Luận văn Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau – Thực trạng và giải pháp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau – Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_xu_ly_vi_pham_hop_dong_mua_ban_thuy_ha.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau – Thực trạng và giải pháp
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH HUỲNH ÚT MƯỜI PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN THỦY HẢI SẢN TẠI CÀ MAU – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH HUỲNH ÚT MƯỜI PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN THỦY HẢI SẢN TẠI CÀ MAU – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯƠNG ANH SƠN TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi tên Huỳnh Út Mười mã số học viên: 7701250696A là học viên lớp LOP_K25_MBL_CaMau; Khóa K25-2 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - Thực trạng và giải pháp” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Huỳnh Út Mười
- MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Khái quát về hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại 5 1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng thương mại 5 1.1.1. Khái quát về hợp đồng 5 1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng 5 1.1.1.2. Chủ thể của hợp đồng 7 1.1.1.3. Các loại hợp đồng chủ yếu 8 1.1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại 10 1.1.3. Các hình thức hợp đồng thương mại 14 1.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại 15 1.2.1. Khái niệm 15 1.2.2. Đặc điểm của chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại 18 1.2.3. Căn cứ áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại 21 1.2.4. Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại 24 1.2.4.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng 24 1.2.4.2. Phạt vi phạm hợp đồng 27 1.2.4.3. Bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng 30 1.2.4.4. Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ do vi phạm hợp đồng 32 1.2.4.5. Các biện pháp khác 36 1.2.5. Một số vấn đề miễn trách nhiệm và không phải chịu trách nhiệm hợp đồng. 36 1.2.6. Sự kiện bất khả kháng 38 Chương 2: Thực trạng và giải pháp xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau, nhìn từ một số vụ tranh chấp 39 2.1. Thực trạng vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - đánh giá việc vi phạm hợp đồng qua một số vụ tranh chấp 39 2.2. Đề xuất giải pháp xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản. 48 2.2.1. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật liên quan đến vi phạm hợp đồng thương mại. 48 2.2.2. Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của tòa án 53
- 2.2.3. Giải pháp đối với các cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong giao dịch, mua bán thủy hải sản 54 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Pháp luật về hợp đồng ở nước ta có quá trình phát triển qua từng giai đoạn, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp tồn tại và phát triển trong một thời gian dài ở nước ta. Mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế ở giai đoạn đó nhất nhất phải tuân theo kế hoạch, chỉ tiêu mà Nhà nước đã ấn định. Mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, Đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới vào tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ra đời điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng. Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các quan hệ kinh tế ngày càng pháp triển mạnh mẽ. Do được thiết lập trên nền tảng pháp lý của quyền tự do kinh doanh, quan hệ thương mại và đầu tư có phương thức hình thành chủ yếu là thông qua quan hệ hợp đồng. Sự thoả thuận, thống nhất ý chí một cách tự nguyện, bình đẳng giúp cho các bên cùng có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu nghề nghiệp của mình. Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thoả thuận tự nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình đẳng, an toàn cùng có lợi cho tổ chức, cá nhân. Từ năm 2005, khi Luật Thương mại (2005) và Bộ luật Dân sự (2005) được ban hành, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 bị huỷ bỏ, sự điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng đã có sự thay đổi căn bản. Đến nay, Bộ luật Dân sự (2015) tiếp tục được ban hành, đã quy định rõ nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu một bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Việc quy định các hình thức chế tài trong thương mại có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo ổn định các quan hệ hợp đồng, trật tự pháp luật, khôi phục lợi ích của bên bị vi phạm, giáo dục ý thức pháp luật về hợp đồng. Tiếp nhận sự đổi mới của hệ thống pháp luật về hợp đồng trong những năm gần đây, nhu cầu tìm hiểu về vấn đề chế tài trong thương mại ngày càng trở nên bức thiết nhằm ổn
