Luận văn Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh Thái Bình

pdf 86 trang vuhoa 25/08/2022 8620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_thue_thu_nhap_ca_nhan_tu_thuc_tien_tin.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh Thái Bình

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐÌNH HẢO Hà Nội, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Thu
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 6 1.1. Khái niệm về thuế thu nhập cá nhân và pháp luật thuế thu nhập cá nhân 6 1.2. Nội dung pháp luật về thuế thu nhập cá nhân 23 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở THÁI BÌNH – KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ HẠN CHẾ, TỒN TẠI 38 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình 38 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình 41 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI TỈNH THÁI BÌNH 62 3.1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam 62 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Bình 64 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TNCN : Thu nhập cá nhân CP : Chính phủ BTC : Bộ tài chính
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Tên bảng Trang Bảng 1.1 Biểu thuế và thuế suất đối với cá nhân cư trú 31 Bảng 2.1 Cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành qua các năm của tỉnh Thái 41 Bình Bảng 2.2. Tình hình thu thuế thu nhập cá nhân tại Thái Bình 45
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 được xem là một mốc son trong quá trình phát triển nền kinh tế Quốc gia, đây chính là bước ngoặt phát triển nền kinh tế Việt Nam: “phát triển theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa” [16, tr.78]. Sự lựa chọn sáng suốt đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đề ra là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy rằng bản thân nền kinh tế thị trường cũng không phải là một nền kinh tế hoàn hảo, mà bản thân nó cũng có những khuyết tật vốn có của nó. Một trong những khuyết tật vốn có lớn nhất của nền kinh tế thị trường là ngăn cách giữa giàu nghèo trong xã hội. Kinh tế thị trường ở Việt Nam cho dù đang ở mức độ đầu, nhưng vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm. Như chúng ta đã biết Nhà nước dùng thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. Cho dù trong điều kiện kinh tế Việt Nam, thuế gián thu có những vai trò rất to lớn của nó. Nhưng với mục đích điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội bằng thuế trong nền kinh tế thì thuế trực thu lại thể hiện tính ưu việt hơn, đồng thời tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, hợp hiến. Vì vậy, hướng đến một chính sách thuế thu nhập là điều tất yếu nhằm góp phần điều tiết bớt một phần thu nhập từ các tầng lớp người có thu nhập cao trong xã hội, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung giúp Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội của mình. 1
  7. Thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mặt khác, thực tế cho thấy thuế thu nhập cá nhân cũng đóng gópộ m t vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là công cụ điều tiết thu nhập cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc: lợi ích, công bằng và khả năng nộp thuế. Tuy nhiên, khi triển khai Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2013 vào thực tiễn bước đầu gặp những vướng mắc nhất định như tình trạng trốn thuế, gian lận thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều khoản thu, sắc thuế, ở các địa phương trong cả nước, vừa làm thất thu cho ngân sách Nhà nước, vừa không bảo đảm công bằng xã hội. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật thuế. Đặc biệt, bộ phận pháp luật quản lý thuế còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu, vừa khó thực hiện, khó quản lý, khó kiểm tra, giám sát, chưa phù hợp. Từ thực tiễn trên, với mong muốn tìm hiểu về lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ở Việt Nam hiện nay, học viên mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng trong thời gian qua ở Việt Nam đã có ộm t số công trình khoa học, bài viết, đặc biệt là các luận văn thạc sĩ nghiên cứu, tìm hiểu về thuế thu nhập cá nhân như: - “Thuế thu nhập cá nhân: Kinh nghiệm quốc tế và việc thực thi ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ ngành kinh tế chính trị của Phạm Thị Phương Mai, 2008; 2
