Luận văn Pháp luật về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng

pdf 105 trang vuhoa 25/08/2022 5561
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_uu_dai_xa_hoi_va_thuc_tien_thuc_hien_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIỀU THỊ TIẾN PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIỀU THỊ TIẾN PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tác giả luận văn Kiều Thị Tiến i
  4. MỤC LỤC Lời cam đoan i Mục lục ii MỞ ĐẦU 1 1.Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Kết cấu của luận văn 4 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI 5 1.1. Khái niệm và ý nghĩa về ưu đãi xã hội 5 1.1.1. Khái niệm ưu đãi xã hội 5 1.1.2. Ý nghĩa ưu đãi xã hội 8 1.2. Pháp luật ưu đãi xã hội 12 1.2.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội 12 1.2.2. Các nguyên tắc pháp luật ưu đãi xã hội 14 1.2.3. Nội dung pháp luật về ưu đãi xã hội 22 1.3. Vai trò pháp luật về ưu đãi xã hội 25 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 28 2.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về Ưu đãi xã hội ở Việt Nam 28 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954 28 2.1.2. Giai đoạn từ 1955 đến 1975 30 2.1.3. Giai đoạn từ 1976 đến 1985 31 2.1.4. Giai đoạn từ 1986 đến 1994 32 ii
  5. 2.1.5. Giai đoạn từ 1995 đến nay 33 2.2. Thực trạng pháp luật về ưu đãi xã hội ở Việt Nam 35 2.2.1. Về đối tượng hưởng ưu đãi 36 2.2.2. Về điều kiện và mức hưởng ưu đãi 38 2.2.3. Về nguồn tài chính thực hiện ưu đãi 69 2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật ưu đãi xã hội tại thành phố Đà Nẵng 69 2.3.1. Những thành công 69 2.3.2. Một số hạn chế 74 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI 78 3.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội 78 3.1.1. Pháp luật ưu đãi xã hội phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước 78 3.1.2. Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính toàn diện 80 3.1.3. Pháp luật ưu đãi xã hội phải bảo đảm tính thực tiễn 82 3.1.4. Xã hội hóa hoạt động ưu đãi xã hội 83 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội 85 3.2.1. Trong công tác xây dựng chính sách pháp luật 85 3.2.2. Công tác quản lý, tổ chức thực hiện 88 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ưu đãi xã hội tại thành phố Đà Nẵng 90 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 iii
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới của đất nước đã thu được nhiều thành tựu kinh tế xã hội quan trọng, quá trình đổi mới đặt ra yêu cầu tăng trưởng kinh tế với phát triển công bằng xã hội. Cùng với thành tựu chung của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, công tác ưu đãi người có công với cách mạng đã có những bước phát triển mới, góp phần thực hiện công tác tri ân, đền ơn đáp nghĩa đối với người có công mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận trong thực hiện các chế độ ưu đãi cũng như hoạt động xã hội hóa công tác chăm sóc người có công. Cho đến thời điểm hiện nay trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, những vấn đề mới nẩy sinh trong tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi như: vấn đề xác nhận đối tượng người có công, công tác mộ - nghĩa trang liệt sĩ, các vấn đề ưu đãi về nhà ở, giáo dục đào tạo, y tế, tạo việc làm, đối với người có công và thân nhân của họ đã được định hướng và từng bước giải quyết cơ bản. Cùng với việc xây dựng hệ thống chính sách kinh tế, công tác xây dựng hoàn thiện hệ thống các chính sách xã hội trong đó có chính sách đối với người có công là vấn đề cần thiết đặt ra ở nước ta. Một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách pháp luật xã hội là chính sách ưu đãi người có công, đây là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Suốt mấy chục năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật đối với đối tượng này và thường xuyên bổ sung (sửa đổi) cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, có thể nói từ khi thành lập nước đến nay đã hình thành một hệ thống chính sách mà các nội dung đều gắn liền với việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội liên quan đến đời sống hằng ngày của người có công. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình 1
