Luận văn Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng

pdf 107 trang vuhoa 25/08/2022 7400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_viet_nam_ve_dai_dien_trong_quan_he_hop_do.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ HOÀNG YẾN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ HOÀNG YẾN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG Chuyờn ngành : Luật Kinh tế Mó số : 603850 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cương Hà nội – 2012 0
  3. MỤC LỤC Mục lục 2 Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 4 MỞ ĐẦU 5 Chƣơng 1: KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN 11 1.1 Khái niệm 11 1.1.1 Khái niệm đại diện 11 1.1.2 Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng 16 1.2 Phân loại 18 1.2.1 Đại diện theo pháp luật 19 1.2.2 Đại diện theo ủy quyền 20 1.3 Đặc điểm 26 1.3.1 Bên đại diện hành động với danh nghĩa bên đƣợc đại diện 26 hoặc với danh nghĩa của mình 1.3.2 Bên đại diện hành động vì lợi ích của bên đƣợc đại diện 28 1.3.3 Ngƣời đại diện hành động trong phạm vi đại diện 29 1.4 Vai trò và ý nghĩa của chế định đại diện 30 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ 34 ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG 2.1 Nguồn luật điều chỉnh đại diện trong quan hệ hợp đồng 34 2.2 Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện 36 trong quan hệ hợp đồng 2.2.1 Chủ thể đại diện trong quan hệ hợp đồng 36 2.2.2 Phạm vi đại diện trong quan hệ hợp đồng 54 2.2.3 Thời điểm xác lập, chấm dứt đại diện trong quan hệ hợp đồng 67 2.3 Những tranh chấp thực tế liên quan đến đại diện trong quan 73 1
  4. hệ hợp đồng 2.3.1 Tranh chấp về chủ thể trong đại điện trong quan hệ hợp đồng 73 2.3.2 Tranh chấp về xác định thời hạn ủy quyền 82 2.3.3 Tranh chấp về phạm vi đại diện 83 2.3.4 Tranh chấp về hình thức pháp lý của quan hệ đại diện 85 Chƣơng 3: CƠ SỞ VÀ ĐỊNH HƢỚNG GIẢI PHÁP HOÀN 88 THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG 3.1 Cơ sở hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng 88 3.2 Định hƣớng giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện 90 trong quan hệ hợp đồng 3.2.1 Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ 90 hợp đồng 3.2.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan 91 hệ hợp đồng KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 2
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự CTCP : Công ty cổ phần CTHD : Công ty hợp danh CTTNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân HTX : Hợp tác xã LCK : Luật chứng khoán LDN : Luật doanh nghiệp TGĐ : Tổng giám đốc THT : Tổ hợp tác TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán UBND : Ủy ban nhân dân 3
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài - Trong cuộc sống, nhu cầu của con ngƣời về các lĩnh vực khác nhau không ngừng tăng lên, theo đó sự chuyên môn hoá sản xuất, phân phối các sản phẩm cũng hình thành và phát triển. Khi đó, để tự đáp ứng nhu cầu của mình, giữa các chủ thể đã diễn ra sự trao đổi hàng hoá, các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng là thiết lập nên các loại hợp đồng khác nhau. Nhƣ vậy, Hợp đồng chính là nền tảng cho mọi giao dịch trong xã hội. Tuy nhiên, do đặc tính xã hội nên mỗi chủ thể khi tồn tại trong xã hội sẽ phải cùng lúc tham gia rất nhiều giao dịch khác nhau. Tự bản thân họ không thể trực tiếp tham gia, thiết lập và thực hiện tất cả các hợp đồng. Chính khi đó đã thúc đẩy một loại hoạt động đặc thù - hoạt động đại diện ra đời, mà cụ thể hơn chính là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Bằng hoạt động đại diện này, các chủ thể có thể dễ dàng hơn trong việc giải quyết và đảm bảo thực hiện tổng hoà các giao dịch liên quan đến cuộc sống của họ. - Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại hình đại diện khác nhau và đƣợc quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật. Nhƣng nhƣ đã trình bày ở trên, hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng là loại đại diện diễn ra phổ biến hơn và có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống hiện đại so các hoạt động đại diện khác. Và đồng thời, loại đại diện này cũng mối quan hệ chặt chẽ với các chế định khác nhƣ: Chế định hợp đồng, chế định bồi thƣờng thiệt hại, các vấn đề liên quan đến công ty,. . - Các quy định pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu xót. Đặc biệt khi Việt Nam đang trên đà hội nhập nhƣ hiện nay, nhiều quy định pháp luật liên quan còn chƣa thể hiện đƣợc xu hƣớng chung của thế giới, chƣa phù hợp với một số quan điểm pháp lý phổ 4
  7. biến, đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới ghi nhận và thực hiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong quan hệ hợp đồng, từ đó rút ra những hạn chế, bất cập và đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết. - Các tranh chấp liên quan đến đại diện trong quan hệ hợp đồng rất phổ biển. Cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để giải quyết và hạn chế phần nào các tranh chấp liên quan. Trên cơ sở những lý do trên, với đề tài “Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng” tác giả mong muốn luận văn sẽ nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp đồng, xem xét cụ thể các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó đƣa ra cái nhìn toàn diện về những hạn chế, thiếu xót của hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang tính hoàn thiện để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quan hệ hợp đồng luôn là một đề tài đƣợc nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm. Hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng là một phần quan trọng của chế định hợp đồng, theo đó cũng nằm trong những vấn đề cần nghiên cứu của các công trình, bài viết liên quan đến đề tài hợp đồng. Ví dụ: một số sách, bài viết chuyên ngành nghiên cứu về chế định hợp đồng nhƣ: “Pháp luật về hợp đồng” của TS Nguyễn Mạnh Bách (1995), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Dƣơng Đăng Huệ (2002), “Chế định hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không tồn tại” của GS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), “Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng” (2004), “Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) và vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị 5
  8. (2005), “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu, . Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về chế định đại diện thì chƣa có, chỉ có rất ít bài viết chuyên ngành về vấn đề này nhƣ: “Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê Thị Bích Thọ, “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS Ngô Huy Cƣơng, Và mới đây nhất là Luận án tiến sĩ “Đại diện cho thƣơng nhân theo pháp luật thƣơng mại Việt Nam hiện nay” của Hồ Ngọc Hiển (tháng 5/2012) và một số khóa luận tốt nghiệp của các cử nhân luật của trƣờng Đại học Luật và Khoa Luật - ĐHQGHN. Có thể thấy, tuy vấn đề đại diện trong quan hệ hợp đồng không phải là vấn đề mới, nhƣng các công trình khoa học liên quan chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề này trong cái tổng thể, lớn hơn là quan hệ hợp đồng, chế định đại diện chung hay trong phạm vi hẹp hơn về chế định đại diện cho thƣơng nhân trong Luật thƣơng mại. Nhƣ vậy, trên thực tế chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện, mang tính hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp đồng nhằm đƣa ra cơ sở khoa học, phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này. Tuy vậy, các công trình nói trên là những tài liệu quý giá cho tác giả tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Luận văn này sẽ nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đại diện trong quan hệ hợp đồng, và từ đó đƣa ra những phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. 3. Mục đích - nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất định hƣớng các giải pháp 6