  8. - “Thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân tại chi cục thuế quận 2” Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành luật kinh tế của Lê Phương Thảo, 2010; - “Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do cục thuế Thành phố Đà Nẵng thực hiện”, Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh của Bùi Công Phương, 2011; - “Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ Luật, Vũ Văn Cương, 2012; - “Thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị An, năm 2012. Các công trình trên đây đã nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân từ khi Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời và có một số đề tài đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định này tại một số địa phương nhất định. Tuy nhiên, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu tương đối hẹp, chỉ là nghiên cứu, khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân thông qua khảo sát thực tiễn tại một địa phương cụ thể là tỉnh Thái Bình, vì thế có thể cho rằng đề tài vẫn đáp ứng được yêu cầu về tính mới, tính thời sự so với các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu thực tiễn pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân thời gian qua ở Việt Nam và các địa phương là yêu cầu cấp thiết, góp phần hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân. Mục đích ủ c a luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân và đánh giá thực trạng pháp luật, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại tỉnh Thái Bình để trên cơ sở đó ềđ ra những giải pháp, kiến nghị nhằm 3
  9. nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân tại tỉnh Thái Bình, ồđ ng thời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, tác giả luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý thuế thu nhập cá nhân làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam; - Nghiên cứu thực tiễn pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại cục thuế tỉnh Thái Bình, nêu ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và đề xuất các định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận về thuế TNCN và quản lý thuế TNCN; các quy định về thuế TNCN và quản lý thuế TNCN; thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế TNCN tại tỉnh Thái Bình; các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thuế TNCN ở Việt Nam nói chung cũng như ở tỉnh Thái Bình nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thuế TNCN thông qua khảo sát thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Bình. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định về thuế TNCN trong lịch sử cũng như quy định hiện tại trong Luật thuế TNCN 2007 đã được sửa đổi bổ sung năm 2012 và 2014, cụ thể như sau: - Đối tượng nộp thuế TNCN; - Đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế TNCN; - Biểu thuế và thuế suất Thuế TNCN; 4
  10. - Giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân cư trú; - Đăng ký thuế TNCN; - Kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và hoàn Thuế TNCN; - Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc thu nộp thuế TNCN; - Quy định về thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thuế TNCN. Phạm vi thực tiễn, luận văn nghiên cứu số liệu quản lý thuế TNCN trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 2010 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu có tính phổ quát trong khoa học xã hội và nhân văn như: phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp khái quát hóa; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê; phương pháp điều tra khảo sát Đồng thời, tác giả cũng sử dụng nguồn thông tin tư liệu đã được công bố của các tác giả, các cơ quan, đơn vị có liên quan ếđ n đề tài luận văn như: các kết quả khảo sát, nghiên cứu khoa học về thuế thu nhập cá nhân của các nhà nghiên cứu, cục thuế tỉnh Thái Bình, các bài báo, tạp chí liên quan đến quản lý thuế thu nhập cá nhân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học cụ thể về những quy định của pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thực hiện tại địa phương cụ thể. Đồng thời, đề tài đánh giá những kết quả đạt được của các quy định pháp luật về quản lý thuế qua hoạt động thực tiễn, những phù hợp của pháp luật, rút ra những điểm bất cập, khó khăn trong quá trình thực hiện quy định cụ thể của pháp luật, đề xuất hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân qua thực tiễn tại cục thuế tỉnh Thái Bình. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thiết kế thành 3 chương với 8 tiểu mục. 5