  7. chính sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức trung bình của nhân dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực : Nhà nước – Cộng đồng và bản thân đối tượng chính sách tự vươn lên”. Việc Nhà nước sữa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và quy định bổ sung các chính sách ưu đãi mới đã đánh dấu bước phát triển, từng bước hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công. Đó cũng chính là quá trình cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách nhằm tiếp tục ghi nhận sự hy sinh cống hiến của những người đã không tiếc tuổi xuân, máu xương vì nền độc lập thống nhất đất nước, là biểu hiện sinh động của “Ý Đảng – lòng dân”, truyền thống đạo lý cao đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta [32,tr.1]. Tuy nhiên, pháp luật về ưu đãi xã hội hiện nay còn một số mặt hạn chế nhất định như: mức hỗ trợ còn thấp so với tốc độ gia tăng giá cả của đời sống xã hội đã dẫn đến tình trạng đời sống của nhiều người, nhiều gia đình chính sách chưa được bảo đảm; Thủ tục để được công nhận là đối tượng chính sách (liệt sĩ, thương binh .) nhìn chung là đầy đủ, khá đơn giản nhưng lại không linh hoạt. Thực tiễn tồn tại rất nhiều trường hợp do thời gian hay những lý do khác đã không đáp ứng được những yêu cầu về mặt thủ tục, giấy tờ mà pháp luật yêu cầu nên đã không được công nhận là đối tượng chính sách để được hưởng ưu đãi xã hội Với mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại thành phố Đà Nẵng nơi bản thân đang sinh sống và công tác để từ đó tìm ra những hạn chế của pháp luật ưu đãi xã hội nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật này. Đó chính là lý do mà em lựa chọn đề tài “Pháp luật về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2
  8. 2. Tình hình nghiên cứu Ưu đãi xã hội là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Nghiên cứu về lĩnh vực này đã có nhiều công trình, bài viết được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau như: nghiên cứu ưu đãi xã hội dưới góc độ là một chính sách xã hội; hay nghiên cứu ưu đãi xã hội với tư cách là một nội dung độc lập; và nghiên cứu ưu đãi xã hội dưới góc độ luật học có thể thấy : -Về luận án Tiến sỹ với đề tài :”Hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam” (1996) của nghiên cứu sinh Nguyễn Đình Liêu – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. -Về luận văn Thạc sỹ với đề tài : “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam” (2009) của học viên Nguyễn Thị Tuyết Mai – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. -Về giáo trình có: “Giáo trình ưu đãi xã hội” của trường Đại học Lao động – xã hội (2007); Giáo trình Luật an sinh xã hội, của Trường Đại học Luật Hà Nội (2005); Giáo trình lý luận chung Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2004); -Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như : “Trợ cấp ưu đãi xã hội trong hệ thống pháp luật Việt Nam”, Tạp chí khoa học (kinh tế - luật), số 1/2002 của tác giả Nguyễn Đình Liêu; “Một số vấn đề pháp luật ưu đãi xã hội”, tạp chí luật học số 1/2004 của tác giả Nguyễn Hiền Phương Có thể nói các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh pháp lý (đối tượng, quyền và nghĩa vụ, chế tài ) mà chưa tập trung nghiên cứu một cách toàn diện cả trên bình diện lý luận và thực tiễn pháp luật về ưu đãi xã hội. 3
  9. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật ưu đãi xã hội, đồng thời đánh giá thực trạng triển khai pháp luật ưu đãi xã hội tại thành phố Đà Nẵng để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội, góp phần nâng cao đời sống, đảm bảo công bằng cho đối tượng người có công. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật đối với người có công và thực trạng pháp luật trong lĩnh vực này cũng như thực tiễn thực tiễn triển khai tại thành phố Đà Nẵng. Phạm vi nghiên cứu của đề tài về thực tiễn thực hiện pháp luật người có công tại thành phố Đà Nẵng. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn dựa trên phương pháp khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, qui nạp làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu, đồng thời trong quá trình nghiên cứu luận văn còn sử dụng những số liệu thống kê của Sở lao động Thương binh xã hội thành phố Đà Nẵng và các công trình khoa học khác liên quan đến lĩnh vực này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương : Chương 1: Khái quát chung về ưu đãi xã hội, pháp luật về ưu đãi xã hội. Chương 2: Pháp luật về ưu đãi xã hội và thực tiễn thực hiện tại thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi xã hội từ thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng. 4
  10. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI XÃ HỘI 1.1. Khái niệm và ý nghĩa về ưu đãi xã hội 1.1.1. Khái niệm ưu đãi xã hội Thấm nhuần đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” trong những năm qua dù bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của đất nước, công tác thương binh, liệt sĩ và người có công luôn được coi trọng, được sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự hưởng ứng tham gia nhiệt tình và trách nhiệm của các ngành các cấp và toàn thể nhân dân. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách về tôn vinh, ưu đãi, chăm sóc người có công ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 lại khẳng định: “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước” (Khoản 1, Điều 59). Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì chính sách đối với người có công cũng khác nhau. Nhưng suy cho cùng thì chính sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi nhận những công lao của họ cho đất nước, là những chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến những người đã hy sinh, đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Ở nước ta, chính sách Ưu đãi xã hội xuất hiện từ thời kỳ phong kiến. Nếu như trong thời kỳ phong kiến chính sách ưu đãi xã hội có đối tượng là: Vua, quan, tướng sĩ, quân nhân với hình thức đơn giản là ban thưởng, tăng chức thì khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945 đến nay các đối tượng hưởng ưu đãi xã hội có sự thay đổi được thể hiện qua hàng loạt văn bản qui định cụ thể đối tượng và chế độ ưu đãi. Trong mấy chục năm qua, Đảng và Nhà nước ta coi việc thực hiện Ưu đãi xã hội là một quốc sách. Chủ trương đó đã được luật hóa bằng hai Pháp 5
  11. lệnh quan trọng đó là: Pháp lệnh “ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” và Pháp lệnh “Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng” khái niệm được hiểu theo 2 nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng, người có công là người bình thường, làm việc đại nghĩa, có công lao to lớn đối với đất nước, tự coi đó là nghĩa vụ đối với cộng đồng không bao giờ kể công và không đòi hỏi cộng đồng phải báo nghĩa. Cụ thể hơn, người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân tộc. Sự cống hiến của họ vì lợi ích của đất nước, được nhân dân tôn vinh và được Nhà nước thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận theo qui định của pháp luật, đồng thời đảm bảo cho họ các chế độ ưu đãi về kinh tế, về chính trị, xã hội. Ở đây, có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản xác định nội hàm khái niệm người có công. Đó phải là những người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến lớn lao, xuất sắc vì lợi ích chung của đất nước. Những cống hiến đó có thể được thực hiện trong các cuộc kháng chiến vì độc lập tự do của Tổ quốc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Theo nghĩa hẹp, khái niệm người có công được xác định là những người có cống hiến trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các chế độ đối với người có công theo qui định hiện hành của pháp luật nước ta chủ yếu áp dụng đối với các đối tượng này. Đó là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ có những đóng góp, cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước Cách mạng tháng 8/1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, được các cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận 6
  12. theo qui định của pháp luật. Dưới góc độ này, người có công với cách mạng bao gồm những người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời hoặc một phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ưu đãi xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta được cụ thể hóa thực hiện thông qua hệ thống pháp luật có bề dày lịch sử. Với vai trò là bộ phận cấu thành đặc biệt của hệ thống pháp luật an sinh xã hội Việt Nam, pháp luật ưu đãi xã hội giữ vững vai trò trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia. Từ những khái niệm trên, cho thấy Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm và đưa ra chính sách thích hợp đối với người có công hay còn được gọi là chính sách Ưu đãi xã hội. Chính sách này là sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt, ưu tiên hơn mức bình thường về mọi mặt trong đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần đối với những người có công lao đặc biệt đối với đất nước. Trên thế giới, bất cứ một quốc gia nào cũng có một bộ phận dân cư là những người có công với Tổ quốc họ. Chính vì vậy, các nước đều thực hiện chính sách ưu đãi người có công tùy theo từng điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước mà có các chế độ, chính sách, các loại trợ cấp và các mức trợ cấp khác nhau. Đồng thời ở các nước đều có các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện các chính sách này (như Bộ Chiến tranh, Bộ xã hội, Bộ Phúc lợi xã hội, Bộ Lao động ) Chính sách ưu đãi xã hội ở nước ta cũng như ở các nước, mặc dù chế độ chính trị khác nhau, đối tượng ưu đãi khác nhau và mức độ thực hiện tùy theo điều kiện ở mỗi nước nhưng đều thể hiện: Mục đích thực hiện chính sách; Chính sách phải phản ánh bản chất của giai cấp thống trị; Nhà nước giữ 7
