Luận văn Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_thue_doi_voi_ho_kinh_doanh_tu_thuc_tie.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NHỮ THỊ HẠNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NHỮ THỊ HẠNH PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM KIM ANH HÀ NỘI - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Số liệu và các nội dung được trình bày trong Luận văn “pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận 7, Thành Phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Kim Anh. Mọi số liệu dẫn chứng cụ thể trong luận văn là trung thực và được chú thích nguồn đầy đủ. TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 02 năm 2016 Người cam đoan Nhữ Thị Hạnh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH 6 1.1 Khái niệm đặc điểm, vai trò, bản chất pháp lý của hộ kinh doanh: 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh 17 1.3. Các loại thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh theo quy định pháp luật 21 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 26 2.1. Tình hình pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh hiện nay 26 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về Thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn tại quận 7 32 2.3. Giải pháp và khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn tại địa bàn quận 7. 62 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT FTA: Free Trade Agreement (Hiệp định thương mại tự do) EU: European Union (Liên minh Châu Âu) TPP: Trans-Pacific Partnership Agreement (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương) ATIGA: ASEAN Trade in Goods Agreement (Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN) ASEAN: Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) USA: United States Dollars (Đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ) TMS: Tax Managment System (Hệ thống ứng dụng Quản lý thuế tập trung)
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Bậc môn bài và mức Thuế Môn bài cả năm Bảng 2.2. Tỷ lệ thuế giá trị gia tăng, tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân của hộ kinh doanh tính trên doanh thu được áp dụng đối với từng lĩnh vực ngành nghề Bảng 2.3. Tình hình cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh từ 2013-2015 Bảng 2.4. Tình hình hộ kinh doanh từ 2013-2015 Bảng 2.5. Tình hình nộp thuế của cá nhân kinh doanh 2011-2015 Bảng 2.6. Tình hình nợ đọng thuế của hộ kinh doanh
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế xuất hiện cùng với sự hiện diện của Nhà nước và sự phát triển tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, Nhà nước sử dụng Thuế như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình, cho nên lịch sử càng phát triển thì các hệ thống, các hình thức thuế và pháp luật về thuế ngày càng đa dạng, hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Các khoản thuế được đóng góp từ người dân, đã tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước, vì vậy cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng, Nó không chỉ đảm bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước mà còn để chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung, cải thiện hệ thống an sinh xã hội và kinh tế, như vậy, gắn liền với Nhà nước, Thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt động kinh tế xã hội và mọi tầng lớp dân cư. Vì vậy, Thuế luôn đặt ra là làm thế nào để bảo đảm sự công bằng trong nghĩa vụ đóng góp của người dân, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Theo số liệu từ Tổng Cục Thống Kê, tính đến đầu năm 2015, cả nước có 4.658 triệu hộ kinh doanh [55, tr.24], trong đó có 3.018 triệu hộ kinh doanh đã được ngành thuế cấp mã số thuế và chỉ có 1.612 triệu hộ kinh doanh “đang hoạt động”[109] với tổng số thuế đã nộp vào ngân sách là 12.362.000 triệu đồng, chiếm 2% tổng nguồn thu nội địa trên cả nước. Riêng quận 7, có 13.470 hộ kinh doanh [36], trong đó có 12.857 hộ kinh doanh (bao gồm cấp mới, tái hoạt động là 2.440 hộ kinh doanh) đang kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán với số thuế nộp vào ngân sách Nhà nước năm 2015 là 155.860 triệu đồng [40, tr.1], tuy nhiên, tính đến 31/12/2016 quận 7, đã có 15.084 hộ kinh doanh đang hoạt động [90, tr.4]. Trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là hộ kinh doanh (gồm cá nhân kinh doanh, nhóm cá nhân kinh doanh và hộ gia đình) đóng góp cho ngân sách (khoảng 2%) chiếm tỷ trọng không cao trong tổng thu ngân sách Nhà nước nhưng thể hiện vai trò quan trọng cho nền kinh tế về số lượng tham gia, hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực 1
- ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Song, đây là nguồn thu phức tạp, số lượng hộ kinh doanh rất lớn (bao gồm hộ chưa đến mức phải nộp Thuế Giá trị gia tăng chỉ phải thu Thuế Môn bài, hộ có doanh thu từ dưới một trăm triệu đồng/năm, hộ ngừng nghỉ không nộp thuế, không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh theo mùa vụ, không thường xuyên, không có địa điểm kinh doanh cố định), và không ngừng tăng lên, tình trạng thất thu, nợ đọng thuế phổ biến. Đặc điểm chung của lĩnh vực này là trình độ kinh doanh, tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật về thuế nói riêng chưa cao, do hầu hết các hộ kinh doanh ở quy mô nhỏ, phát triển kinh tế gia đình nhằm tăng thu nhập, kinh doanh theo kinh nghiệm, không thực hiện chế độ số sách kế toán mà chủ yếu nộp thuế theo phương pháp khoán, tốn nhiều chi phí, nhiều nhân lực trong công tác quản lý của Nhà nước như số cán bộ thuế trực tiếp quản lý thuế hộ kinh doanh chiếm khoảng 21% trên tổng số cán bộ công chức toàn ngành thuế[97]. Riêng Chi cục Thuế quận 7 (tính đến 31/12/2016), cán bộ thuế trực tiếp quản lý thuế hộ kinh doanh chiếm 13,57% trên tổng cán bộ công chức toàn Chi cục Thuế và cùng sự tham gia của đại diện các ban, ngành chính quyền địa phương (Hội đồng tư vấn thuế phường) và hộ kinh doanh trong việc xác định doanh thu khoán và mức thuế khoán đảm bảo sát với thực tế phát sinh. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội tại địa phương, việc cải cách hệ thống chính sách, pháp luật về thuế dành cho hộ kinh doanh, đơn giản về thủ tục khai nộp thuế, hộ kinh doanh tự tính, tự khai, tự nộp được thuế và minh bạch trong việc xác định doanh thu tính thuế khoán, giảm thiểu tối đa tình trạng “thông đồng, thỏa thuận” về mức thuế phải nộp, triển khai thí điểm khai, nộp thuế điện tử để giảm sự tiếp xúc trực tiếp cán bộ, công chức thuế với hộ kinh doanh, tạo lập một hành lang pháp lý mới hoàn thiện hơn, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giúp cho ngành thuế nói chung, Chi cục Thuế nói riêng, đạt mục tiêu khi động viên nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế cho phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, tiến tới mục tiêu xây dựng môi trường pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh minh bạch, hiệu quả. 2
- Tuy nhiên, thời gian qua vẫn còn thiếu sót, hạn chế của chính sách pháp luật về thuế như công tác đăng ký thuế, xác định doanh thu, Thuế Môn bài, sử dụng hóa đơn, ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh, cũng như một số công chức thuế với trình độ chuyên môn và ý thức trong lúc thực hiện công vụ chưa cao Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, nhiều giáo trình, công trình khoa học đã nghiên cứu pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh nhưng phần lớn chỉ tiếp cận vấn đề trên ở góc độ, mức độ pháp lý kinh tế khác nhau, qua đó, có thể tổng quan một số tài liệu đã được thực hiện công khai thời gian qua như: + Luận văn Thạc sĩ, “Pháp luật về Đối tượng chịu thuế Bảo vệ môi trường” của Nguyễn Ngọc Thủy (Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh -2014) nêu được những vấn đề pháp lý cơ bản về đối tượng chịu thuế và những trường hợp không thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường. + Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn quận Tân Phú- TP. Hồ Chí Minh” của Trịnh Thị Mỹ Dung (Học Viện Khoa Học Xã Hội -2013), làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh và thực trạng quy định và thực trạng thực hiện pháp luât quản lý thuế đối với hộ kinh doanh nhưng chỉ ở phạm vi địa bàn quận. + Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về đăng ký thuế đối với hộ kinh doanh cá thể từ thực tiễn quận Thủ Đức- Thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Tấn Thanh (Học viện Khoa Học Xã Hội -2015), làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh đối vớ hộ kinh doanh; + Bài viết được công bố trên Tạp chí chuyên ngành pháp lý như bài viết: -“Phát triển hộ kinh doanh cá thể: Phân tích từ quản trị vốn và tài chính” của Phạm Văn Hồng - Cao đẳng Công nghệ Viettronics trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2016, góc độ bài viết này chỉ đề cập đến sự phát triển và đóng góp của hộ 3
