Luận văn Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_viet_nam_ve_quyen_tu_do_tin_nguong_ton_gi.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ QUANG HƯNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Quang Hưng
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO 6 1.1. Khái lược về các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 6 1.1.1. Đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam 6 1.1.2. Các tôn giáo ở Việt Nam 9 1.2.3. Tín ngƣỡng dân gian 12 1.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế 13 1.2.1. Khái niệm tôn giáo 13 1.1.2. Quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế 14 1.3. Quan điểm của pháp luật Việt Nam về tự quyền do tôn giáo 23 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 27 Chương 2: QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 28 2.1 Quá trình phát triển trong các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 28 2.1.1. Giai đoạn 1945 - 1954 28 2.1.2. Giai đoạn 1954 - 1975 29 2.1.3. Giai đoạn 1975 - 1986 29 2.1.4. Giai đoạn từ 1986 đến trƣớc khi ban hành Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo (2004) 30 2.1.5. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo 2004 đến nay 31
- 2.2. Nội dung quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 32 2.3. Thực tiễn vận dụng pháp luật và những tồn tại trong quy định của pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 37 2.3.1. Một số nội dung chƣa đƣợc quy định trong Pháp lệnh 38 2.3.2. Một số nội dung quy định thiếu cụ thể, không phù hợp với thực tiễn 40 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 43 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO, TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO 44 3.1. Tính cấp thiết của việc sửa đổi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 trong tình hình hiện nay 44 3.2. Yêu cầu đặt ra khi sửa đổi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 46 3.3. Kiến nghị sửa đổi cụ thể một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 47 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 65 KẾT LUẬN 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là một trong những quyền dân sự và chính trị cơ bản của con ngƣời đƣợc ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời và trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo (hiện có 13 tôn giáo trong đó có các tôn giáo lớn là Thiên chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo ). Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân, Hiến pháp Việt Nam dù sửa đổi nhiều lần, trải qua các thời kỳ đều khẳng định quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân - xem đây là một trong những quyền cơ bản của công dân cần phải đƣợc tôn trọng và bảo vệ. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân luôn là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta, không những đƣợc nêu rõ ở những quan điểm, chủ trƣơng, các văn bản pháp lý mà còn đƣợc bảo đảm trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo vệ và phát triển quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân luôn đƣợc ƣu tiên trong chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, trở thành một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân cũng đƣợc tôn trọng và bảo đảm đầy đủ bởi các cơ quan Nhà nƣớc và của toàn xã hội. Thực tiễn cho thấy vẫn còn hiện tƣợng hạn chế, thu hẹp thậm chí vi phạm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân; môṭ số chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về tự do tín ngƣỡng, tôn giáo chƣa đƣợc cụ thể hoá kịp thời thành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền này; việc kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân còn chƣa kịp thời, thiếu kiên quyết. Mặt 1