- 2 định các quan hệ hợp đồng, nhất là khi Việt Nam đã tham ra vào “sân chơi” quốc tế về các vấn đề thương mại (Việt Nam tham gia vào tố chức Thương mại thế giới WTO). Nhận thức rõ được điều đó, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài tốt nghiệp luận văn thạc sĩ của mình. 2. Câu hỏi nghiên cứu - Hợp đồng và hợp đồng thương mại là gì? Cơ sở lý luận của chúng? - Các chế tài do vi phạm hợp đồng như thế nào? - Thực trạng vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản ở tỉnh Cà Mau ra sao? - Những giải pháp nào để khắc phục, đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, bảo vệ quyền lợi các bên? 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về chế định hợp đồng nói chung và về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu ở các khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau: Tác giả Ngô Huy Cương với cuốn sách “Giáo trình luật hợp đồng Việt Nam - Phần chung” Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013; Tác giả Nguyễn Như Phát, Lê Thị Thu Thủy với cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Công an nhân dân, năm 2003; Tác giả Khúc Thị Trang Nhung, năm 2014 với luận văn thạc sỹ luật học “Những vấn đề về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”; Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến, năm 2015 với khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Pháp luật về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại – thực tiễn áp dụng”; Tác giả Nguyễn Trung Chánh, 2008 với Luận văn thạc sĩ “Phân tích ngành hàng tôm sú sinh thái ở Cà Mau”. Những công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung nghiên cứu về vấn đề hợp đồng nói chung, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở khía cạnh nghiên cứu tổng thể, chỉ ra được những vấn đề chung nhất. Các bài viết nêu trên cũng đã nghiên cứu một góc độ nào đó về vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về vấn đề xử lý vi phạm hợp đồng mua bán thủy hải sản tại Cà Mau. Do đó, việc nghiên cứu đề tài càng có ý nghĩa thực tiễn.
- 3 4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vấn đề xử lý vi phạm hợp đồng, các quy định của pháp luật về xử lý trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, cũng như thực tiễn thực hiện trong những năm vừa qua. Luận văn nghiên cứu tập trung chủ yếu trong phạm vi những quy định của Luật Thương mại (2005) và Bộ luật dân sự Việt Nam (2015). Đặc biệt, luận văn tập trung chủ yếu ở việc nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề hợp đồng nói chung và xử lý trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong mua bán thủy hải sản tại Cà Mau nói riêng về những vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại. Việc nghiên cứu có sự so sánh giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của các nước khác trên thế giới, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề xử lý thiệt hại do vi phạm hợp đồng. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; các chính sách pháp luật, chính sách kinh tế của Nhà nước ta trong những năm qua. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả cũng kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: so sánh, tác giả đã tiến hành so sánh những quy định về căn cứ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật các nước trên thế giới với quy định của pháp luật Việt Nam, so sánh những quy định trong Luật Thương mại (2005), Bộ luật dân sự (2005) và Bộ luật dân sự (2015). 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Với phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách pháp luật, chính sách kinh tế giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu quả. Đề tài được nghiên cứu dựa trên các cơ sở các ngành khoa học chuyên ngành luật đặc biệt là chuyên ngành luật thương mại và những học thuyết về hợp đồng nói chung và xử lý vi phạm hợp đồng nói riêng. Từ đó, sử dụng những phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá những quy định của pháp luật một cách khách quan và chính xác nhất.
- 4 Đề tài nghiên cứu về vấn đề xử lý tranh chấp do vi phạm hợp đồng và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật kinh doanh, hợp đồng kinh doanh và thương mại, miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong giai đoạn vừa qua. Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng.
