Luận văn Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại từ thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại từ thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_xu_ly_no_xau_cua_ngan_hang_thuong_mai.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại từ thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ THÚY PH¸P LUËT VÒ Xö Lý Nî XÊU CñA NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I Tõ THùC TIÔN T¹I NG¢N HµNG Cæ PHÇN NGO¹I TH¦¥NG VIÖT NAM (VIETCOMBANK) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ THÚY PH¸P LUËT VÒ Xö Lý Nî XÊU CñA NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I Tõ THùC TIÔN T¹I NG¢N HµNG Cæ PHÇN NGO¹I TH¦¥NG VIÖT NAM (VIETCOMBANK) Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Cao Thị Thúy
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 8 1.1. Một số vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thƣơng mại 8 1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thƣơng mại 22 1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc xử lý nợ xấu 39 1.3.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Malaysia 40 1.3.2. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Hàn Quốc 42 1.3.3. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan 43 1.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 45 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM (VIETCOMBANK) 47 2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thƣơng mại 47 2.1.1. Tình hình pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại 47 2.1.2. Một số tồn tại, hạn chế trong pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại 49
- 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam (Vietcombank) 57 2.2.1. Tình hình nợ xấu tại Ngân hàng Vietcombank 57 2.2.2. Thực trạng hoạt động xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Vietcombank 60 2.2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Vietcombank 69 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 74 3.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 74 3.1.1. Một số định hướng trong việc giải quyết nợ xấu tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 74 3.1.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 75 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết nợ xấu tại ngân hàng Vietcombank 84 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 PHỤ LỤC 95
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BIS Ngân hàng thanh toán quốc tế DATC: Công ty mua bán nợ Việt Nam DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại TCTD: Tổ chức tín dụng VAMC: Công ty Quản lý tài sản Việt Nam Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Vietcombank: thương Việt Nam
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng phân tích chất lượng dư nợ tín dụng từ năm 2009 – 2014 59 Bảng 2.2: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu từ năm 2009 - 2014 59
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi đổi mới chuyển sang mô hình hai cấp, hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển nhanh chóng và từng bước hội nhập quốc tế, phát huy vai trò kênh dẫn vốn lưu thông trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên cùng với bước phát triển đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nguyên nhân là do tác động của các nhân tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản suy giảm và các nhân tố bên trong như quản trị rủi ro kém, qui trình tín dụng chưa hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm cao, năng lực và đạo đức của nhân viên chưa đáp ứng được yêu cầu, sở hữu chéo Có thể nói, bên cạnh những rủi ro về lãi suất, hối đoái, đạo đức thì rủi ro về nợ xấu là vấn đề nghiêm trọng, cần được xử lý hiệu quả trong điều kiện hiện nay. Nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó có thể thấy được sức khỏe tài chính, kỹ năng quản trị rủi ro của tổ chức tín dụng đó. Trên thực tế, hoạt động kinh doanh ngân hàng không thể tránh khỏi nợ xấu, nhưng để nợ xấu tồn tại quá cao và kéo dài là vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết. Nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến tổ chức tài chính bị thua lỗ và giảm lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của tổ chức tín dụng. Tình trạng này kéo dài sẽ làm tổ chức tín dụng bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Do đó, việc nhận diện nợ xấu và xử lý nợ xấu là một trong những vấn đề quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống tài chính. Làm thế nào để hạn chế, quản lý và xử lý được nợ xấu là một đề tài mà 1
