Luận văn Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_viet_nam_ve_cong_ty_hop_danh.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÙY GIANG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY HỢP DANH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÙY GIANG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY HỢP DANH Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang Hµ néi - 2012 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH 5 1.1. Sự hình thành và phát triển công ty hợp danh trên thế giới 5 1.1.1. Lịch sử hình thành công ty hợp danh trên thế giới 5 1.1.2. Khái niệm về công ty hợp danh theo pháp luật của một số 7 quốc gia 1.1.3. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh theo pháp luật một 9 số quốc gia 1.1.4. Vai trò của công ty hợp danh 21 1.2. Sự hình thành và phát triển công ty hợp danh tại Việt Nam 22 1.2.1. Lịch sử hình thành 22 1.2.2. Khái niệm và đặc điểm 26 1.2.2.1. Khái niệm 26 1.2.2.2. Đặc điểm 28 Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY HỢP DANH 30 2.1. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của công ty hợp danh 30 2.1.1. Thành lập công ty hợp danh 30 2.1.2. Thành viên 33 2.1.2.1. Thành viên hợp danh 34 2.1.2.2. Thành viên góp vốn 38 4
- 2.1.3. Vốn trong công ty hợp danh 41 2.1.3.1. Vốn điều lệ và huy động vốn 42 2.1.3.2. Vấn đề chuyển nhượng vốn, rút vốn 44 2.1.4. Tư cách pháp lý của công ty hợp danh 46 2.1.5. Cơ cấu tổ chức, quản lý trong công ty hợp danh 48 2.1.6. Giải thể, phá sản công ty hợp danh 51 2.2. Những ưu thế và hạn chế của công ty hợp danh so với các 56 loại hình công ty khác 2.2.1. Ưu thế 56 2.2.2. Hạn chế 58 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM 61 HOÀN THIỆN HƠN NỮA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH 3.1. Thực trạng về công ty hợp danh tại Việt Nam 61 3.2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về công ty 72 hợp danh KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 5
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm qua, nền kinh tế thị trường Việt Nam đã bắt nhịp được với kinh tế khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những bước tiến tích cực kể từ năm 2000 đến nay. Đặc biệt năm 2009 được đánh giá là năm thứ ba đánh dấu sự hội nhập khá toàn diện với kinh tế thế giới. Một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường nước ta là có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại song song, cụ thể Hiến pháp 1992 ghi nhận các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù Đảng và Nhà nước chủ trương ưu tiên phát triển các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, song tốc độ tăng trưởng của hai thành phần này lại thấp hơn so với kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục thống kê năm 2007, kinh tế nhà nước mặc dù chiếm một phần lớn trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội nhưng chỉ đóng góp 37-39% GDP thực tế, trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân là 45 - 47%. Sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân, một khu vực kinh tế được đánh giá là trẻ trung và năng động đã khiến cho các nhà hoạch định chính sách nói chung và chính sách pháp luật nói riêng phải gấp rút hoàn thiện chính sách của mình. Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong khu vực kinh tế tư nhân có nhiều cơ hội hơn khi lựa chọn mô hình kinh doanh cho mình, Bằng sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là việc lần đầu tiên ghi nhận thêm một loại hình doanh nghiệp mới là công ty hợp danh đã tạo thêm cơ hội cho người dân thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình. 6