- khác, nghiên cứu khoa học về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân ở Việt Nam chƣa đƣợc thƣờng xuyên quan tâm nên chúng ta vẫn chƣa xây dựng đƣợc một hệ thống các quan điểm lý luận khoa học hoàn chỉnh và đồng bộ về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới; chƣa kịp thời cung cấp cho Đảng, Nhà nƣớc những luận cứ khoa học để hoạch định đúng đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. Việc nghiên cứu những vấn đề bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo có vai trò, ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện hệ thống các quan điểm lý luận khoa học về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo; là cơ sở để nghiên cứu bổ sung, sửa đổi những quy định pháp luật chƣa phù hợp để bảo đảm đƣợc quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân. Với đề tài: “Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo" tác giả mong muốn làm rõ cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, thực trạng các quy định pháp luật bất cập trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân ở Việt Nam. Đồng thời, đƣa ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập để tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín, ngƣỡng tôn giáo là một vấn đề lớn, liên quan đến việc nghiên cứu về lịch sử lập pháp, quyền con ngƣời, đối tƣợng nghiên cứu liên quan nhiều vấn đề nhạy cảm là tín ngƣỡng, tôn giáo cũng nhƣ các quan điểm, đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc trong việc chỉ đạo, xây dựng pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ có 2
- đề cập đến quyền tự do tín ngƣỡng tôn giáo, hoặc đề cập đến một phần các vấn đề còn sơ hở, thiếu sót của quy định pháp luật liên quan đến quyền tự do tín ngƣỡng tôn giáo nhƣ: quy định pháp luật về đất đai liên quan đến tôn giáo, hoạt động xây dựng cơ sở thờ tự; giải quyết các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, cơ sở vật chất liên quan đến tôn giáo Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: - Ngô Phƣơng Bá (1998), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb KHXH, Hà Nội; - Lại Đức Hạnh (1999), Đạo Tin lành - Những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự ở Việt Nam hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Công an, Hà Nội; - Nguyễn Văn Thắng (1999), Vấn đề an ninh, quốc phòng trong lĩnh vực tôn giáo, dân tộc, đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, Hà Nội; - Trần Minh Thƣ (2004), Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; - Nguyễn Tiến Trọng (2007), Quy định pháp luật hiện hành về đất đai liên quan đến tôn giáo, thực trạng và giải pháp, đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Công an, Hà Nội; - ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh (2010), "Quyền tự do tôn giáo ở Mỹ và một số giá trị phổ biến có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam", đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các vấn đề trong quy định hiện hành của pháp luật về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo kể tƣ̀ khi có Pháp lêṇ h tín ngƣỡng , tôn giáo năm 2004 và các Nghị định hƣớng dẫn nhƣ: Nghị định 22/2005/NĐ-CP và Nghị định 92/2012-NĐ-CP ngày 08/11/2012. 3
- 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Với đề tài: „„Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” tác giả nêu đƣợc thực trạng những vấn đề bất cập trong quy định pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam từ khi có Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004 đến nay. Qua đó, tác giả đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập để tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam - Nêu bật đƣợc thực trạng những vƣớng mắc trong việc áp dụng thực hiện Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo, những quy định còn bất cập nêu trong Nghị định hƣớng dẫn thực hiện Pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo. - Đề xuất sửa đổi, bổ sung, làm rõ những vấn đề quy định còn chƣa rõ ràng, có thể hiểu nhiều cách khác nhau dẫn đến bất cập, khó khăn trong công tác quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ hạn chế quyền tự do tín ngƣỡng tôn giáo của công dân. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý nƣớc ta về đánh giá pháp luật, những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo một cách tƣơng đối toàn diện và có hệ thống. Đề tài phản ánh những vấn đề thực tiễn, cập nhật những thuận lợi, khó khăn liên quan đến bảo vệ quyền tự do tín ngƣỡng tôn giáo theo pháp luật Việt Nam kể từ khi có Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004 đến nay. Phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật không còn phù hợp, 4