- các ngân hàng đã và đang nghiên cứu nhằm hoàn thiện trong điều kiện mới. Hiện nay có nhiều điểm bất cập trong quá trình xử lý nợ xấu ngân hàng, đặc biệt là ở khối ngân hàng thương mại nhà nước. Quy định về lộ trình, các biện pháp xử lý nợ và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu, chưa hợp lý và các văn bản chuyên ngành còn khá cứng nhắc, không phù hợp với thực tiễn. Ngân hàng Vietcombank là ngân hàng hàng đầu Việt Nam với vai trò tiên phong trong việc thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, kinh tế vĩ mô. Ngân hàng Vietcombank cũng là ngân hàng có hoạt động kinh doanh tương đối ổn định, có lợi thế về vốn, thế mạnh về hoạt động dịch vụ và kinh doanh thẻ. Bên cạnh đó Vietcombank có quan điểm thận trọng trong việc phân loại nợ xấu và khá quyết liệt trong công tác xử lý nợ xấu. Theo đánh giá của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng Vietcombank đang giữ một vị thế rất tốt trên thị trường bởi những kết quả tăng trưởng cao, vững vàng trong khi tình trạng nợ xấu khá thấp lại được xử lý rất thận trọng và hiệu quả. Chính vì vậy, để có đủ cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về xử lý nợ xấu là hết sức cần thiết. Đặc biệt, nghiên cứu thực tiễn xử lý nợ xấu tại một ngân hàng lớn, có bề dày lịch sử như Vietcombank là rất có ý nghĩa, nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng này. 2. Tình hình nghiên cứu Xử lý nợ xấu ngân hàng là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Mỗi nhà khoa học có một cách khai thác đề tài ở những góc độ khác nhau. Ví dụ: Luận văn Tiến sĩ Nguyễn Thị Hoài Phương (2013) “Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam” – Đại học kinh tế Quốc dân; Luận văn thạc sĩ Tài chính và ngân hàng Đặng Thị Thanh Nga (2014) “Nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” – Đại học Kinh tế - 2
- ĐHQGHN; một số bài viết trên báo, tạp chí như: “Những điểm nghẽn cần giải quyết để xử lý nợ xấu một cách triệt để và có hiệu quả” - Theo Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 71 (Tháng 9/2013); “Nợ xấu – một số thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Ngô Minh Châu, Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam; “Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng; “Giải quyết nợ xấu – vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng” của nhóm tác giả Trung tâm thông tin tư liệu số 1/2013; Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích rất nhiều yếu tố và tìm hiểu dưới nhiều góc độ nhưng đa phần đều dừng ở góc độ nghiệp vụ của ngành ngân hàng, chưa đi sâu về các khía cạnh pháp luật. Cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn đề xử lý nợ xấu dưới góc độ pháp luật như Luận văn thạc sĩ Phạm Kim Thoa chuyên ngành Luật kinh tế “Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam” (năm 2007) – Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Đặng Thị Thanh Nga chuyên ngành luật kinh tế “Nợ xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam” (năm 2014), Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương chuyên ngành Luật kinh tế “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” (năm 2012) đi sâu vào phân tích những vấn đề pháp lý trong hoạt động vay của NHTM, qua đó luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay trong hoạt động cho vay của NHTM Tuy nhiên các đề tài nghiên cứu chủ yếu mang tính hệ thống tổng quát, toàn diện chưa đi sâu tìm hiểu cụ thể từng trường hợp ngân hàng cụ thể, hoặc có đề tài chỉ nghiên cứu một vấn đề trong nhóm các giải pháp xử lý nợ xấu; cũng có công trình nghiên cứu từ rất lâu, số liệu cũ. Chính vì vậy, dù ý thức được tầm quan trọng của công tác 3
- xử lý nợ, nhưng do luật pháp trong vấn đề này còn thiếu và yếu nên việc xử lý nợ chưa mang lại kết quả tốt đẹp theo như mong muốn của các bên có liên quan. Ở góc độ luật pháp, hiện nay có rất ít công trình khoa học nghiên cứu cụ thể vấn đề nợ xấu của một ngân hàng thương mại cụ thể nào dù đây là vấn đề gây bức xúc, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh toàn diện và cụ thể của các nhà làm luật. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại từ thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)” làm luận văn thạc sĩ với mong muốn góp phần làm sáng tỏ các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại (ngân hàng Vietcombank), từ đó đề xuất một vài ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên cơ sở tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng các luận cứ lý luận và thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao khả năng xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại có vốn của nhà nước nói chung, ngân hàng Vietcombank nói riêng trong tiến trình hội nhập và phát triển của các định chế ngân hàng với các tiêu chuẩn quốc tế. Với mục đích trên, đề tài đặt các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm nợ xấu, phân loại nợ xấu. - Phân tích, đánh giá một cách khoa học và đầy đủ về nguyên nhân, biện pháp xử lý nợ xấu và nguyên tắc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại trong những năm qua. - Phân tích trực trạng xử lý nợ xấu tại ngân hàng Vietcombank từ đó đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu, cũng như xác định nhu cầu thực tiễn phải hoàn thiện xử lý nợ xấu đối với các ngân hàng thương mại. - Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng thương mại. 4
- - Đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại Vietcombank và kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài. * Về tư liệu: Hệ thống hóa tư liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về hoạt động xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại. * Về nội dung khoa học: Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nợ xấu, xử lý nợ xấu. Các nội dung như khái niệm nợ xấu, phân loại nợ xấu, các nguyên nhân dẫn đến nợ xấu từ đó thấy được tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế. Đồng thời luận văn cũng phân tích các biện pháp xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại hiện nay. Đây là cơ sở lý luận cơ bản có thể nhận thức sâu sắc về nợ xấu và xử lý nợ xấu. Thứ hai, luận văn tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu về nợ xấu, xử lý nợ xấu và các biện pháp, nguyên tắc xử lý nợ xấu từ thực tiễn của ngân hàng Vietcombank; đối chiếu các qui định pháp luật hiện hành với thực tiễn để phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các qui định pháp luật và hoạt động thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng Vietcombank. Đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Vietcombank nói riêng. Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến nợ xấu, trên cơ sở phù hợp với thông lệ quốc tế. Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về pháp luật xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nói chung và thực tiễn tại ngân hàng 5
- Vietcombank nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác xây dựng, nghiên cứu và áp dụng pháp luật nhất là trong bối cảnh chúng ta tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại lớn và quá trình cải cách ngân hàng theo cam kết khi gia nhập WTO. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định hiện hành của pháp luật điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, các qui chế và thực tiễn về xử lý nợ xấu của Vietcombank. Trong luận văn này, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu tất cả các vấn đề về xử lý nợ xấu mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, và đi sâu tìm hiểu hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng Vietcombank, đồng thời tham khảo các qui định xử lý nợ xấu của một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra những khuyến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại nói chung và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của ngân hàng Vietcombank nói riêng. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Những chủ trương đó được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Luận văn vận dụng rất nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, người viết còn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác, để luận văn có tính lý luận và thực tiễn cao: - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh, thống kê. 6
- - Phương pháp mô hình hóa, hệ thống hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu thành 3 chương bao gồm: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại. - Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại từ thực tiễn ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). - Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Một số vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thƣơng mại * Khái niệm nợ xấu Đối với các ngân hàng, nợ xấu được coi là rủi ro tín dụng, nó phản ánh trình độ phát triển và sức khỏe của toàn bộ nền kinh tế, năng lực kiểm soát rủi ro của hệ thống ngân hàng trước những sức ép thường xuyên do tác động của tình trạng bất ổn vĩ mô. Vậy nợ xấu được định nghĩa như thế nào? “Nợ xấu” được dịch thành “bad debt” là