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1.1. Khái niệm về thuế thu nhập cá nhân và pháp luật thuế thu nhập cá nhân 1.1.1. Khái niệm về thuế thu nhập cá nhân 1.1.1.1. Lịch sử ra đời của thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Thuế TNCN ra đời lần đầu tiên ở nước Cộng hòa Hà Lan vào năm 1797. Sau đó là ở Anh vào năm 1798 thuế TNCN đã được áp dụng như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến chống lại Napoleon và được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó TNCN đã nhanh chóng được lan truyền sang các nước công nghiệm khác như: Đức (1808), Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922). Tại Châu Á như Trung Quốc (1936), Thái Lan (1939), Hàn Quốc (1948) cho đến nay đã có hơn 180 quốc gia áp dụng thuế TNCN [40]. Tuy nhiên có thể nói hình thức sơ khai nhất của thuế TNCN lại xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc. Vào những năm 10 sau công nguyên, Hoàng đế Minh Mẫn của Trung Quốc đã ban hành một sắc thuế mới – thuế thu nhập, những chuyên gia và lao động có tay nghề cao phải nộp thuế cho triều đình 10% lợi nhuận mà họ thu được. Ở Việt Nam trước đây, trên 90% là nông dân. Hai sắc thuế chủ yếu đối với người nông dân là thuế điền địa và thuế thân. Thuế điền địa có từ thời nhà Ngô nhưng đến các thời nhà Lý, Trần, Hồ mới được quy định rõ ràng, chặt chẽ. Thuế thân thực chất là thuế thu nhập đến thời nhà Trần mới ra đời. Thời nhà Trần: thuế thân mang tính chất là thuế TNCN bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, được ban hành từ năm 1378. Thuế áp dụng đối với mọi 6
  12. công dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên và còn được gọi là thuế đinh. Bước đầu thuế thân thu 3 quan tiền/suất định, tương đương 54 kg thóc. Thuế điền địa thu từ 42 đến 459kg thóc/ha theo lũy tiến [1, tr.23]. Sau đó là thời nhà Hồ, nhà Lê (năm 1470) và nhà Lê Trịnh (1670) đều áp dụng thuế thân – dạng sơ khai nhất của thuế TNCN ở nước ta, tuy nhiên với mức thuế suất khác nhau. Và đến năm 1772 thuế thân được điều chỉnh lại là 40kg thóc/suất. Riêng phần thuế ruộng động viên khoảng 7-8% sản lượng nông nghiệp. Về cơ bản thời nhà Nguyễn vẫn giữ nguyên các sắc thuế như đã có dưới các triều đại phong kiến trước, trong đó có thuế thân và còn đưa ra thêm các loại thuế khác. Nhìn chung thuế dưới triều Nguyễn là nặng nề và phức tạp và mang tính vơ vét, bóc lột. Ngoài ra còn do hệ thống quan lại nhũng nhiễu từ trên xuống dưới, thu trực tiếp hoặc qua đấu thầu, lạm bổ, sách nhiễu nhân dân, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống thuế. Tóm lại, chính sách thuế thân dưới các triều đại phong kiến và nhất là dưới thời Pháp thuộc là một trong những nỗi kinh hoàng của người nông dân Việt Nam, là một thứ thuế bất công đánh đồng loạt vào người giàu lẫn người nghèo, là thứ thuế mà mọi người đều mong muốn xóa bỏ. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng có một điểm đáng lưu ý là một dạng sơ khai của thuế TNCN đã có mặt ở Việt Nam khá lâu dưới cái tên “thuế thân/thuế đinh” và trong điều kiện xã hội có nền kinh tế chưa phát triển cũng có thể đặt ra thuế TNCN [1, tr.23]. Trong thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước. Ở miền Bắc sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 11-SL bãi bỏ chế độ thuế thân đánh vào đầu người, giải phóng nhân dân khỏi sưu cao thuế nặng đã bao năm ràng buộc người dân Việt Nam. Ở miền Nam dưới thời chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 có thuế lợi tức mang tính chất là một loại thuế đánh vào thu nhập của các thể nhân và pháp nhân. Trong đó thuế lợi tức đối với thể nhân chính là dạng tương tự của thuế TNCN hiện nay. Điều này thể hiện ở: (1) Thu nhập chịu thuế: là thu nhập 7
  13. từ lao động như lao động từ tiền lương, tiền công, thu nhập về bản quyền phát minh, nhãn hiệu hàng hóa, phụ cấp tiền thưởng (2) Lợi tức chịu thuế (hay thu nhập chịu thuế) cũng được xác định là thu nhập sau khi đã trừ đi một số khoản chi phí hợp lý nhất định. Đó là tổng thu nhập nhận được trừ bớt đi các chi phí tạo ra thu nhập, sau đó thu nhập chịu thuế còn được trừ tiếp một số khoản tùy theo gia cảnh của hộ nộp thuế như chi phí nuôi dưỡng con, cha mẹ và một số khoản có tính chất xã hội khác để xác định thu nhập chịu thuế; (3) Phương pháp đánh thuế theo hộ gia đình: đó là thu nhập thuần tính chung của cả gia đình, cũng quy định mức thuế suất, thủ tục hành thu ; (4) Thuế suất, biểu thuế suất: Thuế suất được áp dụng là thuế suất theo tỷ lệ %, biểu thuế lũy tiến theo từng phần gồm 7 bậc từ 10 – 70 đối với các thể nhân có trụ sở ở Việt Nam. Đối với các thể nhân không có trụ sở tại Việt Nam áp dụng một thuế suất duy nhất là 