- 5 Chương 1: Khái quát về hợp đồng và chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại 1.1. Khái quát về hợp đồng và hợp đồng thương mại 1.1.1. Khái quát về hợp đồng 1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng Khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp và có hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá - tiền tệ. Ngày nay, phần lớn các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bằng hợp đồng. Vai trò và vị trí của chế định hợp đồng ngày càng được khẳng định trong mọi hệ thống pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, pháp luật về hợp đồng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Vai trò trung tâm của hợp đồng trong hệ thống kinh tế và pháp luật không phải là ngẫu nhiên, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi hàng hoá, dịch vụ phải được tự do lưu thông trên thị trường thì vai trò của hợp đồng ngày càng được thể hiện rõ hơn, bởi lẽ trong các quan hệ hợp đồng thì ý chí của các bên mang tính quyết định, về mặt nguyên tắc, pháp luật tôn trọng ý chí của các bên và chỉ can thiệp trong các trường hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật. Theo Bộ Luật Dân sự (2015), khái niệm hợp đồng như sau1: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng có bản chất là sự tự nguyện thoả thuận và thống nhất ý chí nhằm xác lập, thay đổi, hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong xã hội. Hợp đồng là căn cứ pháp lý phổ biến làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Giao kết và thực hiện các hợp đồng chính là cách thức cơ bản để thực hiện hiệu quả các hoạt động kinh tế. Khi nghiên cứu hợp đồng và pháp luật về hợp đồng, chúng ta cần tập trung một số nội dung sau đây: Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia giao kết Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong vận hành của nền kinh tế thị trường. 1 Điều 385, Bộ Luật Dân sự (2015).
- 6 Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá trị xã hội của nó trong điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia. Hiểu rằng hợp đồng là một loại giao ước mà đặc điểm chung của chúng là sự thống nhất ý chí2. Tự do ý chí trong giao kết hợp đồng được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Pháp vào thế kỷ XVIII. Lúc đầu nó đuợc coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các cá nhân tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng và khẳng định quyền của mỗi cá nhân tham gia vào giao dịch chỉ phụ thuộc vào chính họ mà không phụ thuộc vào pháp luật. Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng, nếu các cá nhân tự do giao kết thì sẽ đảm bảo được sự công bằng trong quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng đưa đến một hệ quả là hợp đồng khi đã đuợc ký kết thì có giá trị bắt buộc thực hiện. Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể được thực hiện bởi sự thoả thuận của các chủ thể trong hợp đồng và không ai có quyền can thiệp vào quan hệ của họ cũng như không có quyền làm thay đổi ý chí của họ. Khi nói đến hợp đồng ta hiểu các chủ thể trong đó bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Nhưng trên thực tế các bên tham gia ký kết hợp đồng thường không ngang bằng nhau mà có một bên mạnh hơn và một bên yếu hơn về kinh tế. Do đó không có sự tự do ký kết hợp đồng mà thường là một bên phụ thuộc vào ý chí của bên kia, bằng việc thông qua hợp đồng do bên mạnh hơn định sẵn. Chính vì vậy, hợp đồng không còn kết quả của sự thể hiện ý chí chung của các bên nữa mà nó trở thành hình thức biểu hiện của sự bất bình đẳng giữa các bên với nhau. Do đó, đòi hỏi Nhà nuớc phải can thiệp đến các quan hệ này thông qua pháp luật và chế định hợp đồng ra đời giữ một vị trí rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Sự thay đổi từ quan điểm đề cao lợi ích cá nhân sang đề cao lợi ích xã hội đã làm thay đổi các nguyên tắc này. Thứ hai, hợp đồng là tập hợp những cam kết được pháp luật thừa nhận và bảo vệ Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết, song sự tự do đó phải giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ bảo vệ những cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự công cộng. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá nhân và các chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật các nước đều cho phép các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng, miễn là sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được trái pháp 2 Ts. Ngô Huy Cương, 2009. Tự do ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Đại học Quốc gia Hà Nội. . [Ngày truy cập: 20/06/2017].