- Đối với một quốc gia đang trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì môi trường pháp lý nói chung và trong hoạt động kinh doanh nói riêng vô cùng quan trọng. Chính vì vậy việc liên tục hoàn thiện chính sách pháp luật kinh tế, trong đó có pháp luật về doanh nghiệp luôn là nhiệm vụ trọng tâm. Luật Doanh nghiệp 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp 1999 đã góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Riêng đối với công ty hợp danh, từ chỗ chỉ được quy định khiêm tốn trong bốn điều khoản tại Luật Doanh nghiệp 1999, đã được nâng lên mười điều khoản trong Luật Doanh nghiệp 2005 (sửa đổi bổ sung 2009). Mô hình công ty này đã được quy định chi tiết rõ ràng hơn, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước. Tuy nhiên, những quy định ấy vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, chưa phát huy được hết những điểm mạnh vốn có của loại hình công ty này. Xét về thời gian, thì công ty hợp danh là một trong những loại hình doanh nghiệp ra đời sớm nhất trên thế giới, nhưng với Việt Nam, mới chỉ được chính thức tồn tại đúng với tên gọi của nó trong 10 năm. Tuy chưa lâu, nhưng cũng không thể coi là mới mẻ, xa lạ để các nhà đầu tư ngoảnh mặt với mô hình này, nhưng trên thực tế, số lượng công ty hợp danh đang hoạt động hiện nay quá ít. Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội, tính đến đầu năm 2007, số công ty hợp danh đang hoạt động trên toàn quốc là 31 trên tổng số 131.318 doanh nghiệp - một con số quá ít ỏi so với ưu thế của loại hình công ty này. Có rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, và một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng trên là môi trường pháp lý chưa thuận lợi, cụ thể là những quy định của pháp luật về công ty hợp danh chưa tạo được tiền đề, động lực để các nhà đầu tư thấy sự hấp dẫn khi lựa chọn mô hình này. Thậm chí có những quy định còn cản trở sự phát triển của chúng. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh" với mong muốn làm sáng tỏ những đặc điểm, bản chất pháp lý của loại hình công ty này, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm 7
- góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 2.1. Mục đích Từ sự phân tích, đánh giá thực trạng của công ty hợp danh ở nước ta hiện nay, luận văn nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản, những vấn đề bản chất của loại hình công ty này để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của công ty hợp danh và pháp luật về công ty hợp danh - Rút ra những kết luận về bản chất pháp lý của công ty hợp danh - So sánh những kết luận về bản chất pháp lý của công ty hợp danh với những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. - Phân tích vai trò, đánh giá thực trạng của công ty hợp danh và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về công ty hợp danh. 3. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, luận văn có tham khảo các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đã được công bố. - Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khái quát hóa, thống kê 4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Phân tích, đánh giá một cách toàn diện những đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh nhằm đưa ra những điểm mạnh của loại hình công ty này so với các công ty khác. 8
- - Góp phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của pháp luật về doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng cho các nhà đầu tư theo xu hướng thông thoáng và cởi mở. - Hy vọng các giải pháp mà đề tài đề xuất sẽ góp phần cung cấp thông tin và ý nghĩa cho các nhà hoạch định pháp luật cũng như các nhà đầu tư để nâng cao hơn nữa số lượng và hiệu quả hoạt động của công ty hợp danh trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập và phát triển. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Khái quát chung về công ty hợp danh. Chương 2: Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh. Chương 3: Thực trạng và những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về công ty hợp danh. 9
