Luận văn Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, thực tiễn áp dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa

pdf 115 trang vuhoa 25/08/2022 6280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, thực tiễn áp dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_xu_ly_tai_san_bao_dam_trong_hoat_dong.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, thực tiễn áp dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THU TRANG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THU TRANG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến HÀ NỘI - 2013 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO 6 ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt 6 động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1. Giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng 6 thƣơng mại 1.1.2. Mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với hoạt động cho vay 16 của ngân hàng thƣơng mại 1.1.3. Bản chất của việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho 18 vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.4. Các nguyên tắc và phƣơng thức xử lý tài sản bảo đảm trong 22 hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.5. Hậu quả pháp lý của việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt 29 động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.2. Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay 30 4
  4. của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Các quy định về tài sản bảo đảm 30 1.2.2. Các quy định về thời điểm, trình tự và thủ tục xử lý tài sản 39 bảo đảm tiền vay 1.2.3. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan 44 trong xử lý tài sản bảo đảm Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN 50 BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tại Chi 50 nhánh Ngân hàng công thƣơng Đống Đa 2.1.1. Các quy định nội bộ của Ngân hàng thƣơng mại cổ phần 51 Công thƣơng Việt Nam về hoạt động cho vay có bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay 2.1.2. Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay tại 63 Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Công thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa 2.1.3. Nhận xét, đánh giá về thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay 82 của Vietinbank Đống Đa 2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu 92 quả xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của Vietinbank Đống Đa 2.2.1. Các giải pháp về xây dựng chính sách pháp luật 92 2.2.2. Các giải pháp về thực thi pháp luật 98 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 5
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự NHTM : Ngân hàng thƣơng mại TMCP : Thƣơng mại cổ phần TCTD : Tổ chức tín dụng 6
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Cơ cấu nợ tại Vietinbank Đống Đa qua các năm 65 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Mẫu biểu tổng dƣ nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản 64 7
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nhìn lại hơn 20 năm chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế từ quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy tự hào rằng Việt Nam đã bƣớc đi đúng hƣớng và tiến các bƣớc dài trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nƣớc nhà. Trong sự nghiệp phát triển chung đó có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống ngân hàng thƣơng mại (NHTM), không phải ngẫu nhiên mà hệ thống ngân hàng thƣơng mại đƣợc ví nhƣ xƣơng sống của nền kinh tế. Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay luôn là một trong những hoạt động cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Khác biệt với đối tƣợng kinh doanh của các ngành nghề khác, đối tƣợng kinh doanh của các NHTM là kinh doanh tiền tệ nên mức độ rủi ro trong kinh doanh là rất lớn, đặc biệt trong những năm trở lại đây hoạt động của NHTM nói chung đã bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém do chất lƣợng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao đặc biệt là trong lĩnh vực xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Để tránh rủi ro xảy ra trong hoạt động cho vay, ngoài việc phải thẩm định thật kỹ các phƣơng án vay vốn thì vấn đề tài sản bảo đảm luôn đƣợc các ngân hàng chú ý. Mặc dù tài sản bảo đảm không phải là mục đích của ngân hàng khi ra quyết định cho vay nhƣng nó có thể hạn chế đƣợc phần nào rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng cũng nhƣ giúp cho ngƣời vay có ý thức trả nợ hơn đối với khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp. Khi khách hàng không trả đƣợc nợ thì những tài sản bảo đảm này chính là nguồn trả nợ thứ hai của khách hàng. Trong trƣờng hợp đó, muốn thu hồi đƣợc nợ đầy đủ nhất thì ngân hàng phải thực hiện tốt công tác xử lý tài sản bảo đảm. Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần (TMCP) Công thƣơng Việt Nam (sau đây gọi tắt là Vietinbank) là một trong những NHTM quốc doanh lớn nhất Việt 8
  8. Nam, với hệ thống mạng lƣới trải rộng toàn quốc với 150 Sở Giao dịch , chi nhánh và trên 1000 phòng giao dịch / Quỹ tiết kiệm; có quan hệ đại lý với trên 850 ngân hàng và điṇ h chế tài chính lớn trên toàn thế giới. Vietinbank ngày càng khẳng định đƣợc vị trí ngân hàng hàng đầu - giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam, định hƣớng cho các NHTM khác. Là Chi nhánh cấp 1, có bề dày lịch sử trên 20 năm - Ngân hàng TMCP Công thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa (sau đây gọi tắt là Vietinbank Đống Đa) là một trong những con chim đầu đàn, là Chi nhánh có nhiều đóng góp vào sự phát triển của Vietinbank nói riêng và của nền kinh tế nƣớc nhà nói chung. Tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank Đống Đa trong những năm trở lại đây có xu hƣớng giảm nhờ vào những định hƣớng tín dụng đúng đắn của Ban lãnh đạo cũng nhƣ tinh thần quyết tâm của toàn thể cán bộ công nhân viên chi nhánh; công tác thu hồi nợ, trong đó có xử lý tài sản bảo đảm ngày càng đạt đƣợc hiệu quả cao. Tuy nhiên nhƣ đã nói ở trên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy Vietinbank Đống Đa cũng nhƣ các NHTM khác luôn phải đối mặt với những khó khăn, bất cập trong quá trình xử lý Tài sản bảo đảm để thu hồi nợ nhƣ: khó có thể xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất khi bên thế chấp không tự nguyện bàn giao tài sản; thời gian thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm kéo dài; khó khăn trong việc xử lý đối với các tài sản thế chấp là quyền đòi nợ, tài sản hình thành từ vốn vay Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của Vietinbank Đống Đa, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật ngân hàng nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng đã và đang là đề tài thu hút đƣợc nhiều tác giả 9
  9. trong và ngoài nƣớc nghiên cứu, trong đó đáng chú ý nhất là các công trình nghiên cứu về tài sản bảo đảm cũng nhƣ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Mặc dù đề tài xử lý tài sản bảo đảm không phải là đề tài mới và trƣớc tác giả cũng có một số công trình nghiên cứu về đề tài này nhƣ: - Đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động ngân hàng", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Thị Thùy Dƣơng; - Đề tài: "Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong quan hệ vay vốn ngân hàng, lý luận và thực tiễn", Khóa luận tốt nghiệp, của Vũ Châu Hạnh. - "Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Vũ Lê Quỳnh Ngân. Các công trình nghiên cứu này tuy có nghiên cứu về xử lý tài sản bảo đảm nhƣng chủ yếu đi sâu phân tích vào các vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm, chƣa đánh giá đúng thực trạng tài sản bảo đảm hiện nay tại các NHTM cũng nhƣ áp dụng pháp luật của các NHTM trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Không những thế, trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM tăng mạnh, việc nâng cáo hơn nữa hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm, áp dụng pháp luật trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro cho các NHTM vẫn luôn là đề tài có tính áp dụng cao. Trong khuôn khổ của một công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sĩ, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của NHTM và thực tiễn áp dụng tại Vietinbank Đống Đa không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn áp dụng thiết thực tại đơn vị nơi tác giả công tác. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Luận văn có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM. Trên cơ sở đó tiến hành 10