một thuật ngữ khá chung chung, chủ yếu phổ biến trên báo chí và các chuyên gia kinh tế. Dưới góc độ pháp lý và các chuyên gia về lĩnh vực ngân hàng thường sử dụng thuật ngữ “non – performing loans” (NPLs – các khoản vay không hiệu quả/ có thể bị mất vốn), trong đi đó các tiêu chuẩn kế toán lại sử dụng thuật ngữ như “non-accrual loans” (US GAAP) hay “impaired loans” (IAS 39). NHNN Việt Nam sử dụng thuật ngữ NPLs nhưng dịch thành “nợ xấu” trong Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN ngày 20/4/2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Nghiên cứu dưới góc độ pháp lý nên bài luận văn sẽ sử dụng thuật ngữ “nợ xấu” với nghĩa của từ “non – performing loans”. Nợ xấu được hiểu là một khoản nợ khó có thể thu hồi được và/hoặc trở nên không còn khả năng sinh lời với các chủ nợ khi mà tất cả những nỗ lực để thu hồi khoản nợ được thực hiện. Nợ xấu thường là sản phẩm của các con nợ không trả được nợ (đúng hạn hoặc phá sản) hay các chi phí bỏ ra cho việc thu hồi nợ còn nhiều hơn khoản nợ mà chủ nợ có thể thu hồi được. Các khoản nợ xấu này sẽ được chủ nợ xử lý rủi ro tín dụng (write-off). 8
- Quan điểm về nợ xấu khác nhau ở mỗi quốc gia và khác nhau dưới góc nhìn của các chủ thể. Có thể nhắc tới một số khái niệm như sau: + Khái niệm nợ xấu của Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS): Dù chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về nợ xấu, nhưng trong các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định: Khoản nợ được coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: Ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi nợ; người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày [1]. Dựa trên hướng dẫn này, nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 ngày và có dấu hiệu người đi vay không trả được nợ. + Khái niệm nợ xấu của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) [18]: Nợ xấu là những khoản cho vay không có khả năng thu hồi như: Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ; hoặc người mắc nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ; hoặc những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. Nợ xấu là những khoản cho vay có thể không thay toán đầy đủ cho ngân hàng: Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa ra để thế chấp không đủ để trả nợ. Điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng không thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi nhuận từ công việc kinh doanh hoặc người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để thanh toán hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn tiền nợ sẽ không thể thu hồi được. + Khái niệm nợ xấu của Tổ chức tiền tệ Quốc tế (IMF) [26]: Một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; 9
- khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không hoàn trả nợ đầy đủ. Như vậy, về cơ bản nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày hoặc (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. + Tại Việt Nam, theo Thông tư số 02/2013/TT – NHNN ngày 21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong việc hoạt động của tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì: “Nợ xấu (NPL) là nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), 4 (Nợ nghi ngờ) và 5 (Nợ có khả năng mất vốn)”. Nợ xấu bao gồm tất cả các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 đến nhóm 5 tùy theo cấp độ rủi ro khác nhau, theo nguyên tắc chỉ cần một khoản vay (trong tổng thể nhiều khoản vay khác) phát sinh quá hạn, hoặc được điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc gia hạn nợ thì toàn bộ dư nợ này của khách hàng đó phải chuyển sang nhóm nợ xấu. Như vậy, nợ xấu theo pháp luật Việt Nam được xác định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 91 ngày hoặc (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại. Từ những định nghĩa trên cho thấy có sự tương đồng trong cách nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản nợ được coi là nợ xấu nếu nó xuất hiện một hoặc cả hai dấu hiệu sau: Quá hạn trả nợ gốc và lãi; khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng coi là không có khả năng trả nợ. Song cũng cần phân biệt giữa hai khái niệm nợ xấu và nợ khó đòi. Nợ xấu (NPLs) và nợ khó đòi (Doubtful debt) là hai khái niệm khác biệt nhau. Nợ xấu là khoản phải thu đặc biệt mà được xác định rõ ràng là không thể thu hồi được và cần phải xử lý rủi ro, nợ xấu là nợ khó thu hồi bị xóa khỏi danh sách các khoản nợ phải thu. Trong khi đó 10
