà nhân danh "quyền lực tư"để ra các phán quyết. 10
- Hai là, thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương mại cụ thể không tự nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp. Pháp luật quy định, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Có thể nói, chính các chủ thể tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp của mình đã trao quyền được xét xử vụ việc cho trọng tài. Ba là, phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như Tòa án nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết của trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một hoặc các bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ quan cưỡng chế của riêng mình để cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để cưỡng chế thi hành. Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, tồn tại độc lập, song song với Tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên lựa chọn. * Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tồn tại song song với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn ADR. Trọng tài và các phương thức ADR, nói chung là các phương thức giải quyết ngoài tòa án, không cạnh tranh với toàn 11
- án mà tòa án, trọng tài ADR là các phương thức bổ sung lẫn nhau. Thực tế, trọng tài không thể phát triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng của tòa án quốc gia. Trọng tài đã trở thành phương thức được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại được hiểu là phương thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài; và trọng tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Tại Việt Nam, trọng tài theo đúng nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp chỉ ra đời từ năm 1993 trên cơ sở Quyết định số 204-TTg củ thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 về việc thành lập trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất. Trọng tài do chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trọng tài là người hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra các phán quyết bắt buộc để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên. Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Đối với trọng tài thường trực trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận thủ tục tố tụng riêng, ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng phải tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra. 12
- Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đương sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp ), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc đối với các bên). 1.1.3. Các hình thức tổ chức trọng tài Với tư cách là tổ chức giải quyết tranh chấp trọng tài thường được biết đến với hai hình thức phổ biến là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế). * Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết. Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế. 13
- Vì vậy, khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc tố tụng nào, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và đúng pháp luật. Hoạt động của của trọng tài vụ việc rất linh hoạt, phù hợp với những tranh chấp đơn giản. Trọng tài viên do các đương sự thỏa thuận lựa chọn không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có. Thông thường trọng tài viên được chọn có thể là các thương gia có tu nghiệp pháp lý hay các luật sư làm việc cho các công ty, họ không chỉ nắm vững kiến thức về luật pháp mà còn rất am hiểu về hoạt động thương mại. Thỏa thuận trọng tài vụ việc thường được thiết lập khi tranh chấp đã xảy ra cho nên thường là phù hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh chấp. Thời gian giải quyết tranh chấp nhanh chóng theo sự định đoạt của đương sự, họ có toàn quyền trong việc xác định quy chế tố tụng. Tuy nhiên, để soạn thảo được các thỏa thuận trọng tài vụ việc đòi hỏi các bên phải có luật sư chuyên gia tư vấn pháp lý có chuyên môn trong lĩnh vực trọng tài. Giữa các bên tranh chấp có sự thiện chí, hợp tác chặt chẽ. Mặt khác, do tính chất không ổn định, không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết vụ việc tranh chấp của trọng tài vụ việc là không cao. Sự khác biệt cơ bản giữa nước ta với nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có lịch sử trọng tài tồn tại khá lâu đó là ngay từ khi xuất hiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, họ đã thừa nhận có hai hình thức tổ chức trọng tài là trọng tài adhoc và trọng tài thường trực. Ở Việt Nam, trước khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 ra đời, chưa từng có trọng tài vụ việc. Mặc dù đã có một số văn bản điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thương mại với nước ngoài thừa nhận trọng tài adhoc trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế như: Luật đầu tư nước ngoài 1987; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 1991 nhưng chưa có văn bản pháp luật nào về trọng tài quy định về trọng tài vụ việc. Do vây trên thực tế hình thức trọng tài này hầu như không tồn tại. 14
- Ưu điểm của hình thức Trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế là là quyền tự định đoạt của các bên lớn hơn, chi phí cho tố tụng trọng tài thấp và thời gian giải quyết nhanh. Tuy nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn chế nhất định, hạn chế lớn nhất là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng. Mặt khác trong quá trình tố tụng cũng không có tổ chức nào giám sát nên kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các trọng tài viên. Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức Trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là sự hỗ trợ của Tòa án. * Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) Khác với trọng tài ad - hoc, trọng tài thường trực luôn tồn tài không phụ thuộc vào tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên. Trọng tài thường trực được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến vẫn là các Trung tâm Trọng tài. Có thể kể tên các Trung tâm Trọng tài nổi tiếng như: Tòa án trọng tài quốc tế (IAC) thuộc Phòng Thương mại quốc tế (ICC) có trụ sở tại Paris (Pháp); Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA); Trọng Tài quốc tế Singapore; Trọng Tài quốc tế Hồng Kông; ở Việt Nam có Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC và một số trung tâm khác. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định. Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản về hình thức trọng tài này như sau: 15
- Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Thể hiện: - Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước. - Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước. - Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết. - Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới. Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể: - Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. - Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định. 16
- Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện: - Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này. - Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín. Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm. Có thể nói ưu điểm lớn nhất trọng tài quy chế so với trọng tài vụ việc là có quy tắc tố tụng chi tiết từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này đảm bảo trong mọi trường hợp tranh chấp sẽ được giải quyết, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài hay không. Ưu điểm thứ hai là hầu hết các tổ chức trọng tài đều có những chuyên gia hỗ trợ cho quá trình trọng tài. Họ đảm bảo cho Hội đồng Trọng tài sẽ được thành lập, các khoản phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đôn đốc đúng thời hạn Bên cạnh đó, trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất 17
- định, mà hạn chế lớn nhất đó là tốn kém nhiều chi phí vì ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các Trung tâm trọng tài. Nhược điểm thứ hai của Trọng tài quy chế là với những vụ việc cần giải quyết nhanh chóng hoặc vụ việc đơn giản thì quá trình tố tụng thường bị kéo dài mà các bên tranh chấp và Hội đồng trọng tài vẫn bắt buộc phải tuân theo do phải tuân thủ các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng. 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận trọng tài Thỏa thuận trọng tài thương mại là thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các bên kí kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài. Bản chất của trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Điều này khác với việc các bên tranh chấp yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Tòa án, cơ quan đương nhiên có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp trong nước nào (chỉ trừ khi các bên có thỏa thuận khác). Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên tranh chấp có thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, điều này đồng nghĩa với việc thỏa thuận trọng tài là điều kiện tiên quyết để tiến hành tố tụng trọng tài. Theo quy định của pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới, thỏa thuận trọng tài có những đặc điểm sau: * Đặc điểm về nội dung của thỏa thuận trọng tài Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Việc xác lập nội dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài đều 18