- những quy định cần bổ sung, điều chỉnh và hƣớng dẫn lại để công tác áp dụng pháp luật đạt đƣợc hiệu quả, bảo vệ tốt nhất quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Quy định của pháp luật Việt Nam về đến quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. - Thực trạng vận dụng pháp luật bảo vệ quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo từ khi có Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2004 và các Nghị định hƣớng dẫn thực hiện Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo đến nay. 6. Nội dung, thời gian, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu - Quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo theo quy định pháp luật Việt Nam; - Thực trạng những quy định còn bất cập của pháp luật Việt Nam liên quan đến tôn giáo gây khó khăn trong việc áp dụng bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo; - Một số kiến nghị sửa đổi Pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo 2004 và Nghị định 92/2012/NĐ-CP để bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6.2 Thời gian, địa điểm nghiên cứu - Thời gian: từ năm 2005 đến nay. - Không gian: Ở Việt Nam. 6.3 Phương pháp nghiên cứu - Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. - Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng trong đề tài gồm: + Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp tài liệu; + Phƣơng pháp thống kê, so sánh; + Phƣơng pháp chuyên gia. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO 1.1. Khái lược về các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngƣỡng. Ngƣời dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngƣỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều có những tín ngƣỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế - xã hội và tâm linh của mình. 1.1.1. Đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại. Một số tôn giáo đã đƣợc du nhập từ lâu đời, song có cũng có những tôn giáo nội sinh mới xuất hiện. Do chịu ảnh hƣởng của những đặc điểm tự nhiên, lịch sử, chính trị, văn hóa xã hội, tôn giáo ở Việt Nam có một số đặc điểm sau: - Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, đa tín ngưỡng; Nƣớc ta nằm giữa ngã ba Đông Nam Á, là nơi giao lƣu giữa nhiều luồng tƣ tƣởng, văn hoá khác nhau. Hơn nữa, bản tính ngƣời Việt vốn cởi mở, khoan dung nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngƣỡng, tôn giáo khác nhau. Do vậy, ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức tôn giáo, tín ngƣỡng từ sơ khai đến hiện tại, từ tôn giáo phƣơng Đông cổ đại đến phƣơng Tây cận, hiện đại. Tất cả đã và đang cùng tồn tại bên cạnh tín ngƣỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc khác nhau. Bên cạnh những tôn giáo lớn “ngoại nhập” nhƣ Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Tin lành ở Việt Nam còn có những tôn giáo lớn “nội sinh” nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo Hiện nay, nƣớc ta có 13 tôn giáo lớn đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận về mặt tổ chức gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa hảo, Hồi giáo, Tịnh độ cƣ sĩ Phật hội, Tứ Ân hiếu nghĩa, đạo BaHa’i, Bà La Môn, Minh Chơn 6
- đạo, Minh Lý đạo, Bửu Sơn Kỳ Hƣơng. Ngoài ra một số tà đạo hoạt động không theo sự quản lý của cơ quan chức năng nhƣ Đạo Chân không, tà đạo Dƣơng Văn Mình Bên cạnh đó, Việt Nam còn có hệ thống tín ngƣỡng dân gian hết sức đa dạng nhƣ tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngƣỡng thờ thần, thờ mẫu Tuy không có một tổ chức quy củ nhƣng vẫn tồn tại nhƣ một tục lệ, một thói quen. Ở những vùng miền khác nhau, các dân tộc khác nhau còn có những hình thức tín ngƣỡng đặc thù của vùng mình, dân tộc mình. Nhìn chung, tín ngƣỡng dân gian Việt Nam hƣớng niềm tin vào các lực lƣợng siêu nhiên (các vị thần), các vị anh hùng dân tộc. - Các tôn giáo đều đã được Việt Nam hóa, tồn tại đan xen, hòa đồng, dung hợp cùng tín ngưỡng truyền thống Các tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam để có thể tồn tại và phát triển đƣợc đều có sự biến đổi, thích nghi phù hợp với phong tục, tập quán, cũng nhƣ tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân bản địa. Điều này thể hiện trong quan niệm, giáo lý cũng nhƣ sinh hoạt tôn giáo thƣờng ngày của tín đồ. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang nƣớc ta từ rất sớm nhƣng vẫn tồn tại song song cùng nhau một cách hòa bình cùng với tín ngƣỡng bản địa mà không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo nào. Một số tôn giáo lớn nhƣ Công giáo và nhất là Hồi giáo vốn coi thƣờng phụ nữ, nhƣng khi du nhập vào Việt Nam đã có sự thay đổi ít nhiều cho phù hợp với vai trò của ngƣời phụ nữ và sự nhìn nhận, đánh giá của xã hội đối với họ. Trong sinh hoạt tôn giáo, thờ phụng của tín đồ, ngay cả đối với những ngƣời theo Đạo Thiên chúa, ngoài tôn giáo của mình, họ vẫn có tục lập bàn thờ tổ tiên để thể hiện lòng thành kính, hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ thể hiện nét đặc trƣng độc đáo trong văn hóa ngƣời Việt. Ở một số vùng nông thôn, các nghi lễ tôn giáo vẫn tuy vẫn đƣợc tiến hành một các đều đặn song đã 7
- có những biến tƣớng, thay đổi phù hợp với trình độ nhận thức, cách nghĩ, cách làm của tín đồ. Nói chung, sự thay đổi mang tính chất thích nghi này tạo điều kiện cho các tôn giáo tồn tại và phát triển ngày càng lớn mạnh, củng cố đƣợc vị trí, vai trò vững chắc trong xã hội Việt Nam. - Thần thánh hóa anh hùng dân tộc, những người có công với gia đình, làng, nước là một nét đặc trưng trong tín ngưỡng truyền thống Xuất phát từ truyền thống dựng và giữ nƣớc với lịch sử chống giặc ngoại xâm lâu dài, Việt Nam có rất nhiều vị anh hùng dân tộc, có công với dân, với nƣớc. Hơn nữa, với lòng tín mộ, sự suy tôn cá nhân cùng đức tính yêu nƣớc, trọng tình của ngƣời dân Việt Nam, tín ngƣỡng, tôn giáo ở nƣớc ta cũng luôn mang trong mình tinh thần “uống nƣớc nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ngƣời dân Việt Nam, qua bao thế hệ đã lập đền thờ các danh nhân, anh hùng ở khắp nơi. Có thể kể đến nhƣ Đền thờ Hùng Vƣơng (Lâm Thao - Phú Thọ), đền thờ Gióng (Gia Lâm - Hà Nội), hay đền thờ Trần Hƣng Đạo, Hai Bà Trƣng Nhìn chung, những ngƣời có công với gia đình, làng xóm, đất nƣớc đều đƣợc ngƣời Việt Nam tôn vinh, sùng kính và thần thánh hóa để cầu khẩn sự phù hộ và tìm sự che chở trong bản thân gia đình và cộng đồng. - Ở Việt Nam không có tôn giáo nào được công nhận là quốc đạo Tại Việt Nam, Phật giáo là tôn giáo có số tín đồ lớn nhất (gần 20 triệu ngƣời) và những ngƣời không theo tôn giáo nào nhƣng chịu ảnh hƣởng hoặc có niềm tin nội tâm sâu sắc và cảm tình với Phật giáo nhƣ: việc thờ cúng tổ tiên, đi lễ chùa các ngày rằm, mùng một Âm lịch, các ngày lễ, Tết Nguyên đán Tuy Phật giáo là tôn giáo lớn nhất cùng tồn tại với 12 tôn giáo khác, song ở Việt Nam, không có tôn giáo nào đƣợc công nhận là quốc đạo. Các tôn giáo đều bình đẳng, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng đề ra chủ trƣơng, chính sách tôn giáo nhằm tạo điều 8
- kiện tốt nhất, công bằng nhất cho tất cả các tôn giáo cùng phát triển phục vụ mục tiêu xây dựng đất nƣớc, xây dựng XHCN ở Việt Nam. - Sinh hoạt tôn giáo: Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo đƣợc tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc đƣợc thực hiện theo quy định của giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã đƣợc công nhận tƣ cách pháp nhân trong những năm qua đều có sự phát triển về số lƣợng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chƣơng, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành đƣợc tham gia học tập, đào tạo ở trong nƣớc và nƣớc ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nƣớc ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nƣớc ngoài đã vào giao lƣu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam. Việt Nam đã hai lần tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc vào năm 2008 và 2014 với sự tham gia của gần 4.000 đại biểu chính thức trong đó có gần 2.000 đại biểu đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ và hơn 200 Việt Kiều từ các châu lục cùng hàng vạn tăng, ni, phật tử trong nƣớc 1.1.2. Các tôn giáo ở Việt Nam Trên địa bàn cả nƣớc hiện có 13 tôn gịáo với 36 tổ chức tôn giáo và 01 pháp môn tu hành đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với gần 24 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nƣớc), 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, 25.331 cơ sở thờ tự [6]. Trong đó: - Phật giáo: Đạo Phật đƣợc truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bƣớc phát triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc. Thời Lý - Trần (từ đầu thế kỷ XI 9
- đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông là ngƣời sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông truyền vào phía nam của Việt Nam từ thế kỷ IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Phật giáo có khoảng 11 triệu tín đồ; 46.699 chức sắc, nhà tu hành; 14.778 cơ sở thờ tự; 37 cơ sở đào tạo chức sắc (4 Học viện, 8 lớp Cao đẳng, 32 trƣờng Trung cấp Phật học). - Công giáo: Nhiều nhà nghiên cứu sử học Công giáo lấy năm 1533 là thời mốc đánh dấu việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam. Từ năm 1533 đến năm 1614, chủ yếu là các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền buôn vào Việt Nam. Từ năm 1615 đến năm 1665, các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma- cao (Macau, Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (nam sông Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Đến nay, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam có khoảng 6.2 triệu tín đồ; 4.044 chức sắc, 7.500 chức việc; 3 Tổng giáo phận, 26 giáo phận, 3.000 giáo xứ, 6.000 giáo họ; 9.000 cơ sở thờ tự; 7 Đại chủng viện (9 cơ sở đào tạo). - Tin Lành: Đạo Tin lành có mặt tại Việt Nam muộn hơn so với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do tổ chức Liên hiệp Phúc âm Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance- CMA) truyền vào. Năm 1911 đƣợc xem là thời mốc xác nhận việc truyền đạo Tin lành vào Việt Nam. Hiện, Tin lành có: 10 tổ chức, hệ phái đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận và cấp đăng ký hoạt động với khoảng hơn 1 triệu tín đồ; 436 mục sƣ, 306 mục sự nhiệm chức, 458 truyền đạo; 455 chi hội, 4.409 điểm nhóm; 351 nhà thờ Tin Lành; có 02 Viện Thánh kinh thần học tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. 10
- - Đạo Hồi: Ở Việt Nam, tín đồ đạo Hồi chủ yếu là ngƣời Chăm. Theo tƣ liệu lịch sử, ngƣời Chăm đã biết đến đạo Hồi từ thế kỷ X-XI. Có hai khối ngƣời Chăm theo đạo Hồi: một là, khối ngƣời Chăm theo đạo Hồi ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo cũ hay còn gọi là Chăm Bà-ni; hai là, khối ngƣời Chăm theo đạo Hồi ở Châu Đốc (An Giang), thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai là khối đạo Hồi mới hay còn gọi là Chăm Islam. Hiện nay Đạo Hồi ở Việt Nam có 6 tổ chức đƣợc công nhận, với khoảng 75.000 tín đồ, 770 chức sắc, 79 cơ sở thờ tự (40 thánh đƣờng, 22 tiểu thánh đƣờng cùng với 17 chùa). - Đạo Cao Đài là một tôn giáo bản địa. Giữa tháng 11/1926 (ngày 15/10 năm Bính Dần), những chức sắc đầu tiên của đạo Cao Đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén - Tây Ninh chính thức cho ra mắt đạo Cao Đài. Hiện nay, Cao Đài có: 10 hệ phái Cao Đài đƣợc đã Nhà nƣớc công nhận về mặt tổ chức. Bên cạnh đó, còn có 01 pháp môn tu hành và trên 20 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập; khoảng 2.4 triệu tín đồ; trên 10.000 chức sắc; gần 20.000 chức việc; hơn 1.200 cơ sở thờ tự. - Phật giáo Hòa Hảo: Là một tôn giáo bản địa do ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo vào ngày 18/5 năm Kỷ Mão (ngày 4/7/1939) tại làng Hòa Hảo, tỉnh An Giang. Hiện nay Phật giáo Hòa Hảo có khoảng l,3 triệu tín đồ, 3.200 chức việc, hơn 500 giáo sỹ, 94 chùa, 50 hội quán, 399 Tòa đọc giảng. - Tịnh độ Cƣ sĩ Phật hội Việt Nam có: 206 hội quán, mỗi hội quán có phòng thuốc Nam phƣớc thiện, hiện diện ở 21 tỉnh, thành, phố từ Khánh Hòa tới Cà Mau với gần 900 lƣơng y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3.000 ngƣời làm công việc chế biến thuốc; gần 1,5 triệu tín đồ, 4.800 chức sắc, chức việc, 350.000 hội viên. - Tôn giáo Baha’i có gần 7.000 tín đồ, 369 chức sắc, chức việc sinh, hoạt ở 93 cộng đồng thuộc 43 tỉnh, thành phố. 11