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH 1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY HỢP DANH TRÊN THẾ GIỚI 1.1.1. Lịch sử hình thành công ty hợp danh trên thế giới Bất kỳ một hiện tượng kinh tế nào cũng đều có quá trình hình thành và phát triển. Thời gian tồn tại có thể ngắn hoặc dài tùy thuộc điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội. Công ty là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế, là một hiện tượng kinh tế đặc biệt ra đời từ rất lâu và đem lại rất nhiều lợi ích quan trọng cho loài người. Một trong những loại hình công ty có mặt sớm nhất trong lịch sử đó là công ty hợp danh. Người ta đã tìm thấy những quy định về sự hợp danh theo nghĩa rộng trong các bộ luật thời cổ đại như Bộ luật Hammurabi của Babylon vào khoảng năm 2300 trước Công nguyên. Thuật ngữ shutolin chỉ một dạng hợp danh phi thương mại (not a commercial) xuất hiện từ năm 2000 trước Công nguyên, sau đó hình thành hợp danh thương mại từ những đoàn hội buôn Do Thái. Trong Bộ luật Justinian của đế chế La Mã thế kỷ VI, những quy định về hợp danh rất gần gũi luật hiện đại như nguyên tắc delectus personas - sự lựa chọn của cá nhân, một nguyên tắc xác định sự lựa chọn tự nguyện của các thương nhân khi cộng tác với nhau, hay nguyên tắc người thực hiện hành vi thông qua hành vi của người khác cho bản thân người đó (qui facit per alium facit per se). Ở châu Âu, Châu Á, tập quán kinh doanh của các thương nhân, sự liên kết những phường, hội người buôn là tiền đề ban đầu hình thành nên những hình thức hợp danh sau này. 10
- Từ việc kinh doanh độc lập, nhỏ lẻ, các thương nhân nhận thấy rằng để thích ứng được với sự đòi hỏi của nền sản xuất ngày càng lớn mạnh, để vươn tới chinh phục những thị trường rộng lớn và sôi động thì cách hay nhất là mở rộng quy mô kinh doanh. Muốn làm được điều này cần phải có sự liên kết với nhiều người, vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển vừa chia sẻ được rủi ro. Những nhà đầu tư riêng lẻ bắt đầu tìm cách liên kết kinh doanh để nhanh chóng tập hợp một số vốn lớn để phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất - kinh doanh, có thể giảm chi phí sản xuất thu lợi nhuận cao hơn, khả năng cạnh tranh tốt hơn, và phân tán được rủi ro. Công ty là mô hình kinh doanh nhiều chủ bắt đầu được hình thành. Ban đầu, công ty chỉ là những liên kết giản đơn của các thương nhân quen biết nhau. Sự quen biết dựa trên yếu tố nhân thân tạo nên sự tin cậy về mặt tâm lý. Do đó, loại hình công ty đầu tiên ra đời trên thế giới là công ty đối nhân, tức là công ty gồm các thành viên quen biết tin cẩn nhau liên kết lại, yếu tố con người quan trọng hơn yếu tố vốn. Tuy vậy, hạn chế của công ty đối nhân là không thể tạo ra mô hình kinh doanh với quy mô lớn, vì như vậy sẽ phá vỡ yếu tố nhân thân của thành viên. Chính vì vậy mà một loại hình công ty khác đã ra đời và đáp ứng được yêu cầu trên, đó là công ty đối vốn. Đây là loại hình công ty trong đó các thành viên chỉ quan tâm đến phần vốn góp của mỗi người mà ít quan tâm đến nhân thân của nhau. Đặc điểm quan trọng của công ty đối vốn là sự tách bạch giữa tài sản công ty với tài sản cá nhân. Thông thường công ty đối vốn được chia thành hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân là không có sự tách bạch tài sản công ty với tài sản cá nhân. Các dạng của công ty đối nhân gồm công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn giản và công ty hợp vốn theo cổ phần. Như vậy công ty hợp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là loại hình công ty ra đời sớm nhất trên thế giới. 11