- 7 luật, đạo đức xã hội”3. Việc hình thành các hạn chế của nguyên tắc tự do trong ký kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm bảo vệ trật tự công và lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, pháp luật sẽ bảo vệ lợi ích và quyền của các bên, song lợi ích này phải không được xâm hại đến trật tự và lợi ích công. Tuy nhiên, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết sức linh hoạt, mềm dẻo. Điều này không dễ dàng đạt được nếu như quy định pháp luật không được xây dựng theo hướng đề cao tự do ý chí của các bên, pháp luật chỉ can thiệp ở giới hạn cần thiết. 1.1.1.2. Chủ thể của hợp đồng Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân. Luật thương mại (2005) quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Luật thương mại (2005), hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật thương mại4. Bộ luật dân sự quy định chủ thể hợp đồng là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể này có năng lực hành vi dân sự. Bộ luật Dân sự (2015) quy định5:“năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, chủ thể của hợp đồng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp nhân và nhà nước là chủ thể đặc biệt. Đối với chủ thể của hợp đồng thương mại thì thêm một điều kiện là ít nhất một trong các bên giao kết phải là thương nhân, tức là hoạt động có mục đích lợi nhuận. Chủ thể giao kết hợp đồng chính là chủ thể của hợp đồng hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Cần thấy rằng, người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật được quy định trong điều lệ; người có thẩm quyền giao kết hợp đồng doanh nghiệp tư nhân là cá nhân chủ sở hữu. 3 Văn phòng luật sư Tô Đình Huy, 2012. Nguyên tắc giao kết hợp đồng. . [Ngày truy cập: 28/06/2017]. 4 Khoản 3, Điều 1, Luật Thương mại (2005). 5 Khoản 1, Điều 16, Bộ Luật Dân sự (2015).
- 8 Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân. Luật Thương mại (2005) quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Đối với chủ thể của hợp đồng thương mại thì thêm một điều kiện là ít nhất một trong các bên giao kết phải là thương nhân, tức là hoạt động có mục đích lợi nhuận. Chủ thể giao kết hợp đồng chính là chủ thể của hợp đồng hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Cần thấy rằng, người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật được quy định trong điều lệ; người có thẩm quyền giao kết hợp đồng doanh nghiệp tư nhân là cá nhân chủ sở hữu. 1.1.1.3. Các loại hợp đồng chủ yếu Theo Bộ Luật Dân sự (2015), hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây6: “1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. 2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. 3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ. 4. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính. 5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. 6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”. Theo các quy định về phân loại hợp đồng dân sự như trên, ta có thể thấy: Thứ nhất, phân loại hợp đồng dựa vào mối liên quan giữa chúng. Nếu dựa vào mối liên quan về hiệu lực và chức năng giữa hai hợp đồng với nhau thì các hợp đồng này được xác định thành: (1) Hợp đồng chính: là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng kia; (2) Hợp đồng phụ: là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính. Theo đó, hợp đồng phụ có chức năng hỗ trợ, bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng chính, hợp đồng phụ được thực hiện khi hợp đồng chính không được thực 6 Điều 402, Bộ Luật Dân sự (2015).
- 9 hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi đến hạn. Cũng vì vậy, nếu hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu, trừ trường hợp hợp đồng chính vô hiệu nhưng đã được thực hiện toàn bộ hoặc một phần. Chẳng hạn, giữa hợp đồng vay tài sản với hợp đồng thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng vay thì hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính, hợp đồng thế chấp tài sản là hợp đồng phụ. Trong trường hợp hợp đồng vay vô hiệu và chưa được thực hiện thì hợp đồng thế chấp cũng bị vô hiệu. Nếu hợp đồng vay vô hiệu nhưng bên cho vay đã chuyển tài sản cho bên vay thì hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực pháp luật và bên thế chấp phải bảo đảm việc trả lại tài sản vay mà bên vay đã nhận. Thứ hai, phân loại hợp đồng dựa vào quyền và nghĩa vụ của các bên và ỷ nghĩa của việc phân loại. Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên, hợp đồng được phân thành hai loại sau: Hợp đồng đơn vụ: là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó chỉ một bên có nghĩa vụ; Hợp đồng song vụ: là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Như vậy, khi xác định một hợp đồng là đơn vụ hay song vụ phải dựa vào quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (chính là thời điểm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên). Vì vậy, có thể cùng loại hợp đồng nhưng ở trường hợp này là hợp đồng song vụ, ở trường hợp khác lại là hợp đồng đơn vụ. Chẳng hạn, hợp đồng cho vay được thỏa thuận là có hiệu lực từ thời điểm các bên cùng ký vào văn bản hợp đồng thì hợp đồng vay này là hợp đồng song vụ vì từ thời điểm đó đã phát sinh một quan hệ nghĩa vụ và trong đó cả bên cho vay và bên vay đều có nghĩa vụ (bên cho vay có nghĩa vụ giải ngân, bên vay có nghĩa vụ trả nợ). Nếu hợp đồng cho vay được thỏa thuận là chỉ có hiệu lực khi bên cho vay đã chuyển tài sản vay cho bên vay thì hợp đồng vay này là hợp đồng đơn vụ vì vào thời điểm hợp đồng có hiệu lực, bên cho vay không còn nghĩa vụ. Thứ ba, phân loại hợp đồng dựa vào sự trao đổi ngang giá và ỷ nghĩa của việc phân loại. Hợp đồng có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ bên kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng; Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích do bên kia chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.