  9. hoàn thiện pháp luật về đại diện nói chung và về đại diện trong quan hệ hợp đồng nói riêng, góp phần làm cho những quy định pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng có tính thực tiễn cao hơn, giải quyết và hạn chế tốt hơn các tranh chấp liên quan và góp phần vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhiệm vụ: * Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định đại diện * Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Từ đó đƣa ra những đánh giá về ƣu, nhƣợc điểm của những quy định pháp luật cụ thể này. * Đề xuất các quan điểm, phƣơng hƣớng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện trong quan hệ hợp đồng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những vấn đề lý luận khái quát về chế định đại diện; những quy định pháp luật cụ thể về đại diện trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại; và tình hình thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật về lĩnh vực này. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu các khía cạnh của đại diện trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu về đại diện cho các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại. Trên cơ sở những nghiên cứu này sẽ đƣa ra những nhận định sâu sắc, từ đó góp phần vào việc phát triển quan hệ hợp đồng (có hoạt động đại diện) trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay. Chế định đại diện là một chế định rất rộng, bao gồm nhiều loại đại diện khác nhau nhƣ: Đại diện trong hợp đồng (có thể là hợp đồng dân sự, hợp đồng 7
  10. trong kinh doanh thƣơng mại, ), đại diện tham gia tố tụng, đại diện theo pháp luật của ngƣời chƣa thành niên, đại diện thƣơng nhân và đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣ: BLDS 2005, Luật thƣơng mại 2005, Luật doanh nghiệp 2005 . Vì vậy việc giới hạn phạm vi nghiên cứu nhằm hạn chế việc mở rộng đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, tránh sự dàn trải, không tập trung. Luận văn giới hạn nghiên cứu chỉ ở hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại và những quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này, vì theo tác giả, đại diện trong quan hệ hợp đồng là loại hoạt động đƣợc áp dụng rất nhiều trong thực tế và theo đó thực trạng của nó rất đa dạng, cũng nhƣ rất nhiều tranh chấp phát sinh từ hoạt động này (nhiều hơn các loại hoạt động đại diện khác). Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, thƣơng mại và các quy định pháp luật về lĩnh vực này từ đó đƣa ra những nhận định mang tính lý luận và những biện pháp mang tính thực tiễn là một việc làm rất cần thiết. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Tác giả sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm, đƣờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. - Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh luật học, phƣơng pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chế định đại diện và cụ thể là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Từ đó luận giải về một số những vấn đề cơ bản và đƣa ra cách nhìn mới về những vấn đề này. 8