  10. phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa và đƣa ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cụ thể: Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tham gia xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, thực tế áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các NHTM. Đặc biệt luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Vietinbank Đống Đa. Đây là công trình nghiên cứu đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật tại một chi nhánh ngân hàng do vậy kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của không chỉ các NHTM nói chung trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm mà còn có ý nghĩa đối với công tác xử lý tài sản bảo đảm của Vietinbank Đống Đa nói riêng. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về tài sản, xử lý tài sản bảo đảm và giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM, trên cơ sở đó đƣa ra các kết luận và đánh giá mang tính khoa học về các vấn đề pháp lý liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định bởi các nội dung chính sau: (i) Những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật trong việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các NHTM. (ii) Thực tiễn áp dụng tại Vietinbank Đống Đa; Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa. 11
  11. Trên cơ sở nghiên cứu các nội dung trên, luận văn có nhiệm vụ đƣa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM trong đó có Vietinbank Đống Đa. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn kết hợp sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch và quy nạp; phƣơng pháp thống kê, khảo sát, đánh giá, so sánh, đối chiếu tổng hợp Các phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phối hợp hoặc xen kẽ để giải quyết những vấn đề cơ bản mà đề tài đặt ra, cụ thể là: - Các phƣơng pháp phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch và quy nạp đƣợc sử dụng chủ yếu để giải quyết các vấn đề lý luận và một số vấn đề thực tiễn của luận văn. - Các phƣơng pháp thống kê, khảo sát, đánh giá, so sánh đối chiếu đƣợc sử dụng chủ yếu để đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Vietinbank Đống Đa, cũng nhƣ đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại ngân hàng này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm và pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tại Ngân hàng ngân hàng thƣơng mại Công thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. 12
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1.1. Giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Giao dịch bảo đảm là một chế định ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới, sự ra đời này đã tạo ra đƣợc một hành lang pháp lý tƣơng đối an toàn cho hoạt động tín dụng nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung; góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, góp phần hạn chế tối đa các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhƣng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ. Mục tiêu mà các giao dịch bảo đảm hƣớng tới chính là nhằm bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền trong giao dịch này. Áp dụng biện pháp bảo đảm, bên có quyền không chỉ có quyền theo hợp đồng buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, mà còn có quyền xử lý tài sản mà bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm. Chúng ta cũng biết rằng, hoạt động tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất kỳ thay đổi, biến động dù chủ quan hay khách quan nào cùng có khả năng làm ảnh hƣởng đến sự phát triển an toàn trong hoạt động tín dụng, là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến việc khách hàng vi phạm các cam kết đã ký với 13