- nợ khó đòi là một khoản thu mà có thể trở thành nợ xấu ở một thời điểm trong tương lai khi không còn cách nào để thu hồi lại được khoản nợ. Nợ khó đòi được ghi dưới dạng chi phí của các ngân hàng và sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. * Bản chất của nợ xấu Xét về bản chất, nợ xấu như một khoản cho vay bắt nguồn từ quan hệ hợp đồng giữa các đối tượng dân sự, mối quan hệ cho vay giữa chủ nợ (ngân hàng) và con nợ (khách hàng). Các mối quan hệ đi vay – cho vay này dựa trên các công cụ nợ. Thông thường, hợp đồng cho vay quy định các nghĩa vụ cơ bản nhất của hai bên: bên cho vay có nghĩa vụ cho vay trong một khoảng thời gian cụ thể và ngược lại người đi vay có nghĩa vụ trả nợ gốc và trả lãi đúng thời hạn. Về mặt lý thuyết, tất cả quan hệ hợp đồng này được dựa trên các tiêu chuẩn thương mại, theo đó người đi vay và người có vay có thể thỏa thuận về quyền lợi của mình một cách bình đẳng. Ví dụ: người cho vay có thể yêu cầu các khách hành bảo đảm cung cấp tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh khoản vay để gánh vác trách nhiệm trong trường hợp không trả được nợ. Khi khoản vay chuyển sang nợ quá hạn, người cho vay và người đi vay có thể giải quyết nợ xấu bằng cách tham khảo các điều khoản của hợp đồng vay ban đầu. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều giao dịch cho vay có thể có sự can thiệp đáng kể từ bên ngoài chẳng hạn áp lực Chính phủ buộc các ngân hàng phải cho vay chính sách. Trong các khoản vay chính sách, người cho vay không còn đưa ra quyết định cho vay theo các tiêu chuẩn thương mại thay vào đó là các tiêu chuẩn phù hợp với chính sách của chính phủ. Do vậy, một số người đi vay có thể không thực hiện trả nợ cũ nhưng vẫn có thể nhận được các khoản vay mới từ ngân hàng. Khi các khoản vay chính sách được xếp vào xấu, nó có thể gây khó khăn cho ngân hàng để thu hồi nợ theo hợp đồng đã 11
- giao kết bởi hầu hết các trường hợp người đi vay có thể bị phá sản và không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Có thể thấy, việc mở rộng chính sách cho vay theo chính sách cũng góp phần gia tăng mức độ của nợ xấu trong hệ thống tài chính. Khi có quá nhiều nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, ngân hàng có khả năng giảm tính thanh khoản bởi dòng tiền mặt từ khách hàng bị chảy chậm lại. Do đó, khi nhìn từ một góc độ toàn diện, vấn đề nợ xấu không còn là mối quan hệ hợp đồng đơn giản, mà ở mức cao hơn cụ thể là: điều tiết hệ thống thị trường ngân hàng một cách toàn thể. Việc giải quyết nợ xấu cần phải xem xét trong một phạm vi hệ thống pháp luật toàn diện không chỉ đơn giản là luật hợp đồng mà còn là luật tài chính, luật thuế, luật tài sản và các quy định hành chính, các quy tắc, thông báo hoặc hướng dẫn. * Phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng nợ xấu Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các danh mục cho vay và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm tương đồng của khoản vay [24]. Việc xem xét và phân loại nợ giúp các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường hợp cần thiết, sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong chất lượng tín dụng các danh mục cho vay. Hiện nay, vẫn chưa có tiêu chuẩn về phân loại nợ xấu mà được áp dụng thống nhất trong tất cả các nước trên thế giới. Có chăng là một số thông lệ được nhiều nước sử dụng và một số hướng dẫn do các tổ chức quốc tế (BIS, IMF) khuyến cáo. Do vậy, phân loại nợ xấu chủ yếu phụ thuộc vào cơ chế, khuôn khổ pháp lý của các nước. Hầu hết các định chế tài chính trên thế giới, phân loại nợ xấu theo 2 tiêu chí sau: Dựa vào tính chất quá hạn của khoản nợ và dựa vào khả năng trả nợ đáng lo ngại. Ngân hàng thế giới phân loại nợ xấu thành các loại sau [22]: 12
- Nợ đạt tiêu chuẩn: Là có tài sản thế chấp theo nghĩa đầy đủ hoặc không quá hạn. Nợ cận chuẩn: Là có tài sản thế chấp đầy đủ nhưng có biểu hiện các điểm yếu tín dụng. Những điểm yếu tín dụng này bao gồm các yếu tố chậm trễ đến việc trả nợ có thể hơn 30 ngày nhưng chưa đến 90 ngày. Nguồn vốn của người vay có biểu hiện không đủ đáp ứng cho các cam kết trả nợ, cần phải có thêm nguồn vốn vay lưu động. Nợ có vấn đề: Khoản vay được đánh giá là có vấn đề bao gồm tất cả các khoản vay cận chuẩn kèm theo các đặc điểm sau: dựa trên thực tiễn, các điều kiện và giá trị hiện tại sẵn có, việc thu đủ nợ là không chắc chắn và rất đang ngờ. Không chắc chắn về việc đánh giá và tính khả mại của thế chấp. Tính đầy đủ của hồ sơ pháp lý thế chấp cũng cần nghiên cứu và xem xét lại. Và các khoản vay có vấn đề đang trì trệ hoạt động, việc trả lãi nợ vay vượt