Luận văn Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 10780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_van_de_giai_quyet_viec_lam_cho_nguoi_l.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TÚ ANH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TÚ ANH PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ Tó Anh 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ 6 PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT 1.1. Quan niệm về giải quyết việc làm và pháp luật về giải quyết 6 việc làm cho người lao động khuyết tật 1.1.1. Khái niệm giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật 6 1.1.2. Ý nghĩa của giải quyết việc làm đối với người lao động 12 khuyết tật 1.1.3. Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao 15 động khuyết tật 1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với giải quyết việc làm cho 18 người lao động khuyết tật 1.2.1. Nguyên tắc giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật 18 1.2.2. Nội dung pháp luật giải quyết việc làm cho người lao động 22 khuyết tật 1.2.3. Vai trò của pháp luật trong việc giải quyết việc làm cho người 26 lao động khuyết tật 1.3. Pháp luật của một số nước trong việc giải quyết việc làm cho 27 người lao động khuyết tật và những kinh nghiệm cho Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC 31 LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Lược sử quá trình hình thành và phát triền pháp luật về giải 31 quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam 4
  5. 2.1.1. Pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết 31 tật trước khi có Bộ luật lao động 2.1.2. Pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết 33 tật từ khi có Bộ luật lao động 2.2. Thực trạng các quy định về giải quyết việc làm cho người lao 36 động khuyết tật 2.2.1. Về các chủ thể tham gia giải quyết việc làm cho người lao 36 động khuyết tật 2.2.2. Quỹ giải quyết việc làm cho người khuyết tật 47 2.3. Thực tiễn giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật 50 2.3.1. Thuận lợi 50 2.3.2. Khó khăn 53 2.3.3. Nguyên nhân 56 Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI 62 QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện các quy định pháp 62 luật về giải quyết việc làm cho người khuyết tật 3.1.1. Về mặt khách quan 62 3.1.2. Về mặt chủ quan 63 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về 64 giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật tại Việt Nam 3.2.1. Về các quy định của pháp luật 64 3.3.2. Về tổ chức và thực hiện 72 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc làm luôn là vấn đề được mọi người dân, xã hội quan tâm. Trong xã hội ngày nay, để tìm được công việc ổn định và phụ hợp luôn khó khăn, đặc biệt đối với người khuyết tật bởi họ luôn phải chịu thiệt thòi về thể chất, tinh thần hơn những người khác. Bên cạnh đó, người khuyết tật còn chịu nhiều bất lợi khác như: thường xuyên bị tách biệt khỏi xã hội bởi những phản ứng tiêu cực từ xã hội. Giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật không chỉ là một vấn đề kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Khi người lao động khuyết tật được tạo điều kiện tiếp cận cơ hội việc làm, họ sẽ có thêm tự tin để cống hiến những năng lực của mình cho xã hội. Việc làm giúp người lao động khuyết tật tạo ra của cải vật chất cho xã hội, có thu nhập nuôi sống bản thân, phụ giúp gia đình. Qua đó, người khuyết tật không còn tâm lý phải sống dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác, sống hòa nhập hơn với cộng đồng, xã hội và được mọi người thừa nhận. Là một quốc gia đang phát triển cùng với những định hướng phát triển kinh tế bền vững, giải quyết việc làm cho người khuyết tật ngày càng được quan tâm ở Việt Nam. Từ những lý do trên, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay". Với đề tài này, tôi muốn phân tích làm rõ những quy định pháp luật hiện hành, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong chính sách pháp luật hiện nay về giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Trên cơ sở đó, góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm cho người khuyết tật; giúp người lao động khuyết tật có thể tiếp cận, nắm bắt cơ hội việc làm. Tôi mong muốn mỗi người trong xã hội chúng ta, đặc biệt là các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có cách nhìn tích cực hơn về 6