  11. - Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh về đại diện trong quan hệ hợp đồng. Trên cơ sở chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế, luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho quan hệ hợp đồng (có hoạt động đại diện) cũng nhƣ hạn chế phần nào những tranh chấp liên quan có thể xảy ra. - Trên cơ sở nghiên cứu xu hƣớng phát triển và thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở một số nƣớc và Việt Nam, luận văn đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng ở Việt Nam. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Khái luận về chế định đại diện Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Đại diện trong quan hệ hợp đồng Chương 3: Cơ sở và định hƣớng giải pháp hoàn thiện pháp luật về Đại diện trong quan hệ hợp đồng Trƣớc khi đi vào nội dung chính của Luận văn, tác giả thống nhất về mặt sử dụng thuật ngữ ngắn gọn để thuận tiện cho quá trình phân tích và luận giải. Thuật ngữ “hợp đồng” dùng thay cho “hợp đồng trong kinh doanh, thƣơng mại”; thuật ngữ “đại diện trong quan hệ hợp đồng” dùng thay cho “đại diện trong quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại”; thuật ngữ “Bộ luật dân sự” thay cho “Bộ luật dân sự 2005”; thuật ngữ “Luật thƣơng mại” thay cho “Luật thƣơng mại 2005”. 9
  12. Chƣơng 1 KHÁI LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN Cùng với sự tiến bộ, phát triển không ngừng của loài ngƣời, con ngƣời ngày càng mở rộng hơn nữa về các loại hình quan hệ xã hội. Và các quan hệ về kinh tế thƣơng mại cũng không phải là ngoại lệ. Theo guồng quay phát triển kinh tế, một cá nhân chủ thể hay một tổ chức để có thể duy trì sự tồn tại của mình và thúc đẩy hơn nữa các tiềm năng bản thân, họ phải tham gia cùng lúc nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Có những quan hệ xã hội đòi hỏi phải do chính chủ thể trong quan hệ xác lập. Những cũng có những quan hệ có thể hình thành mà không cần thiết chính các chủ thể phải tự mình tham gia. Đây chính là một nét thể hiện sự nhạy bén của xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng. Với những quan hệ xã hội phải do chính các chủ thể tự mình xác lập, tác giả sẽ không đƣa ra bàn luận trong cuốn Luận văn này. Nội dung mà tác giả muốn hƣớng đến đó là những quan hệ xã hội mang tính linh hoạt cao, thể hiện sự kết hợp một cách hiệu quả giữa các chủ thể thông qua một hình thức pháp lý, một công cụ pháp lý hữu hiệu là quan hệ đại diện. Có phải quan hệ đại diện diễn ra một cách phổ biến, tùy hứng và đƣợc các bên chủ thể lựa chọn ngẫu nhiên không? Câu trả lời sẽ dần đƣợc giải đáp trong các phần nội dung khác nhau mà tác giả sẽ trình bày dƣới đây trong nội dung cuốn Luận văn này. Trƣớc hết, để có thể hiểu sâu sắc về quan hệ đại diện, các nội dung của đại diện hay đơn giản chỉ là để hiểu đại diện là gì, Luận văn sẽ trình bày về nội dung đầu tiên đó là Khái luận về Đại diện. 1.1. KHÁI NIỆM 1.1.1. Khái niệm đại diện Trong đời sống xã hội nói chung và đời sống dân sự nói riêng, trong phần lớn quan hệ pháp luật các chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch. 10
  13. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, các cá nhân, tổ chức không thể tự mình tham gia vào các giao dịch nhất định. Đó là khi cá nhân gặp các vấn đề về sức khỏe, hay vì một số lý do do đặc thù công việc của cá nhân, cũng có thể xuất phát từ yêu cầu công việc cần thực hiện đòi hỏi trình chuyên môn chuyên biệt, . Hay xuất phát từ nguyên nhân chủ thể không thể đảm bảo điều kiện để tham gia các giao dịch theo quy định của pháp luật nhƣ: Ngƣời chƣa thành niên, ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, . Lúc này, họ cần đến sự hỗ trợ về mặt chủ thể để thay mặt họ tham gia vào các quan hệ pháp luật. Hay chính là họ sử dụng những “ngƣời giúp đỡ” thực hiện hành vi với bên thứ ba “vì họ”, “theo tài khoản của họ” nhƣ những “ngƣời đƣợc ủy quyền” hoặc “trong lợi ích của họ” [32]. Và pháp luật đã tạo ra một công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết vấn đề này, đó là chế định đại diện. Đại diện là một chế định lớn, xuyên suốt đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật thực định, và đƣợc quy định cụ thể nhất trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Mở rộng tầm nhìn ra hệ thống văn bản pháp luật của các nƣớc khác trên thế giới, chúng ta sẽ thấy những cách nhìn