- kinh doanh trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và tình trạng thiếu vốn, khó tiếp cận nguồn vốn vay. -“Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập”của Ngô Huy Cương trên Tạp chí Khoa học đại học quốc gia Hà nội, Luật học số 25 (2009), bài viết này cũng đề cập đến khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh, điều kiện, thủ tục đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh mà thôi. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình khoa học nghiên cứu đã được công bố, tác giả làm sáng tỏ hơn vấn đề pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh, qua đó tìm ra những bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời có một số ý kiến đề xuất để hòan thiện pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh và thúc đẩy phát triển hộ kinh doanh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn này hướng tới mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh qua thực tiễn tại quận 7 và từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: Một, Nghiên cứu vấn đề lý luận của pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh; Hai, Phân tích thực trạng pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh qua thực tiễn tại quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Ba, Đề xuất nhưng giải pháp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế đối hộ kinh doanh hiện tại trên địa bàn quận 7; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật về hộ kinh doanh và về thuế đối với hộ kinh doanh. Phạm vi nghiên cứu là tập trung nghiên cứu pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh qua thực tiễn tại quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
- Để nghiên cứu đề tài một cách có kết quả, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp song song với các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp. - Phương pháp Phân tích được sử dụng nhằm: làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, đặc điểm hộ kinh doanh và pháp luật về thuế. - Phương pháp Thống kê: Làm rõ thực trạng và thực tiễn của pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanhthời gian qua, từ đó có ý kiến nhận xét, đánh giá và kết luận khoa học về thực trạng pháp luật về thuế thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7. - Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng nhằm để đối chiếu các quy định của pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh qua các thời kỳ. - Phương pháp tổng hợp được sử dụng để: Khái quát hóa nhằm đưa ra những vấn đề đề xuất, kiến nghị của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trong điều kiện hiện nay tại quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ luận văn Thạc sĩ luật học. Qua luận văn này, tác giả đề cập đến lý luận và thực tiễn pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7, từ đó tìm ra bất cập và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trong giai đoạn hiện nay tại quận 7, với sự đóng góp của luận văn này, có thể xem đây là tài liệu, dùng để tham khảo, nghiên cứu và học tập về chuyên ngành luật Kinh tế. 7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH 1.1. Khái niệm đặc điểm, vai trò, bản chất pháp lý của hộ kinh doanh 1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh Ở Việt Nam, số lượng nhà đầu tư kinh doanh dưới hình thức là cá nhân và nhóm kinh doanh ở quy mô nhỏ, không thành lập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối lớn và trong từng giai đoạn, chúng được gọi bằng tên khác nhau như