  13. vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội được thể hiện bằng các chế định pháp luật về trợ cấp, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm việc làm các chế độ ưu đãi được qui định chặt chẽ và được thực hiện tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước, mỗi giai đoạn. Vì vậy, “Ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với người có công và gia đình họ” [44, tr.263]. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công là việc làm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ giúp ổn định đời sống của các đối tượng đặc biệt này, mà còn giúp họ hòa nhập với cộng đồng góp phần vào sự ổn định đời sống của các đối tượng người có công. Đồng thời, thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ thể hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện sự biết ơn đối với những cống hiến của họ, hơn nữa nó còn góp phần giáo dục thế hệ đi sau nhận thức được trách nhiệm của mình, tiếp tục phát huy hơn nữa tinh thần xả thân vì nước, lòng dũng cảm, những thành quả mà thế hệ cha anh đã ra sức bảo vệ, vun đắp nên. Do đó, chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công mang tính nhân văn sâu sắc, nó góp phần tạo ra môi trường lành mạnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi người công dân trong xã hội. 1.1.2. Ý nghĩa ưu đãi xã hội Về chính trị: Trong tình hình hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế nhưng các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá cách mạng bằng các hoạt động và các thủ đoạn diễn biến hòa bình. Trước những biến đổi, những tác động của mặt trái cơ chế thị trường chính sách ưu đãi đối với người có công có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện rõ rệt quyền con người. 8
  14. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : “Giải quyết tốt các vấn đề xã hội Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sĩ, người được hưởng chính sách xã hội” [49,tr.104-106]. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công là việc làm có ý nghĩa quan trọng, không chỉ ổn định đời sống của bộ phận dân cư đặc biệt này mà còn góp phần vào sự ổn định chính trị và phát triển xã hội. Mỗi sai lầm trong việc thực hiện chính sách người có công không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của họ mà còn đem lại những hậu quả khó lường. Về xã hội và nhân văn : Ưu đãi xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, thể hiện tryền thống đạo lý quý báu của dân tộc ta, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ưu đãi xã hội thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm của Nhà nước và cộng đồng đối với người có công chứ không phải sự ban ơn, làm phúc, từ thiện, nhân đạo. Ưu đãi xã hội cũng bù đắp phần nào sự mất mát to lớn, sự hy sinh cao cả của những người có công, thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ nhau trong cộng đồng, là sự chia xẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người khó khăn do cuộc kháng chiến để lại nhằm đảm bảo một xã hội phát triển lành mạnh. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta, chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ là thể hiện sự sinh động, sự quan tâm của Đảng - Nhà nước và nhân dân đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do, hạnh phúc và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia mà còn là hành động xã hội văn hóa, là bản chất của chế độ xã hội, trở thành một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội và phương châm phát triển đất nước. Những năm qua, riêng việc luôn điều chỉnh và mở rộng chế độ ưu đãi người có công 9
  15. cho phù hợp với tình hình thực tế xã hội của đất nước đã góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống, từng bước nâng cao mức sống của các đối tượng chính sách trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, số người là đối tượng có công lại rất lớn mà chúng ta đã thực hiện đạt kết quả lớn như vậy là khá trọn nghĩa, vẹn tình. Mặc dù chưa thật bằng lòng với những thành tích ấy, nhưng có thể nói chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công đã góp phần không nhỏ cho việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ và làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù dân tộc. Việc ưu đãi xã hội của người có công là vấn đề của hôm nay, thiết thực góp vào sự phát triển. Nó trở thành động lực thúc đẩy xã hội, đặc biệt có tác dụng giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ. Về kinh tế :Việc đảm bảo đời sống vật chất cho người có công trong sinh hoạt hằng ngày nhất là đối với những người có công lao thành tích đặc biệt, có thương tật, bệnh tật nặng hoặc bù đắp một phần mất mát của họ. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp quy lần lượt ra đời đưa ra những chính sách ưu đãi đối với người có công, trong đó qui định các loại trợ cấp , mức trợ cấp phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo người có công có cuộc sống ổn định để phát triển kinh tế như: hỗ trợ việc làm, bảo đảm việc làm, cung cấp vốn đầu tư góp phần vào sự ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế đổi mới phát triển theo cơ chế thị trường. Việc tiếp tục thực hiện tốt nhất sự tôn vinh người có công bằng các chính sách phù hợp và việc làm hiệu quả, Nhà nước ta đã chủ động hoạch định chính sách và thực hiện một cách tích cực, theo tư tưởng chỉ đạo mà Đảng đã chỉ rõ là “không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” [47.tr 31]. Do đó, chính sách ưu đãi xã hội đối 10