  7. người lao động khuyết tật, mở ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho những người khuyết tật Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trên thế giới, vấn đề khuyết tật nói chung và việc làm cho người khuyết tật nói riêng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề khuyết tật đã được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau như: phục hồi chức năng, giáo dục, đào tạo nghề, Tuy nhiên, những nghiên cứu về khuyết tật ở Việt Nam vẫn chưa nhiều. Chúng ta thường tìm hiểu vấn đề này thông qua một số ấn phẩm về người khuyết tật do Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam ban hành như: Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật (xuất bản năm 2006 - Tổ chức lao động quốc tế); Đào tạo và việc làm cho người tàn tật: Việt Nam 2002, (Yulie Yoder) - Tổ chức lao động quốc tế, xuất bản năm 2002; Phân tích công việc đơn lẻ và công việc tổng thể hướng dẫn phương pháp tạo việc làm cho người khuyết tật (Robert Heron); Quản lý cơ sở vì hòa nhập của người khuyết tật (Phòng xuất bản, Văn phòng Lao động quốc tế, xuất bản năm 2009) Thời gian gần đây, một số báo cáo nghiên cứu mới về người khuyết tật như: Hòa nhập người khuyết tật Việt Nam, đánh giá cuối kỳ 2010, do nhóm đánh giá Eva Lindskog, Trần Thị Thiệp, Hoàng Hải Yến thực hiện - thỏa thuận hợp tác giữa tổ chức CRS và USAID (xuất bản 12/2009); Việc làm của người khuyết tật, kinh nghiệm và bài học rút ra từ dự án "Phát huy năng lực của người khuyết tật tại thành phố Đà Nẵng thông qua các cơ hội và dịch vụ y tế", Nxb Lao động - xã hội, 2011; Quản lý giáo dục hòa nhập, do Trần Ngọc Giao, Lê Văn Tạc chủ biên, Nxb Phụ nữ, 2002; Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã xây dựng Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam, do PGS.TS Nguyễn Hữu Chí làm chủ biên, hiện nay giáo trình đã được đưa vào giảng dạy cho sinh viên. Nội dung pháp luật về giải quyết việc làm cho người khuyết tật thì chưa có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nào nghiên cứu mà chỉ được đề cập 7
  8. trong một số bài viết như: Trần Văn Kham: "Việc làm cho người khuyết tật - một số cách tiếp cận", đăng trên kỷ yếu hội thảo về việc làm cho người khuyết tật tổ chức tại Đại học Văn Lang, Thành phố Hồ Chí Minh, 30/8/2011; ThS. Nguyễn Ngọc Toản: Dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật: Thực trạng và những vấn đề đặt ra; Năm 1999, Phạm Thị Thanh Việt hoàn thành luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội về đề tài: Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam; Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo: Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, được đăng trên trang Thông tin khoa học và xã hội, số 8(320), 2009. Đến năm 2013, Hồ Thị Trâm bảo vệ thành công đề tài luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội: Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật Tuy nhiên, giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật chỉ mới được các tác giả đề cập ở một nội dung nhỏ trong đề tài của mình. Nhìn chung, giải quyết việc làm cho người khuyết tật đã và đang được cả xã hội quan tâm, nhưng những vấn đề cụ thể về nó thì chưa được nghiên cứu nhiều. Kế thừa những nghiên cứu đã có của các tác giả; kết hợp với kết quả báo cáo các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật tại các tổ chức phi chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam, tác giả luận văn mạnh dạn chọn đề tài: "Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" nhằm làm sáng tỏ, bổ sung thêm ý nghĩa của hệ thống lý luận, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả tình trạng việc làm cho người khuyết tật. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu của luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ hệ thống lý luận, chính sách pháp luật về việc làm cho người khuyết tật hiện nay. Đồng thời, phân tích thực trạng pháp luật liên quan giải quyết việc làm cho người khuyết 8