nhận, quy định có phần khác biệt của các Bộ luật dân sự lớn về khái niệm đại diện. Mặc dù trong những BLDS này không đƣa ra khái niệm đại diện một cách trực tiếp. Nhƣng qua cách quy định gián tiếp ta cũng có thể hiểu đƣợc đại diện là gì. Trong BLDS Pháp quy định về một số nội dung của hợp đồng ủy quyền, tại điều 389-3 có đƣa ra “ngƣời quản lý theo pháp luật đối với tài sản của ngƣời chƣa thành niên đại diện cho ngƣời chƣa thành niên trong mọi giao dịch dân sự”, hay tại điều 1984 “hợp đồng ủy quyền là hợp đồng trong đó một ngƣời trao cho ngƣời khác quyền thực hiện một công việc nhân danh và vì lợi ích của ngƣời ủy quyền [2]. Qua những quy định này có thể thấy theo tinh thần của BLDS Pháp thì đại diện chính là việc một ngƣời thay ngƣời khác thực hiện công việc của ngƣời đó, vì lợi ích và nhân danh ngƣời đó. 11
  14. Cùng chung với quan điểm này, trong BLDS Thái Lan 1995 cũng đƣa ra quy định: “Hợp đồng uỷ quyền là một hợp đồng mà trong đó một ngƣời gọi là ngƣời thụ uỷ đƣợc quyền hành động cho một ngƣời khác gọi là ngƣời chủ uỷ và ngƣời đó chấp thuận làm nhƣ vậy” [3]. Tuy không đƣa ra một khái niệm cụ thể về hoạt động đại diện nhƣng các quy định kể trên đã thể hiện đƣợc tinh thần, nội dung cốt lõi của khái niệm đại diện. Không phải là ngoại lệ, cùng với tinh thần đó BLDS Việt Nam 2005 đã đƣa ra khái niệm cụ thể về đại diện: “Đại diện là việc một ngƣời (sau đây là ngƣời đại diện) nhân danh và vì lợi ích của ngƣời khác (sau đây là ngƣời đƣợc đại diện) xác lập và thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Từ khái niệm đại diện đƣợc quy định trong BLDS Việt Nam 2005 và những quan điểm về đại diện đƣợc thể hiện trong các BLDS lớn, ta có thể rút ra khái niệm đại diện: Đại diện là việc một người (người đại diện) thay mặt người khác (người được đại diện) thực hiện một số hành vi nhất định vì lợi ích hợp pháp và trong sự cho phép của người đó. Từ những phân tích khái niệm đại diện trên có thể nhận định Đại diện là một quan hệ pháp lý đƣợc cấu thành từ nhiều quan hệ pháp lý khác nhau. Cụ thể: 1. Quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện: Đây là quan hệ “nội bộ”, không có hiệu lực pháp lý đối với bên ngoài. 2. Quan hệ pháp lý giữa người đại diện và người thứ ba trong quan hệ giao dịch cũng là quan hệ “nội bộ” mang tính phụ thuộc, phái sinh từ quan hệ thứ nhất. 3. Quan hệ giữa người được đại diện và người thứ ba là quan hệ chủ yếu, phát sinh từ giao dịch do người đại diện xác lập. [13, tr. 292] 12
  15. Qua ba quan hệ pháp lý cấu thành kể trên, có thể thấy rõ nội dung của một quan hệ đại diện. - Quan hệ thứ nhất đề cập đến khía cạnh tƣơng tác về quyền và nghĩa vụ giữa ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện. Việc ngƣời đƣợc đại diện giao cho ngƣời đại diện những “công việc” gì, phạm vi công việc đến đâu hay ngƣời đại diện đƣợc hƣởng những quyền lợi gì từ việc thực hiện đại diện là yếu tố “nội bộ”, là nội dung chỉ tác động đến ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện, hoàn toàn không ảnh hƣởng đến bên ngoài, đến các chủ thể khác. Bên thứ ba khi giao kết hợp đồng với ngƣời đƣợc đại diện thông qua ngƣời đại điện không cần biết và cũng không có nghĩa vụ phải biết giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện thỏa thuận những nội dung gì. Điều duy nhất bên thứ ba cần quan tâm đó là ngƣời đại diện có “quyền hạn” nhƣ thế nào trong giao dịch với mình. - Quan hệ thứ hai là một quan hệ phái sinh từ quan hệ thứ nhất. Nếu nhƣ trong quan hệ thứ nhất, ngƣời đƣợc đại diện giao cho ngƣời đại diện những “công việc” cụ thể và phạm vi của những công việc đó, thì quan hệ thứ hai chính là sự cụ thể hóa những nội dung đó của quan hệ thứ nhất. Mọi hoạt động nằm trong quan hệ pháp lý thứ hai sẽ diễn ra theo giới hạn và nội dung cụ thể đƣợc thỏa thuận trong quan hệ pháp lý thứ nhất. Tuy nhiên, thực tế luôn luôn