- Yếu tố nhân thân của thành viên hợp danh được coi trọng hàng đầu khi thành lập công ty, trong đó người ta thường chú tâm tới tổng tài sản dân sự hơn là số vốn góp vào công ty. Đối với bên thứ ba, việc định danh các thành viên là rất quan trọng khi thực hiện các giao dịch với công ty. Điều đó lý giải tại sao người ta gọi là công ty hợp danh 1.1.2. Khái niệm về công ty hợp danh theo pháp luật của một số quốc gia Không giống các loại hình công ty khác, công ty hợp danh cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chung, thống nhất ở các hệ thống pháp luật. Do nhiều nguyên nhân khác nhau như điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ lập pháp, xu hướng phát triển của cơ chế pháp luật trong thời kỳ hội nhập toàn cầu khiến cho việc xây dựng một định nghĩa đầy đủ và cụ thể là không thể thực hiện. Pháp luật Pháp định nghĩa về công ty hợp danh (Société en nom collectif - SNC) như sau: "Công ty hợp danh là công ty mà trong đó các thành viên đều có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty" [20]. Như vậy, theo khái niệm của quốc gia đại diện cho hệ thống pháp luật châu Âu lục địa này thì công ty hợp danh mang bản chất đối nhân tuyệt đối; các thành viên trong công ty hợp danh bắt buộc phải có tư cách thương gia, và cùng nhau chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Năm 1776, khi nước Mỹ áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh thì pháp luật về công ty hợp danh cũng bắt đầu được áp dụng. Khái niệm về công ty hợp danh (Partnership) được ghi nhận tại Luật thống nhất về công ty hợp danh năm 1914, (sửa đổi năm 1992)" là sự liên kết gồm hai hay nhiều chủ sở hữu và với tư cách là những đồng sở hữu họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi nhuận" [33]. 12
- Có thể hiểu ngắn gọn về sự hợp danh theo pháp luật Mỹ, đó là sự hợp tác của từ hai chủ thể trở lên (có thể là cá nhân, các công ty ) trên phương diện nhân thân, vốn, công sức lao động nhằm kinh doanh thu lợi nhuận. Pháp luật Mỹ chia công ty hợp danh thành hai loại: công ty hợp danh phổ thông và công ty hợp danh hữu hạn. Công ty hợp danh phổ thông là loại công ty chỉ có một loại thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty, còn công ty hợp danh hữu hạn có hai loại thành viên riêng biệt, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các nghĩa vụ của công ty Điều 1020 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định "Hợp đồng thành lập công ty hợp danh hoặc công ty là hợp đồng theo đó hai hoặc nhiều cá nhân thỏa thuận cùng nhau thực hiện công việc chung, trên nguyên tắc chia sẻ lợi nhuận có được từ công việc đó" [3]. Pháp luật Thái Lan chia công ty hợp danh thành hai loại: công ty hợp danh đơn thường và công ty hợp danh hữu hạn, trong đó quy định về công ty hợp danh đơn thường tại Điều 1035 Bộ luật Dân sự thương mại như sau: "Công ty hợp danh đơn thường là loại hình công ty mà ở đó tất cả các thành viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh" [3]. Loại hợp danh thứ hai, có thêm sự tham gia của thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn (Điều 1077) Công ty hợp danh hữu hạn là loại hình công ty mà ở đó: (1) Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp mà họ cam kết riêng rẽ đóng góp vào công ty hợp danh và (2) Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh [3]. 13
- Có thể thấy mỗi quốc gia có có cách quy định khác nhau về công ty hợp danh, nhưng tựu chung lại về bản chất ta đều thấy những biểu hiện sau: Đây là loại hình công ty đối nhân, và yếu tố nhân thân của các thành viên công ty luôn được đặt ra đầu tiên. Công ty có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tùy theo quy định của mỗi nước. Thành viên trong công ty có thể chỉ có thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên góp vốn. Nhưng điểm chung trong quy định của pháp luật các nước là không có sự tách bạch về tài sản của công ty với tài sản của các thành viên hợp danh và các thành viên này phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các ngĩa vụ của công ty. Tóm lại, có thể xây dựng một khái niệm khái quát về công ty hợp danh như sau: Công ty hợp danh là một dạng liên kết mang bản chất đối nhân, thường không có tư cách pháp nhân. Các thành viên trong công ty có thể chỉ có thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn hoặc bao gồm cả thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình vào công ty. 1.1.3. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh theo pháp luật một số quốc gia Không có định nghĩa chung về công ty hợp danh, do đó đương nhiên không có những quy định khuân mẫu, thống nhất về đặc điểm pháp lý của loại hình liên kết này trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Luật pháp mỗi nước đều đưa ra những quy chế pháp lý riêng cho công ty hợp danh. Tuy nhiên, tựu trung lại, các quy định đều tương đối đồng nhất với nhau. Hãy nhận diện công ty hợp danh qua qua những quy định của một số quốc gia đại diện cho các hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới. + Luật pháp của Pháp quy định về công ty hợp danh khá chặt chẽ và cụ thể. Đây là một trong số những loại hình công ty điển hình được quy định trong Bộ luật Thương mại Pháp từ năm 1807. Tổng tài sản dân sự và yếu tố định danh của các thành viên hợp danh rất quan trọng. Bởi vậy, cho đến năm 14
- 1985, luật pháp của Pháp vẫn quy định tên gọi của công ty phải bao gồm tên của tất cả các thành viên hợp danh. Phải có ít nhất hai thành viên để thành lập công ty hợp danh. Về ngành nghề, công ty hợp danh Pháp có thể hoạt động trong bất kỳ ngành nghề nào, kể cả thương mại hay dân sự. Tuy vậy, một số ngành nghề như bảo hiểm và các nghề tự do được pháp luật điều chỉnh. Nét đặc trưng trong luật Pháp là xu hướng phân biệt giữa dân luật và thương luật. Do đó, các thành viên phải có tư cách thương nhân và phải có năng lực hành vi để hành nghề, đây là điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên luật chỉ yêu cầu tư cách thương nhân của thành viên, còn công ty không có tư cách này. Người chưa thành niên, hoặc người đã thành niên nhưng bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, dù có người giám hộ cũng không thể là thành viên của công ty hợp danh. Quy định về tư cách thương gia có ý nghĩa rất quan trọng đến chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên. Bởi đặc trưng của loại hình này là sự liên kết của số lượng ít những người có mối quan hệ quen biết tin tưởng lẫn nhau- yếu tố tạo nên uy tín của công ty. Công ty hợp danh là loại hình công ty mà các thành viên dễ gặp rủi ro nhất bởi tính chịu trách nhiệm cá nhân và liên đới của họ. Khi công ty có một khoản nợ, đầu tiên là chủ nợ yêu cầu công ty thanh toán, nhưng trong trường hợp công ty không thực hiện được nghĩa vụ đó thì chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viên nào của công ty thực hiện nghĩa vụ. Tính liên đới của trách nhiệm cho phép chủ nợ quyền yêu cầu này, và thành viên được chủ nợ chỉ định chỉ có thể thực hiện mà không được phép yêu cầu chủ nợ phải chia trách nhiệm cho các thành viên khác. Đương nhiên là sau khi trả nợ xong, thành viên đó có quyền yêu cầu công ty hoàn trả lại hoặc yêu cầu các thành viên khác hoàn trả lại theo tỷ lệ vốn góp hoặc theo điều lệ công ty. (Bộ luật Thương mại, Điều 1844, khoản 1). Nếu quan niệm rằng trách nhiệm hữu hạn là biểu hiện của bản chất đối vốn và trách nhiệm vô hạn là biểu hiện của bản 15