quá thời hạn 90 ngày nhưng không quá 365 ngày. Nợ không thu hồi được: Khoản cho vay bị liệt vào loại nợ này là khoản cho vay không thể thu hồi được hoặc thu hồi rất ít. Sự tồn tại của nó trong danh mục tài sản của ngân hàng được coi là không đảm bảo. Tài sản này có thể có một số giá trị thu lại được hoặc còn lại giá trị sau khi khấu hao, nhưng khả năng thiệt hại cao nên khả năng lỗ cần được ghi nhận ngay hoặc tài sản nên được xóa sổ. Đối với hướng dẫn của BIS trong Basel I thì việc phân loại nợ được chia thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (pass), nợ cần chú ý (special mention), nợ dưới chuẩn (substandard), nợ khó thu hồi được (doubtful) và nợ có khả năng mất vốn (loss) [23]. Hướng dẫn này đang được rất nhiều nước áp dụng. Từ hướng dẫn này thông lệ quốc tế xếp những khoản nợ bị quá hạn (vốn hoặc lãi) quá hạn 90 ngày vào nhóm 3 (substandard) và 3 nhóm cuối (substandard, doubtful, loss) thường được gộp chung thành nợ xấu (NPLs). 13
- Tại Việt Nam, Điều 10, Điều 11 Thông tư số 02/2013/TT – NHNN ngày 21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong việc hoạt động của tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại nợ thành năm nhóm theo phương pháp tiếp cận định lượng và năm nhóm theo phương pháp định tính. Các khoản nợ được phân loại theo phương pháp định lượng, trong đó các khoản nợ xấu nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 là các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Các khoản nợ được phân loại theo phương pháp định tính và nợ xấu thuộc nhóm 3, 4, 5 bao gồm các khoản nợ dưới chuẩn (nhóm 3): nợ được đánh giá không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn; nợ nghi ngờ (nhóm 4): nợ được đánh giá có khả năng tổn thất cao; và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5): nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Cho dù phân loại nợ theo phương pháp định lượng hay phương pháp định tính thì các khoản nợ từ nhóm 3 tới nhóm 5 đều được xếp vào danh mục nợ xấu của ngân hàng. Về cách xếp loại nhóm nợ cho thấy Việt Nam có sự thống nhất với nhiều quốc gia trên thế giới (Mỹ, Nhật, Singapore, Hồng Kong, Trung Quốc). Việc chia làm năm nhóm nợ và giải thích cơ bản từng nhóm là tương đồng với các nhóm nợ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các khoản tín dụng được phân loại theo 5 nhóm nợ, căn cứ từng nhóm các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro. Theo Thông tư số 02/2013/TT – NHNN yêu cầu trích lập 2 loại dự phòng là dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Dự phòng chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể. Cụ thể, nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) 14
- trích dự phòng 0%, nhóm 2 (nợ cần chú ý) trích dự phòng 5%, nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) trích dự phòng 20%, nhóm 4 (nợ nghi ngờ) trích 50%, nhóm 5 (nợ có nguy cơ mất vốn) trích dự phòng 100%. Ngoài ra, ngân hàng còn phải trích dự phòng rủi ro chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ. Dự phòng rủi ro là một nguồn quan trọng để các ngân hàng sử dụng để xử lý nợ. Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là phương pháp các ngân hàng sử dụng để ghi nhận tổn thất so với giá trị ghi nhận ban đầu của khoản vay [3]. Và mức trích lập dự phòng càng lớn thì lợi nhuận ngân hàng càng giảm và ngược lại. Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng gặp nhiều khó khăn cả về mặt lý thuyết và thực tế bởi các quốc gia có lựa chọn rất đa dạng cho hệ thống phân loại và lập dự phòng. Quá trình phân loại và trích lập dự phòng là vấn đề đánh giá chủ quan, do đó kết quả đánh giá có thể rất khác nhau giữa những người đánh giá. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng pháp lý ở từng quốc gia cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng. Ở các quốc gia có cơ sở hạ tầng pháp lý chuẩn hóa thường có xu hướng đưa các khoản vay vào diện quá hạn nhanh hơn ngay sau khi người vay không trả được một khoản thanh toán. Ở các quốc gia cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, thời gian giữa việc chưa thanh toán và thay đổi phân loại khoản vay có thể dài hơn. * Tỷ lệ nợ xấu Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Do đó, đo lường chất lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tùy theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một trong những chỉ tiêu đó là tỷ lệ nợ xấu. Tại khoản 9 Điều 3 Thông tư số 02/2013/TT- NHNN ngày 21/01/2013 về quy định phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dựng dự phòng 15