đa dạng. Và việc quan hệ pháp lý thứ hai diễn ra vƣợt quá phạm vi mà quan hệ pháp lý thứ nhất vạch ra là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Lúc này, sự tƣơng tác giữa quan hệ pháp lý thứ nhất và quan hệ pháp lý thứ hai sẽ dẫn đến sự xuất hiện của quan hệ pháp lý mấu chốt nhất - quan hệ pháp lý thứ ba. - Quan hệ pháp lý thứ ba - Quan hệ giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời thứ ba là quan hệ mấu chốt, cần đƣợc quan tâm nhất. Có thể nhận định nhƣ vậy bởi lẽ bản chất của hoạt động đại diện là việc một ngƣời “thực hiện thay” ngƣời khác một công việc nhất định đối với ngƣời thứ ba. Và hậu quả cần 13
  16. quan tâm nhất phát sinh từ hoạt động đại diện chính là ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời thứ ba sẽ có trách nhiệm với nhau nhƣ thế nào từ hoạt động đại diện của ngƣời đại diện. Chứ không phải là ngƣời đại diện sẽ có nghĩa vụ gì với bên thứ ba vì ngƣời đại diện chỉ là “làm thay” mà thôi. Hay có thể nói theo một cách khác, chính việc một ngƣời xác lập một giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền cho phép lại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự của ngƣời khác (ngƣời đƣợc đại diện) là điểm đặc biệt, là cơ sở phân biệt chế định đại diện với các chế định pháp lý tƣơng tự khác. Có thể thấy rõ sự khác biệt này của chế định đại diện qua những so sánh cụ thể sau: - Khác với ngƣời đại diện, ngƣời nhận bán hàng ký gửi, đại lý dù xác lập giao dịch cho ngƣời ký gửi, ngƣời đại lý nhƣng nhân danh mình, không phải nhân danh ngƣời ký gửi, ngƣời đại lý. Vì vậy, giữa ngƣời ký gửi, ngƣời đại lý và ngƣời mua không có quan hệ pháp lý. Mọi quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh trong loại hợp đồng này đều chỉ phát sinh đối với ngƣời nhận ký gửi, ngƣời nhận đại lý và ngƣời mua. - Đối với giao dịch vì lợi ích của ngƣời thứ ba thì các bên cũng nhân danh mình xác lập, không phải nhân danh ngƣời thứ ba. Hơn nữa, trong một số trƣờng hợp, ngƣời xác lập giao dịch vì lợi ích của ngƣời thứ ba cũng có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó. - Khác với đại diện, ngƣời đƣa tin không xác lập giao dịch mà chỉ truyền đạt ý chí của một bên đến đối tác. - Nếu không có hợp đồng ủy quyền thì bản thân việc tƣ vấn ký kết hợp đồng không phải là đại diện. Ngƣời thực hiện dịch vụ tƣ vấn chỉ hỗ trợ về mặt pháp lý để hợp đồng do các bên ký kết đúng pháp luật, thể hiện đúng ý chí đích thực của các bên. [13, tr. 293] 14
  17. Qua khái niệm và những phân tích kể trên về quan hệ đại diện có thể thấy chế định đại diện là một chế định quan trọng, đƣợc sử dụng nhƣ là một kênh “hỗ trợ” trong hầu hết các chế định khác. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp nhất định do đặc thù riêng nên một số loại quan hệ, giao dịch không thể đƣợc xác lập thông qua đại diện. Cụ thể: Với những giao dịch mà tính chất của giao dịch chỉ cho phép tự mỗi cá nhân thể hiện ý chí, tự mình bày tỏ ý chí thì sẽ không đƣợc xác lập giao dịch thông qua đại diện (ví dụ nhƣ hành vi lập di chúc, ủy quyền, .). Hay trong các lĩnh vực có tính chất tƣơng tự pháp luật dân sự nhƣ việc ký kết hợp đồng lao động của vị thành niên, việc kết hôn, nhận con nuôi thì trong những trƣờng hợp này pháp luật quy định các chủ thể phải tự mình thực hiện, không thể thực hiện thông qua ngƣời đại diện. 1.1.2. Khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng Đại diện là một hình thức pháp lý đƣợc áp dụng trong nhiều giao dịch, quan hệ khác nhau. Trong số đó, quan hệ hợp đồng là một quan hệ mà hành vi đại diện đƣợc sử dụng rất phổ biến. Có rất nhiều lý do cho nhận định này. Trƣớc hết, cũng giống nhƣ các quan hệ dân sự khác, khi chủ thể trong quan hệ hợp đồng không đủ điều kiện về mặt pháp lý để tự mình tham gia. Có thể do chủ thể không đảm bảo điều kiện về năng lực hành vi (Ngƣời chƣa thành niên, ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự), . Lúc này, các chủ thể sẽ cần một ngƣời thay mình ký kết cũng nhƣ thực hiện hợp đồng mà không trái với quy định pháp luật - Đó chính là ngƣời đại diện. Hay cũng có thể do chủ thể trong quan hệ là các pháp nhân, tổ chức. Theo đó, ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân, tổ chức sẽ đại diện cho pháp nhân, tổ chức tham gia vào các nội dung của quan hệ hợp đồng. Và một lý do nữa cho nhận định kể trên, đó là khi các chủ thể trong quan hệ hợp đồng không thể tự mình thiết lập hợp đồng do các khía cạnh liên quan đến hợp 15
  18. đồng đòi hỏi phải có những hiểu biết chuyên sâu. Lúc này, các chủ thể sẽ lựa chọn cách thức thông qua một ngƣời am hiểu chuyên môn (Luật sƣ, chuyên gia, ) để thay mặt mình ký kết hợp đồng, đảm bảo tối đa quyền lợi cho chủ thể. Và còn nhiều lý do khác nữa Xuất phát từ những nguyên nhân này, hoạt động đại diện trong quan hệ hợp đồng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Cũng giống nhƣ đại diện trong các lĩnh vực khác, bản chất của đại diện trong quan hệ hợp đồng cũng là việc một người thay người khác thực hiện những công việc nhất định, trong phạm vi mà người đó cho phép và vì lợi ích của người đó. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt đó loại đại diện mà tác giả muốn đƣa ra bàn luận ở đây là đại diện trong quan hệ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng rất đa dạng và phong phú. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả muốn hƣớng tới nhóm các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, thƣơng mại. Luật thƣơng mại hay các văn bản pháp luật lĩnh vực kinh tế không đƣa ra khái niệm chính xác cho loại hợp đồng này. Nhƣng qua quy định tại Điểm b Tiểu mục 1.1 Mục 1 - Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Từ đó có thể thấy các “tranh chấp khác về kinh doanh thương mại” ở đây chính là các tranh chấp giữa một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhƣng đều có mục đích lợi nhuận, hay nói cách khác tranh chấp kinh doanh thƣơng mại không bắt buộc phải tuân thủ điều kiện về chủ thể là phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đảm bảo yếu tố là các bên đều có mục đích lợi nhuận. Qua quy định này, có thể hiểu hợp đồng trong kinh doanh, thƣơng mại là hợp đồng giữa các bên vì mục tiêu lợi nhuận, trong đó có ít nhất một bên là thƣơng nhân, còn bên còn lại có thể là các tổ chức không có đăng ký kinh doanh, chỉ cần thỏa mãn có đủ năng lực chủ thể. 16
  19. Nhƣ vậy, trong nhóm hợp đồng, chủ thể của nó hoặc bắt buộc đều là thƣơng nhân, hoặc một trong hai bên phải là thƣơng nhân. Vì vậy, trong từng trƣờng hợp cụ thể, không phải bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng có thể là ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện. Ngoài ra, công việc nhất định đƣợc làm thay ở đây phải là các hoạt động thƣơng mại, các công việc nhằm mục đích lợi nhuận. Các công việc đó đƣợc biểu hiện qua quy trình đàm phán, ký kết, thực hiện và thanh lý hợp đồng. Tại mục 2, điều 2.2.1 Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thƣơng mại quốc tế 2004 cũng đƣa ra quy định cụ thể: “mục này điều chỉnh quyền của một ngƣời ở địa vị pháp lý của một ngƣời khác trong việc làm phát sinh hậu quả liên quan tới việc ký kết hoặc thực hiện một hợp đồng với một bên thứ ba” [21]. Nhƣ vậy, có thể đƣa ra một khái niệm cụ thể: Đại diện trong quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại là việc một cá nhân, tổ chức thay mặt cho cá nhân, tổ chức khác và vì lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại trong phạm vi cá nhân, tổ chức đó cho phép. 1.2. PHÂN LOẠI Qua những nội dung trên tác giả đã làm rõ khái niệm quan hệ đại diện nói chung và khái niệm đại diện trong quan hệ hợp đồng nói riêng. Dễ dàng nhận thấy quan hệ đại diện đƣợc thiết lập do nhiều nguyên nhân khác nhau và trong nhiều trƣờng hợp khác nhau. Tƣơng ứng với những trƣờng hợp đó cũng có các hình thức đại diện phù hợp. Cụ thể, theo quy định pháp luật Việt Nam có các hình thức đại diện sau: - Đại diện theo pháp luật - Theo quy định của pháp luật bao gồm cả quy định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (đại diện bắt buộc). - Đại diện theo ủy quyền - Theo hợp đồng ủy quyền (đại diện tự nguyện) 17