- Năm tôn giáo khác gồm: Bửu Sơn Kỳ Hƣơng, Tứ Ấn Hiếu Nghĩa, Minh Sƣ đạo, Minh Lý đạo, Bà La Môn đã đƣợc các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận về tổ chức. Ngoài ra còn có hàng trăm các tổ chức, hệ phái, nhóm tôn giáo khác chƣa đƣợc công nhận về tổ chức và hơn 60 các hiện tƣợng tôn giáo mới (tiền tôn giáo) đáng chú ý là có cả các nhóm hiện tƣợng tôn giáo (tà đạo) làm ảnh hƣởng đến đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, văn hóa của nhân dân. 1.2.3. Tín ngưỡng dân gian Với quan niệm cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên ngƣời xƣa đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nông nghiệp nhƣ trời, trăng, đất, rừng, sông, núi để đƣợc phù hộ. Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngƣỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trƣng nhất là các hình thái tín ngƣỡng nguyên thủy và tín ngƣỡng dân gian ngày nay còn lƣu giữ đƣợc trong các nhóm dân tộc nhƣ nhóm Tày-Thái, nhóm Hmông-Dao; nhóm Hoa-Sán Dìu-Ngái; nhóm Chăm-Ê đê-Gia Rai; nhóm Môn - Khơ me. Bên cạnh đó, một phong tục tập quán lâu đời phổ biến nhất của ngƣời Việt và một số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những ngƣời đã mất. Ở các gia đình ngƣời Việt, nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên và việc cúng giỗ, ghi nhớ công ơn của các bậc tiền nhân rất đƣợc coi trọng. Bên cạnh việc cúng giỗ tổ tiên ở từng gia đình, dòng họ, nhiều làng ở Việt Nam có đình thờ thành hoàng. Tục thờ thành hoàng và ngôi đình làng là đặc điểm độc đáo của làng quê Việt Nam. Thần thành hoàng đƣợc thờ trong các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có nhiều công lao to lớn nhƣ những ông tổ làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có công “khai công lập quốc”, chống giặc ngoại xâm. Ngoài ra, ngƣời Việt còn thờ các dạng thần nhƣ thần bếp, thần thổ công 12
- Theo thống kê hiện nay có 95% dân số nƣớc ta có đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo. Cả nƣớc hiện có gần 8000 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo, 10 lễ hội du nhập từ nƣớc ngoài vào, hơn 40 lễ hội khác [15]. 1.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế 1.2.1. Khái niệm tôn giáo Từ “tôn giáo” trong tiếng Anh là “religion”, có nguồn gốc của nó từ tiếng Latinh là “relegare” hoặc “relegere”. Từ “relegare” biểu thị “buộc lại với nhau”, “liên kết với nhau”, hàm chứa ý nghĩa “đoàn kết” hoặc “liên kết hữu nghị”; từ “relegere” biểu thị “luyện tập lặp đi lặp lại”, “thực hành khắc khổ”, nói chung là chỉ đặc điểm lặp đi lặp lại của nghi thức tôn giáo [8, tr.61]. Còn theo nhà nghiên cứu tôn giáo Việt Nam Đặng Nghiêm Vạn, thuật ngữ “Tôn giáo” ngày nay, tiếng Latinh có gốc từ thuật ngữ “legere”, tiếng Anh là “religion”, có nghĩa là thu lƣợm thêm sức mạnh siêu nhiên. Ông còn chỉ rõ: Những thuật ngữ để chỉ các khái niệm khoa học nói chung thƣờng xuất phát từ phƣơng Tây, một số đƣợc dịch qua chữ Hán. Các thuật ngữ trong lĩnh vực tôn giáo cũng không thoát khỏi quy luật đó. Khi không gian xã hội mở rộng ra toàn cầu, khi tiếp cận với những nền văn minh ngoài châu Âu, vì tính thống nhất nhƣng đa dạng của loài ngƣời, các nhà khoa học cố gắng thay đổi nội dung các thuật ngữ cho bao quát đƣợc tất cả, để tránh chủ nghĩa trung tâm châu Âu. Tuy nhiên, nhiều tác giả châu Âu khi nghiên cứu châu Âu, vẫn dùng thuật ngữ với nội dung thích hợp với châu Âu. Do vậy, những định nghĩa các khái niệm thƣờng chƣa thống nhất. Tuy nhiên, ta buộc phải dùng các thuật ngữ đó vì tính phổ biến, nhƣng cần mở rộng hay thu hẹp cho đúng với thực tiễn đối tƣợng đƣợc nghiên cứu. Tuy ta có thuật ngữ đạo, thờ cúng, nhƣng vẫn phải dùng thuật ngữ tôn giáo [38, tr.14] Nội hàm của thuật ngữ này cũng có một quá trình biến đổi. Hiện nay, 13
- có nhiều quan niệm, quan điểm và cách định nghĩa khác nhau về tôn giáo. Tôn giáo có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. C. Mác có luận điểm nổi tiếng cho đến nay vẫn còn gây tranh cãi, đó là: “Sự nghèo nàn của tôn giáo, vừa là sự biểu hiện của khốn cùng hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống nhƣ nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[19, tr.570]. Lê nin coi “câu nói đó của Mác là hòn đá tảng của toàn bộ quan điểm của Mác về vấn đề tôn giáo”[36, tr.511]. Có thể nói rằng, không có gì gắn kết con ngƣời với nhau chặt chẽ nhƣ tôn giáo, nhƣng có lẽ cũng không có gì làm chia rẽ, phân ly các cộng đồng, quốc gia, dân tộc và giữa con ngƣời với con ngƣời một cách đáng sợ nhƣ tôn giáo. Tính đa dạng và những đòi hỏi của hệ thống Công ƣớc quốc tế về quyền tự do tôn giáo và điều kiện của mỗi quốc gia đang đặt ra những thách thức mới trong việc giải quyết mối quan hệ tôn giáo với pháp quyền ở mỗi nƣớc. 1.1.