Luận văn Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_thoa_thuan_trong_tai_o_viet_nam.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THU HẰNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THU HẰNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Am Hiểu HÀ NỘI - 2014 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đặng Thu Hằng 3
- LỜI CẢM ƠN Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô. Các thầy, các cô bằng tri thức và tâm huyết của mình đã truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi đến quý thầy cô ở Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội lời cảm ơn chân thành nhất. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu, người đã tận tâm hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, cộng với vốn kiến thức còn hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn. 4
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1 Lời cảm ơn 2 Mục lục 3 MỞ ĐẦU 5 Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật 10 về thỏa thuận trọng tài 1.1 Khái quát về Trọng tài Thương mại 10 1.1.1 Khái niệm Trọng tài Thương mại 10 1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài Thương mại 11 1.1.3 Khái lược sự hình thành, phát triển của trọng tài trong lịch 13 sử pháp luật Việt Nam 1.2 Pháp luật về thỏa thuận trọng tài 14 1.2.1 Khái niệm "Thỏa thuận trọng tài" 14 1.2.2 Phân loại thỏa thuận trọng tài 19 1.2.3 Hình thức thỏa thuận trọng tài 21 1.2.4 Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài 26 1.2.5 Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài 40 Chƣơng 2: Thực trạng quy định pháp luật về thỏa thuận 43 trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay 2.1 Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận 43 trọng tài 2.1.1 Các quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu 43 2.1.2 Các quy định về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài 46 2.1.3 Các quy định khác về thỏa thuận trọng tài 47 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam 49 2.2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài thông qua 49 một số vụ việc cụ thể 2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam 57 5
- Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật 68 về thỏa thuận trọng tài và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam 3.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận 68 trọng tài ở Việt Nam 3.2 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về 72 thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 6
- MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là tại những nước có nền kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng tài được xác lập từ lâu, dù theo quy định của pháp luật mỗi thời kỳ, cách thức tổ chức và hoạt động của tổ chức trọng tài là khác nhau. Năm 2010, Quốc Hội Việt Nam đã ban hành Luật Trọng tài Thương mại số 54/2010/QH12 quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến Trọng tài Thương mại như: thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài, định nghĩa Trọng tài Thương mại, thỏa thuận trọng tài, trọng tài viên, trung tâm trọng tài, trình tự tố tụng trọng tài và các vấn đề khác. Luật Trọng tài Thương mại 2010 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011 và tính đến nay đã đi vào đời sống được hơn ba năm, tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều quy định đang gây tranh luận trong giới khoa học pháp lý. Một trong những vấn đề vẫn còn tiếp tục gây tranh luận hiện nay chính là những quy định hiện hành của pháp luật về thỏa thuận trọng tài và các vấn đề có liên quan. Trong quy định về thỏa thuận trọng tài còn nhiều điểm chưa được giải thích rõ ràng trong Luật Trọng tài Thương mại 2010, gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng pháp luật đối với những tổ chức, cơ quan trực tiếp áp dụng đó là các tổ chức Trọng tài Thương mại, Tòa án và đặc biệt là các doanh nghiệp có tranh chấp yêu cầu trọng tài giải quyết. Trong bối cảnh như vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ với mong muốn nghiên cứu, tìm ra những điểm còn thiếu sót, những điểm chưa phù hợp của Luật Trọng tài Thương mại 2010, để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện 7
- quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài vào thực tế. Tình hình nghiên cứu "Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam" là đề tài đã được nhiều tác giả nghiên cứu và cho ra đời những tác phẩm giá trị: Tiến sĩ Đỗ Văn Đại và tiến sĩ Trần Hoàng Hải với cuốn sách "Pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại"; Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam với "Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn"; Bộ Tư pháp cũng có đăng một số chuyên đề "Pháp luật về Trọng tài Thương mại" trên tạp chí Dân chủ và pháp luật năm 2010; Bài viết "Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam" - TS. Đỗ Văn Đại – Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra có rất nhiều tác giả đã chọn đề tài này làm đề tài viết khóa luận tốt nghiệp như: Khóa luận tốt nghiệp "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thỏa thuận trọng tài đối với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại tại Việt Nam" của Nguyễn Thị Thu thảo - Lớp KT31H - Đại học Luật Hà Nội; Khóa luận tốt nghiệp "Những điểm mới của Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 về thỏa thuận trọng tài và những vấn đề đặt ra" của Mỵ Duy Thanh - CN3 QTKD - Đại học Ngoại Thương - Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Ngọc Hà; Khóa luận tốt nghiệp "Pháp luật về thỏa thuận Trọng tài Thương mại" của Tống Thị Lan Hương - Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Viết Tý và các bài viết của nhiều tác giả khác. Những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích và quý báu đối với tôi trong quá trình nghiên cứu về đề tài "Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam". "Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam" không phải là một đề tài mới vì đã có rất nhiều tác giả chọn đề tài này (hoặc đề tài tương tự) để 8
- nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác phẩm hầu hết đều viết về Trọng tài Thương mại nói chung hoặc viết về thỏa thuận trọng tài vào thời điểm Luật Trọng tài Thương mại 2010 chưa được ban hành hoặc chưa có hiệu lực. Hiện nay, chưa có luận văn cấp thạc sỹ nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài một cách chuyên biệt theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Vì vậy, đề tài "Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam" mà tôi chọn để viết luận văn thạc sỹ vào thời điểm này vẫn bảo đảm tính mới của đề tài nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn số trang quy định, cộng thêm vốn kiến thức còn hạn chế, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xoay quanh những nội dụng chính đó là: - Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về thỏa thuận trọng tài: nêu những quy định về khái niệm, phân loại, hình thức, hiệu lực và tính độc lập của thỏa thuận trọng tài theo quy định của Luật Mẫu, pháp luật của một số nước về thỏa thuận trọng tài và theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại năm 2010. - Thực trạng quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay: nêu những điểm còn bất cập của quy định hiện hành về thỏa thuận trọng tài trong Luật Trọng tài Thương mại 2010, đồng thời trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài thông qua một số vụ việc cụ thể từ đó nêu lên những nhận xét về thực tiễn áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam hiện nay. - Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam: Từ những nhận xét về thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, đề ra giải pháp nhằm hoàn 9
- thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thỏa thuận trọng tài và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở: - Phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin; - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, hệ thống, phương pháp bình luận. Những điểm mới của luận văn Hệ thống được những quy định của pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài, đồng thời có sự so sánh với quy định của Luật Mẫu và pháp luật của một số nước trên thế giới để thấy được sự kế thừa và sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về thỏa thuận trọng tài, nhận định những điểm còn hạn chế trong quy định về thỏa thuận trọng tài theo Luật Trọng tài Thương mại 2010. Từ đó, đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện thêm các quy định về thỏa thuận trọng tài. Ngoài ra, luận văn còn nhận xét về thực tiễn áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại, qua đó tìm ra những phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam trong thời gian tới. Cơ cấu luận văn Luận văn được chia làm 03 (ba) phần lớn: - Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về thỏa thuận trọng tài. 10
- - Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay. - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam. 11
- Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI 1.1 Khái quát về Trọng tài Thƣơng mại 1.1.1 Khái niệm Trọng tài Thương mại Trọng tài Thương mại là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới. Khái niệm này được nghiên cứu dưới rất nhiều bình diện khác nhau trong khoa học pháp lý và hiện nay cũng có rất nhiều cách tiếp cận về khái niệm này. Trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp là cách tiếp cận chủ yếu của hệ thống các quy định pháp luật về trọng tài. Theo Điều 2.a, Luật mẫu của UNCITRAL thì: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của tổ chức”. Hay theo Hiệp hội trọng tài Hoa kỳ (AAA) thì: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”. Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm này: Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 ghi nhận: "Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp lệnh quy định". Khoản 1, Điều 3, Luật Trọng tài Thương mại 2010 cũng quy định: "Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này" 12
- Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng là cách tiếp cận khá phổ biến. Theo từ điển tiếng Việt thì trọng tài là “Người được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp”. Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định pháp luật, theo cuốn Danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là “một chế định cử tư nhân giải quyết sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp”. Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài, tuy nhiên khi nghiên cứu khái niệm này ta thường xem xét dưới hai góc độ chủ yếu: là một hình thức giải quyết tranh chấp và là cơ quan giải quyết tranh chấp: - Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại: Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp, Trọng tài Thương mại được hiểu là phương thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài và trọng tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. - Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp: Trọng tài Thương mại là cơ quan được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Trọng tài là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được thừa nhận là một cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án. [20, tr 3 - tr 5] 1.1.2 Đặc điểm của Trọng tài Thương mại Về bản chất, Trọng tài Thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà mà được giải quyết thông 13
- qua phán quyết của Trọng tài Thương mại theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, là một phương thức giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi các thiết chế đặc biệt, do vậy trọng tài mang một số đặc trưng cơ bản sau: - Trọng tài Thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ, trọng tài có quyền phán quyết như Tòa án và quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi hành. - Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly được những yếu tố đã được thỏa thuận. - Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự rất cao. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, quy tắc tố tụng trọng tài, luật áp dụng. - Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành với các bên. Nếu một bên không thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. - Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại cần sự hỗ trợ của Tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của Tòa án vì phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước, do đó cần phải có một cơ quan Nhà nước hỗ trợ, đó là Tòa án. - Trọng tài tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là: trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp 14