  13. tổ chức tín dụng (TCTD). Do vậy việc bảo đảm tối đa quyền của TCTD (chủ nợ) đối với các khoản tín dụng đã cấp luôn là vấn đề đƣợc các TCTD quan tâm. Trong lịch sử kinh doanh của các ngân hàng, cho vay có bảo đảm bằng tài sản luôn đƣợc xem là hình thức cho vay phổ biến nhất. Một mặt nó giúp cho các ngân hàng hạn chế đƣợc phần nào rủi ro tín dụng - góp phần đƣa các ngân hàng phát triển an toàn và bền vững, mặt khác đây là biện pháp giúp khách hàng có ý thức hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng. Theo pháp luật của các nƣớc theo hệ thống án lệ (common law), tiêu biểu là Mỹ và Canada, khái niệm giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một quyền lợi đƣợc bảo đảm đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố định, bao gồm: hàng hóa, giấy tờ có giá hoặc các tài sản vô hình khác; là giao dịch đƣợc thiết lập thông qua một thỏa thuận thuận bảo đảm (là thỏa thuận nhằm xác lập một lợi ích bảo đảm của chủ nợ đối với bên bảo đảm). Nhƣ vậy, giao dịch bảo đảm theo khái niệm trong luật án lệ không bị giới hạn về loại hình của giao dịch và đƣợc xác định căn cứ vào mục đích thiết lập giao dịch. Do đó, các giao dịch bảo đảm không chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân sự truyền thống mà còn bao gồm các giao dịch khác nhƣ: Bảo lƣu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, chuyển nhƣợng quyền đòi nợ, quyền cầm giữ, thuê tài sản [33, tr. 254]. Ở các nƣớc theo trƣờng phái pháp luật thành văn, tiêu biểu là Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Nhật Bản không có khái niệm giao dịch bảo đảm nhƣ nêu trên, mà giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là các biện pháp bảo đảm cụ thể nhƣ: Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo lƣu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, quyền cầm giữ tài sản [33, tr. 255]. Ở Việt Nam, giao dịch bảo đảm nói chung đã hình thành từ rất sớm. Những quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ trong giao lƣu dân sự và thƣơng mại, đặc biệt là các biện pháp bảo đảm bằng tài sản đều đƣợc Bộ 14
  14. luật dân sự (BLDS) Bắc Kỳ 1936, Trung Kỳ 1939, Nam Kỳ 1910; BLDS, Bộ luật thƣơng mại của Việt nam Cộng hòa quy định. Đặc biệt là kể từ khi nƣớc ta chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trƣờng thì việc bảo đảm thi hành nghĩa vụ dân sự (mà chủ yếu là sự bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay ngân hàng) ngày càng trở lên cấp bách và thiết thực. BLDS ban hành năm 1995 quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, gồm có: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, kỹ quỹ, ký cƣợc, bảo lãnh và phạt vi phạm. Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành các quy định về giao dịch bảo đảm trong BLDS năm 1995 có các văn bản: Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các TCTD (sau đây gọi tắt là Nghị định 178/1999/NĐ-CP), Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP. "Giao dịch bảo đảm" đƣợc hiểu là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [3], theo quy định quy định này thì giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản, theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo cách hiểu này thì khái niệm giao dịch bảo đảm của Việt Nam sẽ có nội hàm hẹp hơn nhiều so với các khái niệm giao dịch bảo đảm mà các nƣớc theo hệ thống pháp luật án lệ đã đƣa ra. Trên nền tảng của BLDS năm 1995 và có sự điều chỉnh, khắc phục một số nội dung về giao dịch bảo đảm cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, BLDS năm 2005 ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 đã có quy định mới về giao dịch bảo đảm. Theo đó, các biện pháp bảo đảm tuy vẫn đƣợc quy định thành 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp nhƣng đƣợc quy định cụ thể hơn, khắc phục đƣợc phần nào các vƣớng mắc mà các văn bản pháp luật ban hành trƣớc chƣa giải quyết. Đây cũng đƣợc 15
  15. xem là điểm tiến bộ của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995 về giao dịch bảo đảm. Điều 323 BLDS năm 2005 đƣa ra khái niệm giao dịch bảo đảm với những nét khái quát, không chỉ là liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đƣợc đề cập đến trong BLDS năm 1995 đã mở rộng phạm vi đăng ký và yêu cầu cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 quy định về bảo đảm tiền vay của các TCTD ra đời đã ghi nhận cụ thể quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm của các TCTD. Các quy định này đã phần nào đảm bảo những an toàn nhất định cho chính ngƣời đi vay và cho Ngân hàng. Song việc chỉ quy định về bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín dụng dƣới hình thức cho vay của các TCTD đối với khách hàng theo quy định của Luật các TCTD là chƣa đủ, đây cũng là nguyên nhân nhiều khoản nợ chƣa thể xử lý đƣợc, khả năng thu hồi khó, gây rủi ro cho các ngân hàng cho vay. Sự ra đời của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) đã phần nào khắc phục đƣợc