40% [1, tr.45]. Sau khi đất nước thống nhất, nhà nước đã bãi bỏ chế độ thuế TNCN của chính quyền Sài Gòn cũ. Tuy nhiên, phải đánh giá rằng luật thuế TNCN của chính quyền Sài Gòn cũ là luật thuế TNCN khá chặt chẽ, phù hợp với chế độ thuế TNCN của các nước có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng mới chỉ được áp dụng một phần của luật thuế TNCN hoàn chỉnh. Sau khi thống nhất đất nước chúng ta triển khai áp dụng chế độ quản lý kinh tế theo mô hình tập trung bao cấp, do đó, việc áp dụng thuế TNCN cũng như những thuế khác không được triển khai. Vào ngày 01/04/1991 Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ban hành và áp dụng như luật thuế TNCN hoàn chỉnh, đầu tiên ở Việt Nam. Pháp lệnh tồn tại khá lâu (có hiệu lực trong thời gian 18 năm từ năm 1991 đến hết năm 2008), đã có sửa đổi, bổ sung 7 lần cho hoàn chỉnh hơn vào các năm 1992, 1993, 1994, 1997, 1999, 2001, 2004. Tuy còn một số điểm bất hợp lý nhưng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong bước đầu tiên áp dụng thuế TNCN ở Việt Nam. 8
  14. Sau 18 năm tồn tại, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã bị thay thế bởi Luật thuế TNCN được Quốc hội khóa 12 thông qua vào ngày 21/11/2007 và có hiệu lực pháp luật vào ngày 01/01/2009. Đây là Luật thuế TNCN đầu tiên và cũng hoàn chỉnh nhất ở Việt Nam từ trước đến nay, đưa chính sách thuế TNCN Việt Nam hiện nay gần với xu hướng thuế TNCN trên thế giới. 1.1.1.2. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân Muốn hiểu rõ khái niệm thuế TNCN, trước hết ta phải làm rõ hai khái niệm có tính chất tiền đề là “thu nhập cá nhân” và “thuế” Thứ nhất, về khái niệm “thu nhập cá nhân” Xét về mặt ngôn ngữ học, theo cuốn Từ Điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên thì danh từ thu nhập được giải thích là: “Các khoản thu nhập được trong một khoảng thời gian nhất định tính theo tháng năm”. Cũng theo cuốn Từ Điển Tiếng Việt này thì động từ thu nhập có nghĩa là “Nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó” [38, tr.984]. Tuy nhiên hai khái niệm này chưa được chuẩn xác và không thể sử dụng làm cơ sở đánh thuế được. Vì theo định nghĩa về danh từ thu nhập thì chưa đề cập đến việc trừ các chi phí bỏ ra; theo định nghĩa về mặt động từ thu nhập thì việc “nhận được tiền bạc, của cải vật chất” tuy rõ hơn, nhưng “từ một hoạt động nào đó” thì chưa đủ, vì có những thu nhập mà người nhận được không phải do có “một hoạt động nào đó” mà là do người khác biếu, tặng hoặc do được thừa kế, được trúng thưởng. Những khoản thu nhập này tuy không thường xuyên nhưng rất quan trọng. Xét theo lý thuyết kinh tế, theo định nghĩa của hai nhà kinh tế người Anh là Haig và Simons thì: “thu nhập là giá trị tiền tăng thực tế trong khả năng từng cá nhân để tiêu dùng trong suốt một khoảng thời gian nào đó”[21, tr.55]. Đây là khái niệm tương đối hoàn chỉnh về thu nhập cá nhân, tuy nó không đề cập đến cách thức mà một cá nhân nào đó có được thu nhập nhưng 9
  15. đã thể hiện được bản chất của thu nhập, đó là phần giá trị tăng thêm thực tế của từng cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định. Theo TS. Lê Văn Ái và TS. Đỗ Đức Minh trong quyển “Thuế TNCN trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Tài chính Hà Nội, 2002”, các tác giả cho rằng “thu nhập là tổng giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà một chủ thể nào đó trong nền kinh tế xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một thời gian nhất định (thường là một năm)”[1, tr.88]. Khái niệm này đã chỉ ra cách thức để tạo ra thu nhập của một chủ thể, nhưng lại không chỉ ra được việc phải khấu trừ các khoản chi phí mà một chủ thể đã phải bỏ ra để có được thu nhập. Thu nhập của cá nhân rất đa dạng, có thể bằng hiện vật, cũng có thể bằng tiền. Thu nhập của cá nhân từ nhiều nguồn khác nhau: có thể từ kinh doanh, cũng có thể từ không kinh doanh, hoặc cũng có thể từ những nguồn khác mà pháp luật cho phép như: nhận quà biếu, nhận thừa kế Thu nhập của cá nhân cũng bao gồm tổng thu nhập và thu nhập (hay còn gọi là thu nhập ròng). Nhưng việc khấu trừ chi phí ểđ tính ra thu nhập rất phức tạp, vì chi phí của con người chi ra để có được thu nhập rất đa dạng và khó định lượng chính xác. Xét từ khía cạnh pháp lý, khi xác định thu nhập đánh thuế phải dựa vào lý thuyết kinh tế của thuật ngữ thu nhập. Tuy nhiên các khái niệm đã đưa ra ở trên chưa hoàn toàn đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để xác định căn cứ đánh thuế. Từ việc phân tích nêu trên, có thể hiểu khái niệm thu nhập cá nhân làm căn cứ đánh thuế như sau: Thu nhập cá nhân là phần giá trị tăng thêm thực tế dưới dạng tiền tệ, hiện vật hoặc dưới các hình thức lợi ích mang tính chất kinh tế khác nhau của các cá nhân nhận được từ các hoạt động kinh doanh, từ lao động, từ quyền sở hữu, quyền sử dụng về tài sản, về tiền vốn, quà tặng, quà biếu mà có hoặc các khoản thu nhập khác mà xã hội dành cho. Thứ hai, về khái niệm “thuế”. 10