trước Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì hộ kinh doanh được gọi là “hộ kinh doanh cá thể” và tên gọi “hộ kinh doanh cá thể” được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 của Chính phủ [29] về đăng ký kinh doanh (thay thế Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000). Sau đó, hộ kinh doanh được Khoản 1 Điều 36 Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ [28] ghi nhận và tên gọi này tiếp tục được Nghị định 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ [31] ban hành ngày 25/4/2010 (thay thế Nghị định 88/2006/NĐ-CP, có hiệu lực từ 01/06/2010) được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 49: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Điều 2 của Bản Quy định ban hành kèm theo Nghị định 27-HĐBT ngày 09/03/1988 đã chỉ rõ: Các đơn vị kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh là các đơn vị kinh tế tự quản như có tư liệu sản xuất và các vốn khác, tự quyết định mọi vấn đề sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập, lỗ lãi. Mọi công dân Việt Nam ngoại trừ những người là cán bộ công viên chức nhà nước tại chức hoặc xã viên hợp tác xã nếu có vốn, có tư liệu sản xuất, có kỹ thuật chuyên môn, sức lao động, đều có quyền đứng ra tổ chức sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh. Các đơn vị kinh tế này được tổ chức họat động theo nhiều hình thức như: Hộ cá thể; hộ tiểu công nghiệp; xí nghiệp tư doanh và dần dần hình thành hộ kinh 6
- doanh, doanh nghiệp tư nhân và các công ty ngày nay ở Việt Nam. Hộ cá thể theo Bản quy định này có điều kiện như sau: Tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc quyền sở hữu của người đứng tên đăng ký kinh doanh; Chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp, những người lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, các con nếu là người thân thì phải có tên trong sổ hộ khẩu của người chủ kinh doanh; Thu nhập sau khi đóng thuế thuộc quyền sở hữu của chủ hộ. Chúng ta có thể hiểu, hộ gia đình chính là cá nhân kinh doanh hay thương nhân thể nhân tiến hành hoạt động kinh doanh cho chính mình và gây khó khăn không ít trong việc giải quyết tranh chấp. Như vậy, khái niệm “hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp” theo Nghị định 27-HĐBT ngày 09/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng đã có nhiều thay đổi qua các Nghị định nêu trên, bản chất cá nhân kinh doanh và dấu ấn gia đình ngày càng mờ đi, mặt dù thuật ngữ “hộ gia đình” được sử dụng trong các định nghĩa vừa dẫn trên. Từ định nghĩa trên về “hộ kinh doanh”, cho thấy hộ kinh doanh được chia thành ba loại căn cứ vào chủ tạo lập nó: Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ; hộ kinh doanh do hộ gia đình làm chủ; hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ. Đây là đặc thù rất riêng của pháp luật Việt Nam, tuy nhiên tính phù hợp hay không phù hợp cũng cần phải xem xét. “Hộ gia đình” được kinh doanh như vừa nói trên, có lẽ xuất phát từ Bộ Luật Dân sự 1995[58], được cụ thể hóa tại Điều 106 Mục 1 Chương V Bộ Luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 27/06/2005 [59] quy định: Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này, theo nghĩa rộng hộ gia đình là chủ thể của quan hệ dân sự, vì thế, có nhiều vấn đề để suy nghĩ. Một, “Hộ gia đình” không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân mà là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Do đó, hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh không hoàn toàn là thương nhân thể nhân, nhưng theo Nghị định 27- 7