các hạn chế của Nghị định 178/1999/NĐ-CP, với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh và các biện pháp bảo đảm nhƣ quy định tại BLDS (bằng việc bổ sung thêm ba biện pháp bảo đảm là đặt cọc, ký quỹ, ký cƣợc) thì không những đã mở rộng thêm quyền lựa chọn cho các TCTD, khách hàng trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay mà còn tạo hành lang pháp lý cho việc xử lý các giao dịch bảo đảm. Tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà TCTD và khách hàng có thể thỏa thuận hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm phù hợp, mở ra các cơ hội thuận lợi cho cả hai phía trong quá trình vay vốn ngân hàng trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản. Nhƣ vậy, có thể định nghĩa giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm cam kết dùng tài sản hoặc/và uy tín của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc của bên thứ ba đối với bên nhận bảo đảm. 16
  16. 1.1.1.2. Đặc trưng của giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Về bản chất, giao dịch bảo đảm thực chất là một loại hình cụ thể của giao dịch dân sự, vì vậy, nó cũng có những đặc điểm chung, những thuộc tính cơ bản nhƣ các giao dịch dân sự khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó giao dịch bảo đảm còn thể hiện các đặc trƣng nhƣ sau: Thứ nhất, giao dịch bảo đảm có mục đích hạn chế quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản đối với tài sản, đồng thời tạo ra quyền ƣu tiên cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Từ thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực, bên nhận bảo đảm sẽ có quyền ƣu tiên hơn so với các chủ nợ khác của bên bảo đảm trong việc thu hồi nợ từ tiền bán tài sản. Đây cũng chính là đặc điểm lớn nhất để phân biệt giữa quyền của chủ nợ có bảo đảm với quyền của chủ nợ không có đảm bảo trong quá trình chiếm hữu, quản lý và xử lý tài sản để thu hồi nợ. Thực tiễn cho thấy, để xử lý quyền lợi một cách hợp lý và công bằng cho các bên nhận bảo đảm trong trƣờng hợp một tài sản đƣợc bảo đảm cho nhiều chủ nợ khác nhau, pháp luật các nƣớc đều quy định thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm và việc xác định tứ tự ƣu tiên trả nợ từ tiền bán tài sản bảo đảm sẽ căn cứ vào thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo thứ tự này, giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký trƣớc sẽ có hiệu lực ƣu tiên hơn giao dịch bảo đảm đăng ký sau; giao dịch bảo đảm đã đăng ký có hiệu lực ƣu tiên hơn giao dịch bảo đảm chƣa đăng ký. Không những thế, giao dịch bảo đảm đã đăng ký còn có giá trị ƣu tiên so với các giao dịch dân sự khác liên quan đến tài sản bảo đảm, ví dụ nhƣ trong trƣờng hợp tài sản bảo đảm bị đem bán, cho thuê Đối với các giao dịch bảo đảm đƣợc giao kết hợp pháp và đã đƣợc đăng ký thì tài sản bảo đảm sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác của bên nợ, trừ khi bên nợ không còn tài sản nào khác. Đƣơng nhiên, cần lƣu ý rằng việc thiết lập một giao dịch bảo đảm giữa chủ nợ và chủ tài sản không làm cản trở 17
  17. đến việc chủ nợ đƣợc quyền yêu cầu con nợ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bằng các tài sản khác - tài sản không đƣợc đem ra đảm bảo nếu tài sản đƣợc bảo đảm trƣớc đó không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Trong trƣờng hợp này, thực chất bên chủ nợ đóng vai trò là chủ nợ không có tài sản bảo đảm. Thứ hai, giao dịch bảo đảm tuy có mục đích chính là thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ một giao dịch khác nhƣng giữa hai giao dịch này (giao dịch bảo đảm và giao dịch có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm) có mối liên quan mật thiết với nhau và hoàn toàn độc lập với nhau về phƣơng diện hiệu lực. Điều đó cho thấy rằng giao dịch bảo đảm không thể xem nhƣ là giao dịch phụ và giao dịch đƣợc bảo đảm cũng không thể xem nhƣ là giao dịch chính, do đó mối quan hệ giữa hai giao dịch này cũng không thể coi là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Thứ ba, đối tƣợng của giao dịch bảo đảm luôn luôn là một tài sản hoặc khối tài sản cụ thể có thể trị giá đƣợc bằng tiền hoặc uy tín của bên thứ ba. Đối với tài sản đƣợc đem ra cầm cố hoặc thế chấp thì nhất thiết các bên phải xác định rõ tài sản thế chấp/cầm cố là tài sản gì, ƣớc định giá trị là bao nhiêu. Đối với giao dịch