- chất đối nhân thì có thể xếp công ty hợp danh của Pháp là công ty mang bản chất đối nhân tuyệt đối. Mặc dù quy trình thủ tục công ty hợp danh ở Pháp rất nghiêm ngặt, song công ty hợp danh vẫn tồn tại với một số lượng đáng kể trong nền kinh tế Pháp. Bởi vì thành viên hợp danh theo luật Thương mại Pháp không hạn chế là cá nhân, mà còn bao gồm cả pháp nhân. Điều này cho phép hình thành mô hình kinh doanh kết hợp, vừa tránh được trách nhiệm vô hạn của cá nhân mà vẫn có thể khai thác được những điểm mạnh của công ty hợp danh. (Thành viên hợp danh là pháp nhân, nhưng thực ra người điều hành công ty là các cá nhân - những người đứng đầu pháp nhân; tương tự như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam). Luật Thương mại Pháp quy định rằng, khi một trong số các thành viên chết, bị phá sản hay bị cấm thực hiện một hoạt động thương mại, công ty sẽ tự động giải thể trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác. Quy định này khiến cho những người thừa kế không có cơ hội trở thành thành viên của công ty hợp danh khi thành viên của công ty đó là người để lại thừa kế qua đời. Việc một thành viên cũ ra khỏi công ty hay một thành viên mới vào công ty cũng đòi hỏi phải có sự nhất trí của các thành viên. Vấn đề chuyển nhượng phần vốn góp phải được sự nhất trí của tất cả các thành viên, việc chuyển nhượng sẽ tuân theo điều lệ công ty giống như công ty trách nhiệm hữu hạn. Chính yếu tố đối nhân khiến cho các thành viên được quyền quản lý, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của công ty, đồng thời gắn kết ràng buộc họ với nhau. Việc điều hành công ty do người quản lý thực hiện. Người quản lý có thể là thể nhân hoặc pháp nhân, có thể là người Pháp hoặc người nước ngoài, có thể là thành viên hoặc không là thành viên của công ty. Người quản lý cũng đồng thời là người đại diện cho công ty. Công ty hợp danh của Pháp luôn là công ty thương mại kể cả khi ngành nghề kinh doanh của công ty không phải là các hành vi thương mại 16
- theo luật của Pháp, trong mọi trường hợp nó đều phải tuân thủ mọi nghĩa vụ của thương gia và tranh chấp của công ty có thể giải quyết tại tòa Thương mại. Quy định về tư cách thương gia của thành viên cũng thể hiện rõ nét tính thương mại của công ty. Ngoài những quy định chung được áp dụng với tất cả các công ty, có một ngoại lệ đối với công ty hợp danh, đó là việc thành lập phải được công bố trên báo, và nếu không thực hiện quy định này có thể dẫn tới chế tài là công ty bị vô hiệu (Điều L.235 - 2 Bộ luật thương mại Pháp) Thành viên hợp danh còn xuất hiện trong một loại hình công ty nữa ở Pháp, đó là công ty hợp vốn đơn giản (Société en commandite simple). Công ty này có bản chất giống công ty hợp danh hữu hạn của Mỹ, công ty hợp danh có thành viên góp vốn ở Việt Nam theo luật Doanh nghiệp năm 2005. Thành viên hợp danh có địa vị pháp lý tương tự thành viên trong công ty hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới, có tư cách thương nhân, quyền quản lý công ty. Trong loại hình công ty này còn có thành viên góp vốn, không có tư cách thương nhân, cũng không phải cổ đông như trong công ty hợp vốn cổ phần. Chế độ trách nhiệm của thành viên góp vốn giống cổ đông trong công ty cổ phần, đó là được giới hạn trong phần vốn góp vào công ty, nhưng điểm khác cổ đông là họ không được phép chuyển nhượng vốn dưới dạng chứng khoán. Tuy luật pháp của Pháp không gọi tên loại hình này là công ty hợp danh, nhưng về đặc điểm pháp lý cho thấy đây là một biến thể của công ty hợp danh với bản chất đối nhân tương đối. + Pháp luật Mỹ quy định công ty hợp danh tại khoản 1 Điều 6 Luật Công ty hợp danh là " một hội gồm hai thể nhân trở lên và với tư cách là những đồng sở hữu họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi nhuận" [33]. Thuật ngữ "đồng sở hữu" ở đây được hiểu là việc các thành viên là cá nhân cùng sở hữu tài sản của công ty cũng như cùng chia sẻ lợi nhuận và rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty. 17