  16. Thuế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Lịch sử loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng thuế là “một hình thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại”[29, tr.54]. Khi nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của pháp luật, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định “thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kì sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ” [22, tr.114]. Mặc dù cho đến nay còn nhiều tranh cãi về khái niệm của thuế, nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất, để làm rõ bản chất của thuế thì ịđ nh nghĩa của thuế phải nêu bật được các nội dung sau: - Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Nộp thuế cho Nhà nước không có nghĩa là cho Nhà nước mượn tiền hay gửi tiền vào ngân sách Nhà nước hoặc là mua một dịch vụ công. Nộp thuế là một nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân; - Thứ hai, thuế là một khoản thu bắt buộc. Để đảm bảo tập trung thuế trên phạm vi toàn xã hội, chính phủ phải cậy nhờ vào hệ thống pháp luật nên thuế thường được quy định dưới dạng văn bản luật hay pháp lệnh. Vì vậy, trốn thuế hay gian lận thuế đều là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự; 11
  17. - Thứ ba, các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định. Từ việc phân tích những quan niệm về “thu nhập cá nhân” và “thuế” nói trên, một cách khái quát, có thể đưa ra khái niệm “thuế TNCN” như sau: “Thuế TNCN là khoản tiền mà cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật” 1.1.1.3. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN là một trong những loại thuế nằm trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia nên nó có các đặc trưng cơ bản của thuế đó là tính bắt buộc và tính không hoàn trả trực tiếp và có tính pháp lý cao. Bên cạnh đó, thuế TNCN còn có đặc điểm riêng như sau: Thứ nhất, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng. Các loại thuế khác diện đánh thuế thường chỉ bao gồm pháp nhân hoặc thể nhân trong nước dựa theo đối tượng chịu thuế nhất định. Trong khi đó mọi thu nhập không phân biệt thu nhập của công dân nước sở tại hay của người nước ngoài; không phân biệt thu nhập phát sinh trong nước hay ngoài nước; không phân biệt thu nhập từ lao động hay không phải từ lao động đều có thể thuộc diện chịu thuế TNCN. Thứ hai, thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia, nó thực hiện vai trò điều tiết thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội. Trong bất cứ quốc gia nào cũng có sự phân hóa giầu nghèo. Vì vậy, Nhà nước thường thông qua thuế TNCN để điều tiết bớt một phần thu nhập của người giầu để hỗ trợ cho người nghèo thông qua những chính sách xã hội như: trợ cấp khó khăn, chăm sóc y tế Thứ ba, việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ mục đích điều tiết thu nhập góp phần thực hiện công bằng xã hội. Việc áp dụng cách tính thuế theo biểu 12
  18. thuế lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải chịu thuế suất càng cao. Thứ tư, thuế TNCN là loại thuế khó quản lý. Trước hết, thuế TNCN là loại thuế trực thu, người nộp thuế cũng là người chịu thuế nên thường gây ra sự phản ứng về thuế của người nộp thuế do không có sự chuyển dịch về thuế. Bên cạnh đó, đối tượng đánh thuế TNCN chính là thu nhập của cá nhân, mà các loại thu nhập của cá nhân thường rất khó kiểm soát. Thứ năm, thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo luật của từng nước. Thông thường các nước vẫn sử dụng nguyên tắc cư trú để đánh thuế thu nhập cá nhân. Quan niệm về nơi cư trú giữa các quốc gia gần như là tương đồng. Thứ sáu, do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế thu nhập cá nhân được xếp vào loại thuế trực thu. Phạm vi điều chỉnh của luật thuế thu nhập cá nhân là rất rộng lớn và do đặc điểm đối tượng chịu thuế trực tiếp phải nộp thuế nên sức ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế và thái độ của dân cư là hết sức to lớn. Không giống như các loại thuế gián thu, ví dụ thuế tiêu dùng, khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lí của người mua về khoản thuế mình phải nộp, thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là Nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn sẽ có ảnh hưởng mạnh về tâm lí của người nộp thuế. Chính vì vậy, mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất và thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. Thứ bảy, thuế thu nhập cá nhân thông thường là loại thuế lũy tiến. Các nước thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến, các bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì có mức thuế suất biên càng cao. Do đó những người có thu nhập 13