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế Quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, đƣợc ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời cũng nhƣ trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này trong hệ thống pháp luật của mình. Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ra đời khá sớm trong lịch sử loài ngƣời. Trong lịch sử thời kỳ cổ đại, trung đại hay các chế độ quân chủ phong kiến đều dựa trên một tôn giáo chính thống để làm nền tảng ổn định xã hội. Trong khi đó, vấn đề bạo lực, khủng bố, kết tội tôn giáo hoặc 14
- chiến tranh tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Vì vậy, nhu cầu lớn đầu tiên trong quyền tự do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi cá nhân có thể đi theo một tín ngƣỡng, tôn giáo riêng hay thay đổi tôn giáo mà không sợ bị chính phủ phạt tội hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù. Quan niệm về tự do tôn giáo đƣợc hình thành ở châu Âu gắn liền với các cuộc cách mạng tƣ sản thế kỷ XVII - XVIII. Nhà tƣ tƣởng John Locke đã đặt nền móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là của xã hội. Vai trò của nhà nƣớc không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính mình và cách tốt nhất là hãy để cá nhân mỗi ngƣời tự lựa chọn tôn giáo cho mình. Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần dần trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập đến tự do, song chƣa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tƣ tƣởng, tự do tôn giáo, song cũng chƣa đề cập một cách cụ thể: “Mỗi ngƣời đều đƣợc phát biểu tƣ tƣởng tự do, về tôn giáo cũng vậy, miễn là những tƣ tƣởng phát biểu đó không làm tổn thƣơng đến nền trật tự công cộng đã đƣợc pháp luật ấn định phân minh”. Luật Phân ly nổi tiếng của nƣớc Pháp năm 1905 cũng đề cập đến vấn đề tự do thờ cúng. Nhƣ vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ngày 10-12-1948, thì tự do tôn giáo mới trở thành một quyền mang tính quốc tế. Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo đƣợc ghi nhận trong một số văn bản chính trị bao gồm các văn bản mang tính chất tuyên ngôn nhƣ: Hiến chƣơng của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về 15
- nhân quyền năm 1948; các văn bản mang tính chất pháp lý nhƣ: Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong đó, Hiến chƣơng của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền là những văn bản tuy không có tính ràng buộc pháp lý, nhƣng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc và định hƣớng đạo lý, chính trị của quyền con ngƣời nói chung, quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo nói riêng. Công ƣớc là văn bản có tính ràng buộc pháp lý, bao gồm các nội dung cụ thể về quyền con ngƣời và các quốc gia thành viên chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với văn kiện này. Theo đó, quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế bao gồm các nội dung: tự do có, theo hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngƣỡng do mình lựa chọn; tự do bày tỏ tín ngƣỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những ngƣời khác, công khai hoặc không công khai dƣới các hình thức nhƣ thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. - Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945 tại phần mở đầu, đã tuyên bố: “Khẳng định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ” [26, tr.128]. Khoản 3, Điều 1 (Chƣơng I) đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo theo hƣớng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [26, tr.132]. Điều 55, Mục c (Chƣơng IX, Hợp tác quốc tế về kinh tế và xã hội) ghi nhận Liên hợp quốc khuyến khích: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo” [26, tr.138]. - Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR) đƣợc Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948, gồm Lời nói đầu và 16