  9. tật ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật, cũng như việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến pháp luật về việc làm cho người khuyết tật. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các các quy định pháp lý liên quan về việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam. Thực trạng các quy định pháp luật từ khi Luật người khuyết tật năm 2010 có hiệu lực thi hành đến nay, nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành góp phần nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và quyền con người. Sử dụng phương pháp thu thập thống kê, quan sát, so sánh nhằm phân tích, đánh giá thực trạng của các quy định liên quan, đưa ra các kết luận mang tính khoa học để hoàn thiện chính sách pháp luật trong vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa của luận văn Về mặt lý luận: Đề tài luận văn có ý nghĩa làm rõ hệ thống lý luận, những vấn đề pháp lý cơ bản về giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Từ đó có những nhận thức mới, sâu sắc hơn đối vấn đề này. Bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm trên các khía cạnh về đào tạo nghề, cơ hội việc làm, thúc đẩy mô hình tự tạo việc làm, khả năng lựa chọn cơ hội việc làm cũng như những yêu cầu về tạo dựng môi trường dễ 9
  10. hòa nhập, không rào cản cho lao động là người khuyết tật phù hợp với Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006. Về mặt thực tiễn: Qua phân tích thực trạng của vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật, nhằm đưa ra các đề xuất kiến nghị để hoàn thiện cơ sở chính sách pháp luật, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả trong tổ chức triển khai hoạt động giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về giải quyết việc làm và pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật. Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 10
  11. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT 1.1. QUAN NIỆM VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG KHUYẾT TẬT 1.1.1. Khái niệm giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật 1.1.1.1. Khái niệm và phân loại người khuyết tật Trên thế giới, pháp luật được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà người khuyết tật đang phải gánh chịu, tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng cho họ. Có hai quan điểm về vấn đề khuyết tật: khuyết tật là ở chính con người đó và chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội xung quanh họ (mô hình khuyết tật dưới góc độ y tế) và khuyết tật là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ việc môi trường vật thể và môi trường xã hội không đáp ứng được những nhu cầu của từng cá nhân hoặc các nhóm đối tượng cụ thể (mô hình xã hội). Phân loại quốc tế về khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật xuất bản đầu tiên vào năm 1980 bởi Tổ chức Y tế Thế giới đã có một sự phân biệt quan trọng giữa khiếm khuyết và hai hình thức khác của tình trạng khiếm khuyết được gọi là khuyết tật và tàn tật [44, tr. 6]. Theo đó, khuyết tật là bất kỳ giới hạn hoặc mất chức năng nguồn từ sự khiếm khuyết làm ngăn cản việc thực hiện một hoạt động trong khoảng thời gian được coi là bình thường của một người; tàn tật là tình thế bất lợi xuất phát từ sự khiếm khuyết hoặc khuyết tật hạn chế thực hiện một vai trò được coi là bình thường đối với tuổi tác, giới tính và các yếu tố xã hội và văn hóa. Tại Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng và việc làm (người khuyết tật) năm 1983 có định nghĩa về người có khuyết tật như sau: "Người 11