- HĐBT ngày 09/03/1988, cho rằng hộ cá thể và hộ tiểu công nghiệp (hình thức đầu tiên của hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh), là thương nhân thể nhân. Hai, Dấu hiệu “hộ gia đình” được thể hiện qua quan hệ quen biết, thân thiết, cùng trú ngụ một nơi hoặc cùng kiếm sống dựa vào cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên, số lượng các thành viên thuộc hộ gia đình có thể biến động dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp có liên quan nhưng trong thực tiễn tư pháp, người ta thường xác định tập hợp thành viên hộ gia đình thông qua sổ hộ khẩu, đây không phải là việc làm hợp lý, bởi sự tồn tại của sổ hộ khẩu không có cơ sở để đứng vững trong giai đoạn hiện nay và hơn nữa sổ hộ khẩu không nói lên vấn đề rằng các thành viên có cùng trú ngụ hoặc cùng kiếm sống hay không. Do vậy, phải đưa vào nội dung đăng ký kinh doanh, vì vấn đề thành viên có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ lợi ích các chủ nợ của hộ kinh doanh. Nghị định 88/2006/NĐ-CP cũng như Nghị định 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ cho phép “một nhóm người” [31, khoản1, Điều 49], được kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, việc cho phép này có tác dụng thúc đẩy kinh doanh nhưng gây khó khăn về mặt pháp lý, nhất là về chế độ trách nhiệm của toàn thể, từng thành viên trong nhóm. Bản chất thuật ngữ “nhóm người” rất khó xác định về nhiều khía cạnh như về số lượng thành viên trong nhóm có hạn định không?. Các thành viên trong nhóm có đặc điểm gì về nhân thân hay không ? Pháp luật Việt Nam chỉ phân biệt hộ kinh doanh với doanh nghiệp thông qua việc sử dung lao động, hộ kinh doanh chỉ được sử dụng không quá mười lao động, nếu từ mười lao động thì hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Như vậy, có thể hiểu pháp luật Việt Nam quan niệm hộ kinh doanh và các hình thức công ty không khác gì nhau về hình thức kết cấu mà chỉ khác về quy mô kinh doanh. Pháp luật Hoa Kỳ quan niệm: Doanh nghiệp cá thể (sole propriettorship) là một doanh thương (a business) được vận hành bởi một người như một tài sản cá nhân của người đó và doanh nghiệp (enterprise) này là sự mở rộng đơn thuần của chủ sở hữu cá nhân[88, tr.16]; Pháp luật Pháp quan niệm: Thương nhân thể nhân, người ta dẫn Điều 1, Bộ Luật Thương Mại Pháp 1807, theo đó thương nhân có thể 8
- là thể nhân hoặc pháp nhân. Thương nhân là một cá nhân chuyên thực hiện các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình; Pháp luật Anh quan niệm: Thương nhân đơn lẻ (sole trader) là một người tiến hành kinh doanh với tài khỏan của mình, lựa chọn nơi thích hợp để hoạt động, có hoặc không có sự giúp đỡ của người làm công trong kinh doanh, vốn góp ban đầu là nguồn vốn cá nhân do tiết kiệm hoặc vay mượn cá nhân. Như vậy, mặc dù với tên gọi khác nhau nhưng bản chất pháp lý của chúng không có gì thay đổi. Hiểu theo nghĩa chung nhất, “hộ kinh doanh” là do cá nhân hoặc những người có mối quan hệ nhất định cùng bỏ vốn ra để thực hiện hoạt động kinh doanh kiếm lời, cùng hưởng lãi, chịu lỗ và cùng chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh, lấy kinh doanh làm nghề chính. Có thể phân biệt hộ kinh doanh với các chủ thể kinh doanh khác dựa vào các yếu tố: Hộ kinh doanh hoạt động mang tính chất nhỏ lẻ, có quy mô nhỏ, vốn thấp, số lượng lao động ít; Xuất phát từ nguồn gốc người Á Đông, truyền thống người Việt Nam, hộ kinh doanh thực hiện kinh doanh theo kiểu gia đình, bao gồm nhiều quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng cùng tham gia kinh doanh. Họ không có hoặc có rất ít người làm công, người giúp việc thường là người trong gia đình; xuất phát từ quy mô kinh doanh nhỏ, thành lập dựa trên mối quan hệ gia đình, dòng họ, bạn bè nên hộ kinh doanh không có bộ máy điều hành chính thức, chủ sở hữu trực tiếp quản lý và điều hành công việc kinh doanh. Chính vì vậy, ngày 14/9/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/2015/NĐ- CP[33] (thay thế Nghị định 43/2010/NĐ-CP), có hiệu lực từ 01/11/2015 và cho đến hiện nay “Hộ kinh doanh” được điều chỉnh bởi Nghị định này và khái niệm “hộ kinh doanh”được quy định tại Khoản 1 Điều 66: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Xét về nội hàm khái niệm, có thể thấy hộ kinh doanh là một loại chủ thể kinh doanh, được thành lập, đăng ký theo quy định của pháp luật nhằm tiến hành hoạt 9