- 10 Như vậy, căn cứ vào sự trao đổi ngang giá (có đi có lại về lợi ích giữa các bên) để xác định hợp đồng nào là có đền bù, hợp đồng nào là không có đền bù. Chẳng hạn, hợp đồng mua bán tài sản luôn luôn là hợp đồng có đền bù vì khi bên mua nhận được tài sản do bên bán chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên bán một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đã nhận; hợp đồng cho vay có lãi là hợp đồng có đền bù vì khi bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn vay trong thời hạn nhất định thì phải chuyển giao cho bên cho vay một khoản lợi ích là tiền lãi tương ứng với vốn vay và thời gian vay; hợp đồng cho vay không có lãi là hợp đồng không có đền bù vì bên vay nhận được lợi ích là được sở hữu vốn vay trong một thời hạn nhất định nhưng không phải chuyển giao cho bên cho vay một lợi ích nào tương ứng với việc được sở hữu khoản vay trong thời hạn nhất định. Thứ tư, phân loại hợp đồng theo thời điểm có hiệu lực. Hợp đồng ưng thuận: là hợp đồng có hiệu lực trước thời điểm các bên chuyển giao đối tượng của hợp đồng cho nhau. Ví dụ: hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kểt, các bên có nghĩa vụ chuyển giao tài sản và trả tiền cho nhau sau thời điểm này là một hợp đồng ưng thuận; Hợp đồng thực tế: là hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên đã chuyển giao đối tượng của hợp đồng cho nhau. Ví dụ: hợp đồng tặng cho luôn là hợp đồng thực tế, vì pháp luật đã quy định hợp đồng này chỉ có hiệu lực vào thời điểm bên được tặng cho đã nhận được tài sản tặng cho. 1.1.2. Khái quát về hợp đồng thương mại Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Trong Luật thương mại (2005), không có khái niệm hợp đồng thương mại, nhưng có thể hiểu hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại. Trong Bộ luật dân sự (2015) có định nghĩa về hợp đồng mua bán tài sản7: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn 7 Điều 430, Bộ Luật Dân sự (2015).
- 11 liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa (thủy sản) trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng hàng hóa, và mục đích sinh lời. Nội dung của hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoản này xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản của hợp đồng thương mại là nội dung của hợp đồng thương mại là hoạt động thương mại. Mỗi loại hợp đồng có những quy định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ : Đối với hợp đồng mua bán thì điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả. Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được quy định tại Điều 385, Bộ Luật Dân sự (2015). Trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính bắt buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với nội dung quy định trong pháp luật. Nội dung cơ bản của hợp đồng được quy định trong Bộ Luật Dân sự (2015) như sau8: “1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng. 2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây: a) Đối tượng của hợp đồng; b) Số lượng, chất lượng; c) Giá, phương thức thanh toán; d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên; e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; g) Phương thức giải quyết tranh chấp”. Theo quy định trên thì các bên giao kết hợp đồng có quyền thỏa thuận về các nội dung của hợp đồng phù hợp với mục đích giao kết mà các bên đã đặt ra. Tuy nhiên, xét về bản chất và vai trò của các điều khoản đối với sự hình thành hợp đồng dân sự, thì có những điều khoản bắt buộc phải có, những điều khoản không bắt 8 Điều 398, Bộ Luật Dân sự (2015).