  19. càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính chất công bằng trong phân phối xã hội, công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc. Biểu thuế luỹ tiến được xây dựng căn cứ vào nguyên tắc đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của các cá nhân khác nhau. Những người có thu nhập cao thì có nhiều khả năng nộp thuế cao hơn những người có thu nhập thấp và ngược lại. Khoảng cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh hay yếu của biểu thuế. Khoảng cách này mà càng lớn thì mức độ lũy tiến của biểu thuế càng cao và ngược lại. Thứ tám, thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế. Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều tiết rất rộng nên việc quản lý đối với loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng của người nộp thuế. Đồng thời do tính chất phân tán của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lý thu rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao. Ngoài ra, nó điều tiết lên thu nhập chứ không phải là lên tiêu dùng nên nó không có tác động trực tiếp đối với một ngành kinh tế cụ thể nào cả. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách sâu sắc thì thuế thu nhập cá nhân vẫn có những tác động nhất định đối với cơ cấu nền kinh tế. Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như là một công cụ thuế đắc lực trong chính sách tài khóa quốc gia, nó ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế, do đó nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với cơ cấu kinh tế. 1.1.1.4. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN đóng ộm t vai trò quan trọng trong hệ thống thuế và trong đời sống kinh tế xã hội. Điều này thể hiện ở những điểm sau đây: Thứ nhất, nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân càng cao thì thuế thu nhập cá nhân ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu ngân sách Nhà nước. Chúng ta biết rằng thuế thu nhập cá nhân thu được 14
  20. dựa vào mức thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư càng cao thì nó cũng đồng nghĩa với mức thu từ thuế TNCN sẽ tăng. Điều đó chỉ có thể có được khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP lớn. Thông thường, ở những nước càng phát triển thì tỉ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó thuế TNCN chiếm tỉ trọng khá cao. Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ta biết rằng mỗi một đơn vị thu nhập bao gồm hai phần: đơn vị tiêu dùng và phần còn lại là đơn vị tiết kiệm. Khi bạn có thu nhập là một triệu đồng, bạn phải nộp thuế giả sử là 100.000, bạn còn lại 900.000 trong đó bạn tiêu dùng hết 800.000 còn 100.000 bạn dành tiết kiệm. Nếu như không có thuế thu nhập cá nhân, bạn có quyền tiêu dùng 850.000 và tiết kiệm 150.000; Nếu như khoản thuế nộp không sử dụng trong chi tiêu chính phủ thì có nghĩa là tiết kiệm quốc gia trong trường hợp trước là 200.000 (100.000 + 100.000); còn ở trường hợp sau thì tiết kiệm quốc gia chỉ là 150.000 bằng chính với tiết kiệm khu vực tư nhân. Khi tiết kiệm tăng thì sẽ có nhiều nguồn vốn hơn dành cho đầu tư vào trang thiết bị máy móc [1, tr.177]. Việc sử dụng thuế TNCN là một công cụ điều tiết giữa tiêu dùng và tiết kiệm, tránh những tiêu dùng xa hoa mà thay vào đó là đầu tư vào tư bản và con người, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế lâu dài. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là càng tăng thuế TNCN thì sẽ càng tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia. Chúng ta cũng đã đề cập ở trên là thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng mạnh đến tâm lí và phản ứng của dân cư. Nếu chúng ta cố gắng duy trì mức thuế suất thuế TNCN cao thì sẽ không khuyến khích người lao động tham gia sản xuất kinh doanh. Sở dĩ như vậy là vì người lao động cảm thấy khi họ lao động vất vả để kiếm tiền thì ngay sau khi nhận tiền họ đã phải trả một phần lớn thu nhập đó cho Nhà nước. Do đó ọh sẽ không còn động lực cao trong lao động và kiếm tiền. 15