về bảo lãnh thì về nguyên tắc mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên Bảo lãnh đều có thể trở thành tài sản bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay với bên ngân hàng. Các tài sản bảo đảm này nói chung đều phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật nhƣ: Tài sản này phải thuộc sở hữu hợp pháp của bên vay/bên bảo lãnh; đƣợc phép giao dịch; không bị kê biên phát mại để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ khác. Trƣờng hợp bên thứ ba (ví dụ ngân hàng) thực hiện bảo lãnh ngân hàng thì đối tƣợng của giao dịch bảo đảm ở đây là uy tín và khả năng tài chính của ngân hàng bảo lãnh. Thứ tư, giao dịch bảo đảm tuy có giá trị thiết lập quyền ƣu tiên cho bên nhận bảo đảm trong việc theo đuổi và phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình nhƣng về nguyên tắc thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể xử lý tài 18
  18. sản bảo đảm khi nghĩa vụ đƣợc bảo đảm đã không đƣợc bên có nghĩa vụ thực hiện đúng thời hạn. Việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ đƣợc thực hiện theo phƣơng thức do các bên đã thỏa thuận trƣớc đó, hoặc theo quy định của pháp luật. Thứ năm, chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM bao giờ cũng có bên nhận bảo đảm là NHTM, còn bên kia (bên bảo đảm) là các tổ chức, cá nhân cam kết bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay đối với NHTM theo hợp đồng tín dụng. Phạm vi bảo đảm là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của bên đƣợc bảo đảm đối với bên nhận bảo đảm. Cụ thể, đối với bảo đảm tiền vay thì đó là một phần hoặc toàn bộ giá trị khoản vay, lãi suất trong hạn, quá hạn, phí 1.1.1.3. Các loại giao dịch bảo đảm chủ yếu được xác lập trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Bộ luật Dân sự năm 2005 ghi nhận 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm có: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, ký cƣợc, bảo lãnh và tín chấp. Tất cả các biện pháp này dù đƣợc thể hiện dƣới hình thức nào cũng đều hƣớng đến một mục đích chung nhất là đảm bảo sự ổn định và phát triển bình thƣờng của các quan hệ tài sản, bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ dân sự nói chung cũng nhƣ trong quan hệ tín dụng nói riêng. Thực tiễn giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các TCTD cho thấy, biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là các biện pháp đƣợc các TCTD sử dụng phổ biến và thƣờng xuyên nhất. Vì thế, trong khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ tập trung vào việc phân tích ba biện pháp chính là cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Cầm cố tài sản là giao dịch bảo đảm theo đó một ngƣời thỏa thuận giao tài sản của mình cho ngƣời khác cầm giữ, quản lý để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ tài sản của mình hoặc của ngƣời thứ ba đối với ngƣời nhận cầm cố. Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm cầm cố đã đƣợc pháp luật quy định tƣơng đối khác nhau trong những giai đoạn khác nhau. 19
  19. Chẳng hạn, theo Điều 329 BLDS năm 1995 thì: Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữa tài sản cầm cố hoặc giao cho ngƣời thứ ba giữ [28]. Với quy định này thì tài sản cầm cố đƣợc hiểu phải là động sản, bên cầm cố có thể giữ tài sản cầm cố hoặc chuyển giao cho bên nhận cầm cố. Cho đến khi BLDS năm 2005 ra đời thì khái niệm cầm cố đã có những thay đổi cơ bản và trở về đúng với bản chất của cầm cố, theo đó "cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự" [31]. Theo định nghĩa này thì đối tƣợng của cầm cố có thể là động sản hoặc là bất động sản và giao dịch cầm cố luôn gắn liền với việc chuyển giao tài sản từ bên cầm cố cho bên nhận cầm cố. Việc quy định nhƣ vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và tiêu chí để phân biệt giữa cầm cố với thế chấp chính là sự chuyển giao tài sản hay không chuyển giao tài sản cho bên nhận bảo đảm, chứ không phải dựa vào tiêu chí là động sản hay bất động sản. Có thể nhận thấy, với quy định nhƣ trên, khái niệm cầm cố trong BLDS Việt Nam năm 2005 có nhiều nét tƣơng đồng với khái niệm cầm cố trong pháp luật một số nƣớc và tƣơng tự nhƣ các quy định chung về cầm cố trong BLDS của Nhật Bản: "Cầm cố là một quyền bảo đảm bằng tài sản, trong đó chủ nợ tiếp nhận từ ngƣời mắc nợ hoặc ngƣời thứ ba một vật nhất định và cầm giữ vật đó cho đến khi nghĩa vụ đƣợc thực hiện, nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và bằng cách đó gián tiếp ép buộc ngƣời mắc nợ phải thực hiện nghĩa vụ" [33, tr. 286]. Về mặt hình thức, việc cầm cố tài sản bắt buộc phải đƣợc lập thành văn bản (gọi là hợp đồng cầm cố) và hợp đồng này về nguyên tắc chỉ có hiệu 20