- động kinh doanh và trường hợp không được xem là hộ kinh doanh cũng được Nghị định 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định nhằm xác định ranh giới trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi loại chủ thể. Theo đó, hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối hoặc họat động mang hình thức kinh doanh nhưng thực chất vốn đầu tư nhỏ lẻ, chủ yếu là lấy công kiếm lời, những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động hay làm dịch vụ có thu nhập thấp thì không phải đăng ký kinh doanh và không được coi là hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề có điều kiện phải đăng ký kinh doanh để Nhà nước quản lý. 1.1.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh Từ khái niệm hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP, có thể xác định những đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh như sau: Thứ nhất là, “Hộ kinh doanh có quy mô nhỏ”, trên tinh thần của Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (Luật Doanh nghiệp 2015) thì hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của Chính phủ, vì vậy, những cơ sở kinh doanh nhỏ này sẽ không chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2015. Đặc biệt, khi hộ kinh doanh đạt đến quy mô “có sử dụng thường xuyên từ mười lao động trở lên” theo quy định tại khoản 2 Điều 212 Luật Doanh nghiệp 2015 thì hộ kinh doanh mới phải chuyển sang đăng ký thành lập doanh nghiệp và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2015. Thứ hai là, Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người, gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ sở hữu Theo đó, có ba nhóm đối tượng được pháp luật Việt Nam cho phép thành lập hộ kinh doanh: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nghĩa là cá nhân đó phải là người Việt Nam, phải đủ 18 tuổi và năng lực pháp Luật Dân sự của cá nhân đó phải phù hợp theo quy định tại Điều 18, 19 Bộ Luật Dân sự 2005 [59] và Điều 19, 20 Bộ Luật Dân sự 2015 [61], có toàn quyền quyết 10
- định về mọi hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh, có thể gọi là chủ hộ kinh doanh và đương nhiên, chủ hộ kinh doanh này là đối tượng duy nhất có quyền hưởng mọi lợi nhuận do công việc kinh doanh của hộ tạo ra, là người duy nhất chịu mọi nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, chịu mọi rủi ro đối với hoạt động của hộ (như chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân). Nhưng đối với hộ kinh doanh do “một nhóm người” hoặc một hộ gia đình làm chủ thì mọi hoạt động kinh doanh của hộ do các thành viên trong nhóm hoặc hộ gia đình quyết định và nhóm người hoặc hộ gia đình, sẽ cử một người làm đại diện cho nhóm hoặc hộ để tham gia giao dịch với bên ngoài, người đại diện này sẽ thay mặt hộ thực hiện quyền, nghĩa vụ của hộ. Tuy nhiên, người đại diện cho hộ gia đình, sẽ không chịu trách nhiệm thay cho những thành viên trong gia đình, lợi nhuận cũng như rủi ro sẽ chia cho các thành viên trong hộ gia đình theo thỏa thuận của tất cả các thành viên. Hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh mang tính nghề nghiệp thường xuyên, nghĩa là hộ kinh doanh hoạt động một cách chuyên nghiệp và thu nhập chính của họ phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Vì vậy, tại Khoản 2 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP thể hiện “hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương”. Tuy nhiên, thu nhập thấp là mức bao nhiêu thì chưa được quy định. Thứ ba là, Hộ kinh doanh “chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản” của mình về mọi hoạt động do mình thực hiện Về mặt pháp lý, tài sản kinh doanh và tài sản dân sự của chủ hộ kinh doanh không có sự tách bạch, không có sự phân biệt rõ ràng quyền và nghĩa vụ của chủ hộ kinh doanh và hộ kinh doanh, điều này, tiềm ẩn, nguy cơ đe dọa lợi ích xã hội và các đối tác của hộ kinh doanh nếu không có cơ chế thích hợp, xác định rõ trách nhiệm, cũng như gánh rủi ro. Do đó, pháp luật đã xác lập chế độ trách nhiệm vô hạn như một đảm bảo cơ bản cho xã hội. Chế độ trách nhiệm vô hạn chính là không có 11