  12. khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận" [38, Khoản 1, Điều 1]. Ở Đức, Sách số chín của Bộ luật Xã hội định nghĩa "người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực, hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội" [12, tr. 17]. Luật bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa "người khuyết tật là người bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát triển trong nghề nghiệp" [12, tr. 18]. Luật người khuyết tật năm 2010, Khoản 1 Điều 2 định nghĩa: "người khuyết tật được hiểu là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn" [33]. Đây là khái niệm tương đối toàn diện về lao động khuyết tật, khắc phục những bất cập trong khái niệm lao động khuyết tật trước đây. Khái niệm này thuận lợi cho xây dựng các mục tiêu hỗ trợ về mặt vật chất hoặc tài chính cho lao động khuyết tật, hoặc người sử dụng lao động khuyết tật. Điều này mang lại ý nghĩa to lớn, giúp cho việc hoạch định chính sách và thực hiện chính sách đối với lao động tàn tật được hiệu quả. Như vậy, khái niệm người khuyết tật được xây dựng phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc các chính sách pháp luật của mỗi nước theo đuổi, tiêu chí xác định khuyết tật, yếu tố văn hóa, điều kiện về kinh tế, xã hội. Qua những tìm hiểu trên đây có thể thấy các nước trên thế giới không có một định nghĩa chung nhất về người khuyết tật. Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản năm 2011, đưa ra định nghĩa khái niệm người khuyết tật như sau: "Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận 12
  13. trên cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác" [41]. Theo tác giả luận văn, định nghĩa về khái niệm người khuyết tật cần được xây dựng dựa trên nền tảng về quyền con người. Khái niệm định nghĩa người khuyết tật phải phán ánh được thực tế là khuyết tật gặp phải những rào cản do yếu tố xã hội, môi trường nhưng vẫn đảm bảo họ có quyền và trách nhiệm khi tham gia vào hoạt động đời sống xã hội như mọi công dân khác. Có thể đưa ra định nghĩa khái niệm về người khuyết tật như sau: Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế trong việc tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội trên cơ sở bình đẳng về quyền và nghĩa vụ với những chủ thể khác. Trên thế giới, do xuất phát từ quan điểm khác nhau về khuyết tật nên cách nhìn nhận về người khuyết tật cũng khác nhau. Ví dụ, theo mô hình khuyết tật cá dưới góc độ y tế nhìn nhận người khuyết tật ở khía cạnh: một người suy giảm khả năng vận động sẽ bị rơi vào hoàn cảnh khuyết tật do sự suy giảm chức năng của riêng cá nhân đó; người ấy có thể cố gắng vượt qua các hạn chế về chức năng do tình trạng khuyết tật gây ra bằng cách điều trị y khoa hoặc sử dụng cá dụng cụ trợ giúp y tế (nạng, xe lăn, xe lắc, ). Nhưng với mô hình xã hội về khuyết tật thì cũng là sự suy giảm khả năng vận động đó, nhưng người khuyết tật đó cần được xem xét trong bối cảnh xã hội cũng như môi trường xung quanh. Xóa bỏ những rào cản xã hội, đảm bảo sự tiếp cận với môi trường có ý nghĩa tích cực giúp người khuyết tật hoạt động và tham gia vào cuộc sống. Có nhiều cách phân loại khuyết tật: phân loại theo dạng khuyết tật, theo nhóm khuyết tật, theo mức độ Phân loại khuyết tật theo dạng khuyết tật, ta có 7 dạng, đó là: khiếm thị; khiếm thính; khuyết tật vận động; khuyết 13
  14. tật ngôn ngữ; đa tật; thiểu năng hay còn gọi là chậm trí; bệnh down, não nước Chuyên ngành giáo dục, Luật giáo dục cho người khuyết tật (IDEA) lại phân loại khuyết tật thành 14 nhóm khuyết tật: tự kỷ; điếc; mù - điếc; chậm phát triển; khiếm thính; chậm phát triển trí tuệ; đa tật, khiếm khuyết chỉnh hình, khiếm khuyết về sức khỏe; rối loạn tình cảm nặng; khuyết tật về nhận thức riêng biệt; khuyết tật ngôn ngữ; chấn thương não; khiếm thị. Tổ chức Y tế Thế giới thì phân loại về khuyết tật theo ba mức độ suy giảm là khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật. Khiếm khuyết chỉ sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/ và sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Tàn tật đề cập đến tình trạng bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khuyết tật do tác động của môi trường xung quanh đến tình trạng khuyết tật của họ. Luật người khuyết tật