  20. 1.2.1. Đại diện theo pháp luật Ngay trong tên gọi đã thể hiện rõ đặc thù của hình thức đại diện này. Đây là hình thức đại diện đƣợc xác lập trên cơ sở pháp luật, mà không phải theo bất kỳ yếu tố nào khác hay do ý chí của các bên. Vậy hình thức đại diện theo pháp luật là hình thức đại diện nhƣ thế nào? Trong những trƣờng hợp nào hình thức đại diện theo pháp luật sẽ đƣợc áp dụng? Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định dựa trên các tiêu chí sau: - Do quan hệ đặc biệt giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện mà phát sinh quan hệ đại diện đƣơng nhiên (cha mẹ và con, vợ và chồng, ). - Quan hệ đại diện phát sinh trên cơ sở một quan hệ pháp lý khác: Giám hộ, quan hệ lao động, - Việc đại diện do cơ quan nhà nƣớc (chủ yếu là Tòa án) quyết định khi sự đại diện là cần thiết đối với ngƣời bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi dân sự. [13, tr.294] Nhìn từ ba tiêu chí xác lập quan hệ đại diện theo pháp luật kể trên có thể thấy bên cạnh việc thực hiện hành vi đại diện, ngƣời đại diện còn thực hiện các chức năng khác đƣợc pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời đƣợc đại diện. Ví dụ nhƣ quy định giám hộ đối với ngƣời chƣa thành niên chính là nhằm bảo vệ cho quyền lợi của ngƣời chƣa thành niên hay đảm bảo an toàn về tài sản của ngƣời đó, hay hỗ trợ các chủ thể thực hiện các hoạt động giao dịch trong trƣờng hợp chủ thể là ngƣời bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự, . Theo quy định pháp luật, dù trong lĩnh vực dân sự hay kinh doanh thƣơng mại, ngƣời đại diện trong quan hệ đại diện theo pháp luật bắt buộc 18
  21. phải là cá nhân. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa hình thức đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Theo quy định pháp luật, ngƣời đại diện theo pháp luật là “ngƣời đại diện toàn quyền”. Nhƣ vậy, đồng nghĩa là ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc phép thực hiện mọi hành vi thay ngƣời đƣợc đại diện với một điều kiện duy nhất là ngƣời đại diện phải thực hiện những hành vi đó xuất phát từ chính lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện. Ngoài ra, ngƣời đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền đại diện cho ngƣời khác. Tuy nhiên, việc ủy quyền này chỉ là ủy quyền thực hiện một hoặc một số hành vi pháp lý cụ thể trong một thời hạn nhất định chứ không phải là giao tất cả thẩm quyền đại diện cho ngƣời khác. Trong trƣờng hợp này, ngƣời đại diện vẫn phải chịu trách nhiệm trƣớc ngƣời đƣợc đại diện về việc thực hiện đúng đắn nghĩa vụ đại diện. Vấn đề đại diện theo luật đƣợc thừa nhận ở các nƣớc theo hệ thống luật dân sự, song lại không đƣợc thừa nhận ở hệ thống thông luật. Theo luật Anh - Mỹ thì ngay cả cha mẹ cũng không là đại diện đƣơng nhiên của ngƣời chƣa thành niên trong các giao dịch pháp lý. Các hợp đồng đƣợc ký với ngƣời chƣa thành niên đều không có giá trị trừ những hợp đồng “thiết yếu” cho ngƣời chƣa thành niên. Sự đồng ý của cha mẹ cũng không có ý nghĩa trong việc tạo nên hiệu lực của hợp đồng [32]. 1.2.2. Đại diện theo ủy quyền Song hành với hình thức đại diện theo pháp luật, hình thức đại diện theo ủy quyền cũng đƣợc sử dụng rất phổ biến. Theo quy định pháp luật Việt Nam, hình thức đại diện theo ủy quyền đƣợc thể hiện rất rõ nét trong hai lĩnh vực dân sự và kinh doanh, thƣơng mại. Và ở mỗi lĩnh vực, hình thức đại diện theo ủy quyền có những đặc điểm rất riêng biệt. 19