- Để thành lập công ty hợp danh tại Mỹ, cần có ít nhất hai thành viên trở lên, tự nguyện, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Luật thống nhất về công ty hợp danh của Mỹ (Unfrorm Partnership Act) quy định các cá nhân, công ty hợp danh, công ty có tư cách pháp nhân, kể cả người vị thành niên đều có quyền trở thành thành viên của công ty hợp danh. Tuy nhiên người vị thành niên có thể rút khỏi công ty hợp danh bất kỳ lúc nào, và điều này không ảnh hưởng tới sự tồn tại của công ty. Những thành viên của công ty hợp danh tại Mỹ cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại hoặc nghề nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nếu như những hoạt động đó được thực hiện với mục đích phi lợi nhuận thì họ không được coi là thành viên hợp danh. Công ty hợp danh theo pháp luật Mỹ được chia thành hai loại: Công ty hợp danh phổ thông và công ty hợp danh hữu hạn (hay còn gọi là hợp danh tuyệt đối và tương đối). Công ty hợp danh phổ thông là loại hình liên kết mang đầy đủ bản chất đối nhân, nó cũng là loại hình công ty ra đời sớm nhất. Sự hợp danh ở đây được hình thành từ những thỏa thuận giữa hai cá nhân hoặc pháp nhân trở lên nhằm hợp tác cùng nhau kinh doanh vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Yếu tố nhân thân có vai trò quan trọng và được các thành viên quan tâm hàng đầu. Loại hình công ty này không có tư cách pháp nhân, luật pháp Mỹ coi nó là thực chất là một dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong đó chứa đựng những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các thành viên (các bên hợp danh) chứ không phải của công ty. Hợp đồng hợp danh được phép tồn tại dưới dạng văn bản hoặc lời nói hoặc hành vi. Đây là một quy định rất cởi mở của pháp luật Mỹ, "tuy nhiên đôi khi xảy ra tranh chấp, các bên phải chứng minh được có hình thành quan hệ hợp danh phổ thông hay không, nên hợp đồng bằng lời nói thường hạn chế" [1, tr. 32]. 18
- Các thành viên trong công ty hợp danh phổ thông chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với những khoản nợ của công ty, có nghĩa là họ phải chịu trách nhiệm bằng tài sản cá nhân của mình đối với những khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh. Thậm chí, ngay cả khi họ đã ra khỏi công ty, nhưng vẫn bị ràng buộc trách nhiệm bởi những hợp đồng hoặc thương vụ được thiết lập trước thời điểm họ thôi là thành viên. Các thành viên trong công ty hợp danh phổ thông không thể chuyển nhượng vốn góp, vì họ hoạt động kinh doanh dưới một tên chung nên ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. Nếu một thành viên hợp danh rút khỏi công ty, hoặc bị chết, mất tích theo tuyên bố của tòa án, thì công ty có thể bị giải thể. Quy định khắt khe này cho thấy vai trò của yếu tố nhân thân trong loại hình liên kết đặc biệt này. Ngoài quy định chặt chẽ đó, pháp luật Mỹ ít can thiệp vào công ty này, và thay vào đó là sự tự do hợp đồng của các thành viên được luật trao cho một phạm vi rất rộng rãi. Công ty hợp danh hữu hạn (limited partnership) theo quy định của Luật thống nhất về công ty hợp danh hữu hạn Mỹ (năm 1916, sửa đổi năm 1976) là hợp danh trong đó bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn. Khác với hợp danh phổ thông, hợp danh hữu hạn là sự kết hợp hai chế độ trách nhiệm, chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh và chế độ trách nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn. Sự tồn tại hai loại thành viên hợp danh và góp vốn là sự kết hợp ưu thế của công ty hợp danh phổ thông và lợi thế huy động vốn góp của các loại hình công ty khác. "Công ty hợp danh hữu hạn có thể thực hiện những hoạt động kinh doanh như công ty hợp danh phổ thông, ngoại trừ một số ngành như bảo hiểm, ngân hàng" [1, tr. 33]. Thành viên hợp danh về nghĩa vụ, điều kiện cũng giống như thành viên trong công ty phổ thông, nhưng thành viên hữu hạn thì trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong số vốn góp. Họ không có quyền tham gia quản lý công 19