năm 2010 phân loại khuyết tật theo dạng tật và mức độ khuyết tật (Điều 3). Theo quy định tại luật này, dạng tật bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Theo mức độ khuyết tật thì có: người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định nói trên. Theo tác giả, việc quy định về dạng tật và mức độ khuyết tật một cách cụ thể, rõ ràng sẽ góp phần quan trọng trong quá trình hỗ trợ, tạo điều kiện phù hợp cho người khuyết tật làm chủ cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, đặc biệt là đối với vấn đề giải quyết việc làm cho họ. Dựa trên đặc điểm của người khuyết tật, dạng tật, mức độ khuyết tật, ta sẽ xác định được người khuyết tật nào có khả năng tiếp cận với thị trường lao động; ngành nghề nào 14
  15. phù hợp với họ; phương pháp đào tạo thích hợp; những kỹ năng nghề nào cần bổ sung Ví dụ: người khuyết tật vận động, khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn đều có bộ não phát triển bình thường. Khi những người này được quan tâm và tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ phương tiện phù hợp thì họ vẫn có thể tiếp thu được các chương trình học tập, làm việc. 1.1.1.2. Giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật Định nghĩa về khái niệm người khuyết tật cũng như việc phân loại khuyết tật có vai trò quan trọng đối với giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật. Dựa trên những đặc điểm cũng như cách phân loại đó, ta có thể đưa ra định hướng trong việc hoạch định chính sách pháp luật cũng như các biện pháp hỗ trợ người lao động khuyết tật trong thực tiễn. Trong suốt một thời gian dài, người ta vẫn cho rằng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của người khuyết tật có mối liên quan chặt chẽ, và trên thực tế là hậu quả không tránh khỏi, của sự sút kém về tinh thần và thể chất của người khuyết tật. Ngày nay, hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng, nguyên nhân chính của những bất lợi mà người khuyết tật đang phải đối mặt, cũng như việc họ thường xuyên bị tách biệt khỏi xã hội không phải do tình trạng khuyết tật của từng cá nhân, mà chính là hậu quả của những phản ứng tiêu cực từ toàn xã hội đối với người khuyết tật. Đó là những khó khăn, cản trở bởi thái độ; sự phân biệt và những chính sách, luật pháp; các vấn đề về văn hóa xã hội nơi mà người khuyết tật sinh sống. Người khuyết tật có thể tự mình tạo ra việc làm hoặc tham gia vào các quan hệ lao động khác để có việc làm. Có thể hiểu, việc làm đối với người lao động khuyết tật là những hoạt động lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Như vậy, việc làm đối với người lao động khuyết tật cũng tương tự như những người lao động khác trong quan hệ lao động. Công ước 159 yêu cầu các nước đã phê chuẩn công ước này phải xây dựng các chính sách quốc gia dựa trên nguyên tắc cơ hội bình đẳng giữa người 15
  16. lao động khuyết tật và người lao động nói chung, tôn trọng sự bình đẳng về cơ hội, đối xử bình đẳng giữa người khuyết tật nam và nữ. Người khuyết tật có đầy đủ quyền con người, trong đó có quyền việc làm. Việc đề cao sự tham gia toàn diện của người khuyết tật được thể hiện thông qua khái niệm về phục hồi chức năng gắn với việc làm: "Tạo cho người khuyết tật tìm được một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc và thăng tiến với nó và nhờ đó thúc đẩy hòa nhập hoặc tái hòa nhập của cá nhân đó vào xã hội" [38, Khoản 2 Điều 1]. Người lao động khuyết tật cần được nhìn nhận như là một bên chủ thể trong quan hệ lao động, được hưởng đầy đủ các quyền của mình, kể cả quyền có việc làm chứ không phải từ góc độ là đối tượng của phúc lợi xã hội. Theo tác giả, có thể định nghĩa khái niệm giải quyết việc làm cho người khuyết tật như sau: Giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường đảm bảo cho người lao động khuyết tật trong độ tuổi lao động, đang có nhu cầu làm việc có cơ hội việc làm. Nói cách khác, giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động của người lao động khuyết tật. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tạo việc làm nói chung bao gồm: Nhân tố tự nhiên, vốn, công nghệ (đây là các tiền đề vật chất để tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất nào); nhân tố bản thân người lao động khuyết tật trong quá trình lao động (bao gồm thể lực, trí lực, kinh nghiệm quản lý, sản xuất của người lao động khuyết tật); cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia; hệ thống thông tin thị trường lao động (được thực hiện bởi chính phủ và các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu tuyển dụng lao động). Người khuyết tật nói chung và người lao động khuyết tật nói riêng luôn có những đặc điểm về sinh lý, sức khỏe, tâm lý và yếu tố xã hội hạn chế hơn so với những người không khuyết tật. Chính vì vậy để giải quyết tốt việc 16
  17. làm cho người khuyết tật đòi hỏi sự kết hợp của tất cả các yếu tố: vốn, công nghệ, bản thân người lao động khuyết tật, hệ thống thông tin thị trường lao động và đặc biệt là không thể thiếu yếu tố cơ chế, các chính sách, quy định của pháp luật. Chính sách pháp luật là điều kiện thuận lợi cho các mục tiêu hỗ trợ về mặt vật chất hoặc tài chính cho người lao động khuyết tật. Người sử dụng lao động là người góp phần giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật được hiệu quả. 1.1.2. Ý nghĩa của giải quyết việc làm đối với người lao động khuyết tật Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, tác động lớn đến sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, giải quyết việc làm còn là giải quyết một vấn đề cấp thiết trong xã hội. Đây là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập nền kinh tế quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong nhiệm vụ tập trung tạo việc làm có chỉ rõ: "Khuyến khích mọi thành phần, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động " [14]. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình trọng điểm của Nhà nước, Đảng ta đã khẳng định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [15]. Đối với người khuyết tật, việc làm luôn đóng vai trò quan trọng. Việc làm giúp người khuyết tật có thu nhập để nuôi sống bản thân, ổn định cuộc sống. Thông qua công việc được làm, người lao động khuyết tật có thể tự khẳng định về bản thân, không phải phụ thuộc vào gia đình, xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xét về hoàn cảnh, môi trường 17
  18. sống: 70-80% ở thành thị và 65-70% ở nông thôn số người khuyết tật sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; khoảng 25-35% số người khuyết tật có việc làm và thu nhập cho bản thân và gia đình. Về trình độ văn hóa: khoảng 35,83% người khuyết tật không biết chữ; 12,58% biết đọc, biết viết; 20,74% có trình độ Trung học cơ sở; 24,13% có trình độ trung học phổ thông. Hầu hết người khuyết tật chưa qua dạy nghề (97,64%). Có khoảng 58% người khuyết tật tham gia làm việc; 30% chưa có việc làm [18]. Trước đây, người khuyết tật thường được nhìn nhận dưới góc độ đạo đức. Nếu giải quyết được vấn đề việc làm cho người khuyết tật sẽ góp phần thay đổi nhận thức về khả năng lao động của người khuyết tật. Với quan điểm nhìn nhận người khuyết tật dưới góc độ đạo đức, người khuyết tật chính là đối tượng cần trợ giúp, ngày nay cần tiếp cận người khuyết tật dưới góc độ về quyền con người. Người khuyết tật có đầy đủ các quyền, trong đó có quyền việc làm để tạo ra của cải vật chất, nuôi sống bản thân, cống hiến cho xã hội. Thứ nhất, giải quyết việc làm không chỉ giúp người khuyết tật có thu nhập, ổn định đời sống mà quan trọng hơn là giúp người khuyết tật được hòa nhập với cộng đồng và tự tin trong cuộc sống. Thực tế đã có rất nhiều người, dù bản thân khuyết tật nhưng vẫn ý thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội. người khuyết tật biết tự vươn lên trong cuộc sống, học tập và lao động như những người không khuyết tật khác. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người khuyết tật khác luôn tự ti, mặc cảm với khiếm khuyết của mình, sống khép kín trong gia đình, ngại tiếp xúc xã hội, ngại giao tiếp trông chờ sự trợ giúp của Nhà nước, xã hội. Nếu được làm việc, những người khuyết tật này sẽ có cơ hội thể hiện năng lực của bản thân mình. Họ sẽ ngày càng tự tin hơn để hòa nhập với cuộc sống, môi trường xung quanh và xã hội. Thứ hai, giải quyết việc làm là điều kiện tốt để người khuyết tật hoàn thiện và thay đổi bản thân. 18