  20. lực kể từ thời điểm bên cầm cố chuyển giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố hoặc cho bên thứ ba do hai bên lựa chọn. Ƣu điểm của biện pháp cầm cố là thủ tục nhanh gọn hơn so với các hình thức khác, bên có nghĩa vụ sẽ tiếp cận đƣợc nguồn vốn ngân hàng nhanh hơn, đồng thời ngân hàng không phải mất nhiều thời gian để tiến hành thẩm định dự án, phƣơng án kinh doanh của khách hàng, thời gian giao dịch sẽ rút ngắn lại, do đó tƣơng đối phù hợp với lợi ích của khách hàng. Thế chấp tài sản là giao dịch bảo đảm theo đó một bên dùng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ nhƣng không chuyển giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp. Giống nhƣ tình trạng đối với cầm cố tài sản, khái niệm thế chấp trong BLDS năm 1995 cũng có những điểm khác biệt so với khái niệm thế chấp trong BLDS năm 2005. Cụ thể là: theo quy định của BLDS năm 1995 thì "thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền" [28]. Còn theo quy định của BLDS 2005 thì "thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp" [31]. Với khái niệm nhƣ trên thì về mặt nội dung, thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản, đƣợc hình thành không kèm theo điều kiện phải chuyển giao tài sản thế chấp từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp, tuy nhiên bên thế chấp vẫn phải chuyển giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản thế chấp (nếu có). Bảo lãnh là giao dịch bảo đảm theo đó một ngƣời (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền rằng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà ngƣời này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên có quyền. Nhƣ vậy, theo khái niệm này ta có thể hiểu thực chất bảo lãnh là một loại hợp đồng cụ thể mà đối tƣợng trƣớc 21
  21. hết của nó là sự cam kết bằng uy tín để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, yếu tố tài sản chỉ xuất hiện mang tính chất kèm theo uy tín, do đó thực chất bảo lãnh có cả đặc tính của loại "bảo đảm đối nhân" và "bảo đảm đối vật". Điều này có nghĩa là khi nhận bảo lãnh, ngƣời nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến cả nhân thân ngƣời bảo lãnh, ví dụ: uy tín, độ tin cậy, tƣ cách. Đồng thời, với sự đánh giá này ngƣời nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến khả năng tài sản của ngƣời bảo lãnh, vì trong trƣờng hợp nghĩa vụ tài sản không đƣợc ngƣời bảo lãnh thực hiện, thực hiện không đúng thì ngƣời nhận bảo lãnh có quyền phát mãi các tài sản của ngƣời bảo lãnh để thu nợ cho mình [33, tr. 201-202]. Trong lĩnh vực cho vay của ngân hàng, hoạt động nhận bảo lãnh, phát hành bảo lãnh diễn ra thƣờng xuyên và là một trong các biện pháp bảo đảm khá phổ biến đƣợc nhiều TCTD thực hiện. Bảo lãnh theo quy định của pháp luật Việt nam không chỉ là bảo đảm đối nhân mà còn có thể là bảo đảm đối vật, bởi lẽ ngƣời bảo lãnh cũng có thể phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán cho ngƣời có nghĩa vụ với TCTD (ngƣời đƣợc bảo lãnh). Đây cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa bảo lãnh bằng tài sản với các biện pháp cầm cố, thế chấp, bởi theo quy định của BLDS thì cầm cố, thế chấp bắt buộc phải có tài sản đƣa vào để thực hiện giao dịch, còn đối với bảo lãnh không phải khi nào cũng phải có tài sản đƣa vào là điều kiện để thực hiện giao dịch. Ngoài ra, nhằm tránh tình trạng trốn tránh trong việc thực hiện nghĩa vụ, Điều 369 BLDS năm 2005 quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh: "Trong trƣờng hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đƣợc bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đƣa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh" [31]. Nhƣ vậy, việc bảo đảm tiền vay của TCTD bằng bảo lãnh chỉ đƣợc thực hiện khi đến hạn mà ngƣời có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ với bên có quyền, đồng thời khi đó bên có quyền mới có thể đề nghị bên bảo lãnh thực hiện các cam kết đã ký với bên đƣợc bảo lãnh. 22