- ty, chỉ đơn thuần góp vốn và hưởng lợi nhuận, không bị lấy tài sản riêng để thanh toán cho các khoản nợ của công ty. Đây chính là sự hiện diện của yếu tố đối vốn trong công ty đối nhân này, vì thế nó không còn mang bản chất đối nhân nguyên thủy, truyền thống nữa. Trong việc quản lý điều hành công ty, thành viên hợp danh vẫn là người giữ vị trí nòng cốt, có quyền ngang nhau trong việc quyết định hoạt động hay giải thể công ty. Sự tồn tại của công ty hầu như không bị chi phối bởi sự tồn tại của thành viên góp vốn. Điều này khiến cho việc chuyển nhượng vốn góp, rút vốn, để lại thừa kế khá dễ dàng đối với thành viên hữu hạn, không cần thiết phải thông qua sự đồng ý của các thành viên khác. Pháp luật Mỹ can thiệp vào công ty hợp danh hữu hạn nhiều hơn hợp danh phổ thông, bởi sự hiện diện của thành viên góp vốn. Quy định về số lượng thành viên, về thủ tục thành lập. Nếu như việc thành lập công ty phổ thông chỉ cần hợp đồng giữa các thành viên hợp danh, thì việc thành lập loại hình hợp danh hữu hạn đòi hỏi phải có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Số lượng thành viên hợp danh có thể bị hạn chế bởi tính chất đối nhân, nhưng số lượng thành viên góp vốn thì không bị hạn chế bởi nó chỉ liên quan tới việc tăng giảm quy mô kinh doanh chứ không ảnh hưởng gì đến bộ máy quản lý, nhân sự của công ty. Về tư cách pháp lý, cũng như công ty hợp danh phổ thông, loại hình hợp danh hữu hạn không có tư cách pháp nhân. Mọi hoạt động đều được giao dịch dưới tư cách thương gia của các thành viên hợp danh. + Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định "Hợp đồng thành lập công ty hợp danh hoặc công ty là hợp đồng theo đó hai hoặc nhiều cá nhân thỏa thuận cùng nhau thực hiện công việc chung, trên nguyên tắc cùng chia sẻ lợi nhuận có được từ công việc đó" [3]. 20
- Về cơ bản, các quy định về công ty hợp danh của Thái Lan giống công ty hợp danh của Mỹ. Pháp luật Thái Lan cũng chia công ty hợp danh thành hai loại: hợp danh đơn thường và hợp danh hữu hạn. Điều 1025 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định "Công ty hợp danh đơn thường là loại hình công ty mà ở đó tất cả các thành viên cùng chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty hợp danh" [3]. Như vậy, loại hình này giống công ty hợp danh phổ thông của Mỹ, công ty hợp danh của Pháp, đó là cũng bao gồm sự liên kết dựa trên yếu tố nhân thân của các thành viên. Chế độ trách nhiệm là vô hạn và liên đới, trách nhiệm của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ty chỉ chấm dứt sau hai năm kể từ ngày thành viên này ra khỏi công ty. Pháp luật Thái Lan có những quy định tạo ra cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các thành viên, như việc quy định tất cả các thành viên trong công ty đơn thường phải chịu trách nhiệm đối với bất kỳ hành vi của bất kỳ thành viên nào trong công ty liên quan đến quá trình kinh doanh, trách nhiệm này là liên đới và vô hạn. Quy định này tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên, mọi hoạt động nhân danh công ty phải được thông qua tất cả các thành viên. Nhằm bảo vệ lợi ích chung của công ty cũng như lợi ích của các thành viên, pháp luật Thái Lan quy định các thành viên hợp danh không được tự mình tiến hành các hoạt động kinh doanh có cùng tính chất với việc kinh doanh của công ty bất kể vì lợi ích của mình hay người khác, trừ trường hợp được sự đồng ý của các thành viên còn lại. Rõ ràng sự tồn tại và phát triển của công ty hợp danh phụ thuộc vào trình độ, uy tín cá nhân, bằng cấp, kinh nghiệm của mỗi thành viên, do đó nếu các thành viên tự mình tiến hành riêng rẽ các hoạt động kinh doanh cùng tính chất với công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của công ty cũng như các thành viên khác. Việc vi phạm quy định này sẽ bị áp dụng chế tài là phải nộp toàn bộ lợi nhuận thu được hoặc bồi thường những tổn thất do hoạt động kinh doanh đó gây ra. 21