  19. Môi trường làm việc thường là môi trường tập thể. Khi làm việc, người lao động khuyết tật có cơ hội tiếp xúc với những người lao động khác, nhận thức của người khuyết tật về bản thân cũng sẽ có những thay đổi. người khuyết tật sẽ thấy mình có ích cho gia đình, xã hội để sống tự tin hơn, tự xóa bỏ những mặc cảm. Qua đó, người khuyết tật hòa nhập cộng đồng tốt hơn để tạo ra các kênh tương tác xã hội, mang lại lòng tự hào và nhân phẩm cho người khuyết tật. Thứ ba, giải quyết việc làm cho người khuyết tật góp phần phát huy nguồn nhân lực cho xã hội. Người khuyết tật là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách rời. Vì vậy, người khuyết tật cũng có trách nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cộng đồng và đóng góp công sức của mình đối với quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia và có quyền được hưởng đầy đủ những thành quả phát triển của xã hội. Ở Việt Nam, theo cách phân loại trên tỷ lệ người khuyết tật chung của cả nước là 15,3%. Vùng có tỷ lệ khuyết tật cao nhất là Đông Nam Bộ, thấp nhất là Tây Bắc. Tỷ lệ người khuyết tật khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (17,8% so với 14,4%). Tỷ lệ người khuyết tật nữ cao hơn nam (16,58% so với 13,69%) [16]. Xét trên số liệu này thì tỷ lệ người khuyết tật ở nước ta khá cao. Trong số những người khuyết tật này, vẫn có nhiều người khuyết tật có khả năng và mong muốn được làm việc. Nếu vấn đề việc làm cho người khuyết tật được giải quyết tốt thì một bộ phận người khuyết tật sẽ trở thành lực lượng lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực, góp phần phát huy nguồn nhân lực rất lớn cho xã hội. Người khuyết tật là những người bị suy giảm về thể chất, trí tuệ, tâm thần hoặc giác quan được biểu hiện dưới dạng khuyết tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn và cản trở sự tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội. Nếu được tạo điều kiện cần thiết, xây dựng được môi 19
  20. trường làm việc phù hợp và tự mình vươn lên thì người khuyết tật có thể sống, hoạt động và đóng góp cho xã hội theo sức khỏe và năng lực như những người không khuyết tật khác. người khuyết tật sẽ cùng với những người không khuyết tật phát huy khả năng, nguồn nhân lực của chính mình cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Thực tế cho thấy, người khuyết tật cũng đã có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế của đất nước. 1.1.3. Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật Nếu như định nghĩa khái niệm người khuyết tật được dựa trên nền tảng là quyền con người thì định nghĩa pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật được dựa trên nền tảng là quyền lao động và việc làm. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2007 ghi nhận các quyền cơ bản của người khuyết tật gồm: Quyền được sống; quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền được tự do và an toàn cá nhân; quyền được tôn trọng cuộc sống riêng tư; quyền được sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm; quyền được tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch; quyền tự do biểu đạt, chính kiến và tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng; quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền được tham gia vào các hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền được hưởng các dịch vụ y tế; quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có cơ hội công việc và việc làm. Trong những quyền này, pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật cần được xây dựng nhằm đảm bảo những quyền cơ bản sau: quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền được tự do và an toàn cá nhân; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng; quyền được hỗ trợ chức năng 20