- 12 buộc phải có hoặc không bắt buộc các bên phải thỏa thuận. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây: – Đối tượng của hợp đồng là điều khoản cơ bản của mọi hợp đồng dân sự. Đây là điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng dân sự, đồng thời các bên phải thỏa thuận cụ thể về điều khoản này. Nếu các bên không thỏa thuận về đối tượng của hợp đồng thì hợp đồng không thể được hình thành. Trong các loại hợp đồng dân sự thông dụng mà Bộ Luật Dân sự (2015) quy định, nếu dựa vào đối tượng thì được phân chia thành hai nhóm: một là, các hợp đồng có đối tượng là tài sản; hai là, các hợp đồng có đối tượng là công việc. – Số lượng và chất lượng là các yếu tố thuộc về đối tượng của hợp đồng. Trên thực tế, chỉ có số lượng mới là điều khoản cơ bản của hợp đồng, bởi nếu các bên giao kết hợp đồng không thỏa thuận về số lượng của đối tượng thì không thể xác định chính xác về đối tượng của hợp đồng, về chất lượng của đối tượng thì trong nhiều trường hợp, nó không được coi là điều khoản cơ bản vì có thể xác định được theo chất lượng trung bình của đối tượng cùng loại trên thị trường tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng. – Giá không phải là điều khoản bắt buộc đối với mọi trường hợp. Bởi vì, trên thực tế, khi các bên không thỏa thuận về giá của đối tượng thì giá của đối tượng vẫn có thể được xác định dựa vào giá thị trường của đối tượng cùng loại. Quy định về giá chỉ bắt buộc trong những trường hợp đặc biệt liên quan đến các loại sản phẩm, hàng hóa, các loại dịch vụ phải niêm yết giá để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. – Phương thức thanh toán cũng không phải là điều khoản bắt buộc của mọi hợp đồng. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để đưa ra phương thức thanh toán cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi bên. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về phương thức thanh toán thì áp dụng quy định riêng đối với từng loại hợp đồng hoặc áp dụng quy định chung về phương thức thực hiện của từng loại nghĩa vụ dân sự trong Bộ Luật Dân sự (2015). – Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng cũng không phải là điều khoản bắt buộc các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các bên không thỏa thuận về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng thì thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng được xác định theo quy định riêng đối với từng loại hợp đồng hoặc quy định chung về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ Luật Dân sự (2015).
- 13 – Thông thường, đối với mỗi loại hợp đồng thì pháp luật đều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên. Tuy nhiên, khi giao kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên hoặc áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên thì các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong loại hợp đồng tương ứng vẫn được coi là mặc nhiên có giá trị. – Các bên giao kết hợp đồng có thể thỏa thuận về việc xác định trách nhiệm dân sự khi có vi phạm hợp đồng. Sự thỏa thuận này có thể là về vấn đề phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc một loại trách nhiệm khác. Tuy nhiên, nếu các bên không có thỏa thuận thì các quy định của pháp luật về trách nhiệm do vi phạm từng loại hợp đồng nói riêng và các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ nói chung vẫn mặc nhiên được áp dụng. – Xét về bản chất, quan hệ pháp luật về hợp đồng được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia giao kết. Khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên được quyền tự định đoạt tất cả các vấn đề liên quan đến hình thức, nội dung, thậm chí là cả phương thức giải quyết tranh chấp. Phương thức giải quyết tranh chấp được ưu tiên hàng đầu luôn là thương lượng và hòa giải giữa các bên. Tòa án chỉ có quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng khi các bên có yêu cầu và chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự (2015), thì nội dung hợp đồng trước hết tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, các bên nên có những nội dung cơ bản như trên để đảm bảo nội dung đúng quy định. Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của phụ lục không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng đã được sửa đổi. Trường hợp luật, tiền lệ, thói quen chưa có quy định, thì áp dụng tập quán thương mại, tức là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các