  16. với người có công càng phải được quan tâm một cách thích đáng. Về pháp lý : Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta và hàng loạt những chính sách về ưu đãi xã hội đối với người có công đã ra đời, đánh dấu sự phát triển về mặt lập pháp của nước ta. Chính những văn bản quy phạm pháp luật này đã mang lại sự công bằng trong xã hội đối với những người đã hy sinh một phần xương máu vì sự nghiệp độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi có chế độ ưu đãi, sự ưu tiên suy tôn của xã hội trở thành quyền pháp lý của người có công, quyền này được đảm bảo thực hiện một cách chắc chắn. Ưu đãi xã hội là vấn đề tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia. Từ những hình thức sơ khai ban đầu, ưu đãi xã hội đã có sự tham gia của Nhà nước với những hình thức da dạng và phong phú. Nhận thức được vai trò của ưu đãi xã hội, các quốc gia đã thiết lập nên chính sách ưu đãi xã hội và thông qua các văn bản pháp luật đã đưa chính sách này đi vào cuộc sống. Ở nước ta, ưu đãi xã hội luôn nhận được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm điều chỉnh vấn đề này. Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa những chính sách ưu đãi đối với người có công của Đảng, Nhà nước ta, là sự đảm bảo sự ưu tiên ưu đãi cho người có công được thực hiện hay nói cách khác là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho những quyền được hưởng ưu đãi của người có công . Việc đưa những chính sách ưu đãi thành pháp luật đã khẳng định rõ việc thực hiện ưu đãi xã hội là trách nhiệm của Nhà nước, của các ngành, các cấp có liên quan và việc hưởng những trợ cấp, ưu đãi đó chính là quyền của những người có công. Do đó, khi nhận những ưu đãi này họ sẽ không bị tâm lý là kẻ được ban ơn mà tự hào về những cống hiến, hy sinh, đóng góp của mình để có được quyền hưởng những ưu đãi ấy. 11
  17. 1.2. Pháp luật ưu đãi xã hội 1.2.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, Nhà nước đặt ra pháp luật, qui định những qui tắc xử sự chung nhất cho các mối quan hệ xã hội và đảm bảo quyền thực thi bằng những biện pháp thuyết phục, cưỡng chế của mình. “Pháp luật là hệ thống các qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện , thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [28, tr 226]. Khi nói về ưu đãi xã hội, trong giáo trình luật an sinh xã hội của trường Đại học Luật Hà Nội có nêu: “Ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của Nhà nước, của cộng đồng và toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với những người có công và gia đình họ” [45, tr.267]. Pháp luật ưu đãi xã hội chính là sự thể chế hóa các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với người có công, các quyền ưu đãi của người có công và những đảm bảo về mặt pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Pháp luật ưu đãi người có công qui định những nguyên tắc, cách thức, phương pháp thực hiện các chế độ ưu đãi người có công; quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ưu đãi đối với người có công; điều chỉnh tất cả các hoạt động ưu đãi đối với người có công nhằm mục đích đảm bảo thực hiện một cách tốt nhất, hữu hiệu nhất các chế độ, ưu đãi đối với đối tượng đặc biệt này. Đồng thời, pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể hiện rõ nhất tính dân tộc, tính xã hội của pháp luật. Pháp luật ưu đãi xã hội là công cụ quản lý hữu hiệu mọi mặt đời sống, tinh thần của người có công, giúp phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội và góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam, lịch sử của những cuộc đấu 12
  18. tranh giành và giữ nước nên những người có công là một bộ phận lớn những người đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là những Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những thương binh, liệt sĩ, người có công giúp đỡ cách mạng Họ là những người có công với cách mạng, với đất nước, được Nhà nước và nhân dân ghi nhận, biết ơn sâu sắc. Do vậy, ưu đãi xã hội xét ở một góc độ nào đó chính là những ưu đãi đối với người có công với cách mạng (pháp luật ưu đãi xã hội Việt Nam hiện nay chỉ quy định về đối tượng này). Tuy nhiên, đối tượng người có công được hưởng ưu đãi xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi những người có công với cách mạng mà còn được hiểu theo nghĩa rộng, đó là những người đã cống hiến sức lực, năng lực, trí tuệ và mạng sống của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước mà không có bất kỳ sự đòi hỏi, yêu cầu bù đắp nào. Họ là những người có thành tích xuất sắc bảo vệ cho sự bình an của xã hội, làm rạng danh đất nước, cống hiến, hy sinh vì lợi ích của đất nước, của dân tộc, được sự công nhận của pháp luật mà không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc, tín ngưỡng, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp , như Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, Nhà kinh tế, Nhà khoa học có đóng góp xuất sắc Ưu đãi người có công là một chính sách nhân đạo, thể hiện sâu sắc bản chất ưu việt của xã hội ta, có liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như : Kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, lịch sử, pháp lý và truyền thống đạo lý của dân tộc. Đảng và Nhà nước ta tổ chức nghiên cứu, hoạch định ban hành hệ thống chính sách, chế độ và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện đến từng đối tượng tùy điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở từng giai đoạn mà Nhà nước điều chỉnh chế độ ưu đãi xã hội theo hướng nâng cao và cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho người có công thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với sự hy sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp một phần nào đó cho họ về đời sống vật 13
  19. chất cũng như tinh thần. Chính sách ưu đãi đối với người có công là một chính sách đặc biệt giành cho những đối tượng đặc biệt. Vì thế, Nhà nước với vai trò và chức năng của mình, sử dụng các biện pháp khác nhau để xây dựng và triển khai đưa các chính sách ưu đãi đối với người có công vào cuộc sống. Không những vậy, Đảng và Nhà nước còn vận động, kêu gọi và khuyến khích mọi người dân, các tổ chức tham gia các phong trào thiết thực nhằm mục đích thực hiện tốt nhất chính sách ưu đãi đối với người có công. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng : “pháp luật ưu đãi xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hình thành trong việc tổ chức và thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trên tất cả các lĩnh vực của đời sống” [33, tr.8]. Chính vì thế theo chúng tôi, pháp luật ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ, là một chính sách “Đền ơn đáp nghĩa” thể hiện ra giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, “Uống nước nhớ nguồn” giúp thế hệ trẻ thấy được công lao của thế hệ đi trước, sự tự hào về dân tộc và cố gắng phát huy truyền thống vẻ vang ấy. Thông qua các chế độ, chính sách người có công còn giúp cho gia đình họ yên tâm sản xuất, tin tưởng hơn vào thể chế chính trị, giáo dục trách nhiệm của mọi công dân đối với xã hội và đất nước. 1.2.2. Các nguyên tắc pháp luật ưu đãi xã hội Thứ nhất, ưu đãi người có công là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội. Người có công, họ là những người đã cống hiến, hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, để góp phần phát triển đất nước. Họ là những người anh hùng đối với đất nước nhưng cũng chính là những người phải chịu “thiệt thòi” khi sức khỏe bị suy giảm, bị thương tật, tuổi già, hoàn cảnh gia đình khó khăn Vì vậy, Tổ quốc đồng bào phải biết ơn những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào Chính vì vậy ưu đãi người có công 14
  20. là một chính sách nhân đạo, thể hiện sâu sắc bản chất ưu việt của xã hội ta, có liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, lịch sử, pháp lý và truyền thống đạo lý của dân tộc. Do đó, ưu đãi người có công là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội, thể hiện trong việc Nhà nước tổ chức nghiên cứu, hoạch định, ban hành hệ thống chính sách, chế độ và tổ chức thực hiện. Vì thế, Nhà nước với tư cách là người quản lý xã hội, là người đại diện cho toàn thể nhân dân, là người có trách nhiệm trước hết trong việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật về ưu đãi xã hội. Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng của mình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề về ưu đãi xã hội như đối tượng được hưởng ưu đãi, chế độ cụ thể đối với từng đối tượng, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực thi pháp luật ưu đãi xã hội Trên cơ sở các văn bản pháp luật được ban hành, Nhà nước giao cho các ngành, các cấp, các địa phương triển khai thực hiện các qui định của pháp luật ưu đãi xã hội, đưa pháp luật ưu đãi xã hội vào cuộc sống. Với trách nhiệm là chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, với nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải đóng vai trò là người lãnh đạo, phát động các phong trào như “đền ơn đáp nghĩa”, “đi tìm địa chỉ đỏ” để huy động tối đa sự tham gia, ủng hộ của toàn thể nhân dân vào thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội một cách hiệu quả nhất, để cho pháp luật ưu đãi xã hội được thực thi trong cuộc sống. Thông qua các ngành, các cấp, các đoàn thể, Nhà nước hàng năm phải đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện chính sách ưu đãi xã hội. Hơn nửa thế kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống chính sách về ưu đãi người có công, hệ thống chính sách đó luôn được bổ sung, sửa đổi nhằm từng bước cải thiện đời sống của những người có công với cách mạng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đời 15