- giới hạn về trách nhiệm và không có sự tách bạch giữa kinh doanh và chủ sở hữu hộ kinh doanh, cho nên, cá nhân, nhóm người hoặc các thành viên trong hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm đến cùng về mọi khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh (trách nhiệm vô hạn). Hay nói cách khác, khi phát sinh khoản nợ, cá nhân hoặc các thành viên phải chịu trách nhiệm trả hết nợ, không phụ thuộc vào số tài sản kinh doanh hay dân sự mà họ đang có; không phụ thuộc vào việc họ đang thực hiện hay đã chấm dứt thực hiện hoạt động kinh doanh, nếu nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ thì tất cả thành viên trong hộ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Thứ tư là, Hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp, không có con dấu Nghị định 78/2015/NĐ-CP không quy định tư cách pháp lý của hộ kinh doanh, với đặc điểm về sở hữu về tài sản nêu trên, hộ kinh doanh không thỏa mãn theo điều kiện của một pháp nhân được quy định tại Bộ Luật Dân sự 2005 và Bộ Luật Dân sự 2015. Tham chiếu Điều 84 Bộ Luật Dân sự 2005 [59] và Điều 74 Bộ Luật Dân sự 2015 [61], thì hộ kinh doanh không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của pháp nhân, đó là “có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó”và“nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Mặc dù là chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp nhưng hộ kinh doanh không có tư cách của doanh nghiệp, không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, không được thực hiện các quyền mà doanh nghiệp đang có như hoạt động xuất nhập khẩu hay áp dụng Luật Phá sản khi kinh doanh thua lỗ Thứ năm là, Hộ kinh doanh chỉ được sử dụng không quá mười lao động và chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm Quy mô hoạt động kinh doanh được Pháp Luật Việt Nam sử dụng làm tiêu chí phân biệt hộ kinh doanh và doanh nghiệp, đây là điểm khác biệt giữa hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp, Nghị định 78/2015/NĐ-CP xác định rõ hộ kinh doanh chỉ được “sử dụng dưới mười lao động”, có nghĩa là số lao động tối đa mà hộ kinh doanh được phép sử dụng là chín lao động, nhưng không rõ là số lao động này phải đăng ký với cơ quan chức năng nào, phải chăng “tự hiểu” là số lao động đang 12
- sử dụng tại hộ kinh doanh tất yếu phải có hợp đồng lao động phù hợp theo Luật Lao động. Đồng thời, hộ kinh doanh chỉ được “đăng ký kinh doanh tại một địa điểm”, tức là quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh tăng lên đến mức phải sử dụng từ mười lao động trở lên hoặc mở thêm địa điểm kinh doanh thì chủ sở hữu phải đăng ký kinh doanh dưới lọai hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc hộ kinh doanh chỉ được phép đăng ký một địa điểm kinh doanh nhưng pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể là “một địa điểm” trên phạm vi một phường, xã hay quận, huyện mà phải “tự hiểu” là trên phạm vi toàn quốc. Như vậy, những điểm khác biệt trên và các quy định của pháp luật Việt Nam, đã điều chỉnh việc đăng ký kinh doanh, hoạt động của hộ kinh doanh nhằm đảm bảo sự phù hợp của loại hình kinh doanh nhỏ, linh hoạt. 1.1.3. Vai trò của hộ kinh doanh Một là, Góp phần vào kết quả hoạt động kinh tế Sự hình thành và phát triển của hộ kinh doanh đã góp phần không nhỏ cho giá trị sản xuất công nghiệp, thương mại - dịch vụ của từng địa phương nói riêng, của cả nước nói chung. Nếu như kinh tế Nhà nước đóng góp 32,2% vào GDP, thì kinh tế ngoài Nhà nước góp tới 48,3% (Kinh tế tập thể 5%, Kinh tế tư nhân 10,9%, Kinh tế cá thể 32,3%) [55, tr.25]; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 19,5%. Như vậy, trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, khu vực kinh tế cá thể có tỷ trọng đóng góp cao nhất trong GDP (xấp xỉ 33%)[55, tr.24], cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước và cao hơn hẳn khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, hộ kinh doanh đang đứng đầu về doanh thu bán lẻ trên thị trường với tổng doanh thu bán lẻ chiếm 76,2% tổng mức và tăng 9,7%[96], đứng thứ 28 trong danh sách thị trường bán lẻ hấp dẫn của thế giới và nằm trong top 5 thị trường bán lẻ phát triển nhất Châu Á[105]. Những số liệu thống kê trên đã cho thấy vai trò quan trọng của hộ kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh tế cho nhà nước góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Hai là, Tạo việc làm cho người lao động Cùng với tốc độ tăng dân số hiện nay (Việt Nam lên đến 93.421.835 người[102], Thành phố Hồ Chí Minh đến cuối năm 2015 là 8.224.000 người), nhu 13