- đó. Trọng tài thường trực là những tổ chức trọng tài có hình thức tổ chức, trụ sở ổn định, danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. 1.1.3 Khái lược sự hình thành, phát triển của trọng tài trong lịch sử pháp luật Việt Nam Ở nước ta, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã được hình thành từ khá lâu và trải qua các giai đoạn phát triển. Vào năm 1963 và 1964, ở miền Bắc nước ta đã thành lập Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, một hệ thống trọng tài kinh tế từ huyện, tỉnh đến Trung Ương đã được thành lập để giải quyết các tranh chấp chủ yếu giữa các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã. Trọng tài kinh tế thực chất là những cơ quan hành chính Nhà nước mà chưa thực hiện được vai trò đúng như tên gọi. Năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/CP, cho phép thành lập tổ chức trọng tài kinh tế với tư cách là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp dưới hình thức Trung tâm Trọng tài Thương mại, tách biệt hẳn với trọng tài kinh tế nhà nước. Đây là một bước ngoặt khi Nhà nước đã trả Trọng tài Thương mại về đúng bản chất và chức năng của nó. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận với pháp luật quốc tế, nâng cao tính minh bạch, chuyên nghiệp cho hoạt động của các trung tâm Trọng tài Thương mại, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 được ban hành. Tuy nhiên, sau một quá trình áp dụng vào thực tế, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, hạn chế, bởi vậy, đến ngày 17/06/2010, Quốc Hội đã chính thức ban hành Luật Trọng tài Thương mại 2010 để thay thế Pháp lệnh trọng tài 2003, nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến Trọng tài Thương mại. 15
- 1.2. Pháp luật về thỏa thuận trọng tài Pháp luật về thỏa thuận trọng tài được hiểu là tập hợp những quy định của pháp luật về những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài như: khái niệm thỏa thuận trọng tài; phân loại thỏa thuận trọng tài; hình thức thỏa thuận trọng tài; hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; tính độc lập của thỏa thuận trọng tài và những vấn đề khác có liên quan. Thỏa thuận trọng tài được quy định khá toàn diện trong Luật mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế Liên Hợp Quốc (sau đây gọi là "Luật mẫu"). Trên cơ sở các quy định của Luật Mẫu về thỏa thuận trọng tài, các quốc gia kế thừa và quy định cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở quốc gia mình. 1.2.1 Khái niệm "Thỏa thuận trọng tài" Điều 7.1, Luật Mẫu quy định: Thoả thuận trọng tài là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức Điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng. Như vậy, có thể thấy rằng, Luật mẫu không chỉ ghi nhận thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận của các bên đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh mà còn bao gồm cả nội dung về những tranh chấp được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài và hình thức xác lập của thỏa thuận trọng tài. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ ghi nhận thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên về việc đưa các tranh chấp đã phát sinh 16
- hoặc có thể phát sinh ra giải quyết bằng trọng tài, còn các nội hàm về các tranh chấp được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài là những tranh chấp nào? Chủ thể của tranh chấp là những ai? Thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới những hình thức nào? lại được quy định riêng tại các điều luật khác. Khoản 2, Điều 3, Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định: "Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh" Thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật Trọng tài Thương mại 2010 là sự thỏa thuận của các bên về việc giải quyết các tranh chấp có thể sẽ xảy ra trong tương lai hoặc tranh chấp đã xảy ra bằng con đường Trọng tài Thương mại. Nội hàm khái niệm thỏa thuận trọng tài được phân tích như sau: - Thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài Theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài Thương mại là “tranh chấp có thể phát sinh” hoặc “đã phát sinh”. Như vậy, thời điểm hai bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể là trước khi tranh chấp giữa hai bên xảy ra hoặc vào thời điểm sau khi tranh chấp đã xảy ra. + Trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp xảy ra: Ví dụ: Công ty A mua hàng hóa của Công ty B, trong Hợp đồng mua bán hàng hóa, hai bên có thỏa thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp như sau: "Mọi tranh chấp phát sinh hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) theo quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm này". 17
- + Trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp đã xảy ra Ví dụ: Công ty A thuê Công ty B gia công các sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ, trong Hợp đồng thuê không có điều khoản về giải quyết tranh chấp. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty B đã vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng nên giữa hai bên xảy ra tranh chấp. Sau khi tranh chấp xảy ra, Công ty A và Công ty B đã lập một văn bản thỏa thuận về việc đưa tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thuê gia công ra giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). - Các loại tranh chấp được thỏa thuận giải quyết bằng Trọng tài Thương mại Những tranh chấp được các bên thỏa thuận giải quyết bằng con đường Trọng tài Thương mại phải là những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Thương mại được quy định tại Điều 2, Luật Trọng tài Thương mại 2010. Theo quy định trên, những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Thương mại bao gồm: + Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại: Luật Trọng tài Thương mại 2010 không có định nghĩa về hoạt động thương mại. Tuy nhiên, trong pháp luật hiện hành, khái niệm "hoạt động thương mại" được đề cập trong hai văn bản quan trọng là Luật thương mại 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3, Luật thương mại 2005 thì "Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác". Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự quy định những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của 18
- Tòa án rất rộng. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án gồm: . Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. . Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. . Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. . Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Khi Luật Trọng tài Thương mại 2010 không quy định cụ thể thế nào là hoạt động thương mại thì thiết nghĩ, bất kỳ hoạt động nào được coi là hoạt động thương mại trong một văn bản pháp luật khác ở Việt Nam đều thuộc khái niệm "hoạt động thương mại" của Luật Trọng tài Thương mại 2010. Do đó, tất cả những hoạt động được coi là hoạt động thương mại trong Luật thương mại 2005 hay Bộ luật tố tụng dân sự đều thuộc khái niệm "hoạt động thương mại" của Luật Trọng tài Thương mại 2010. Như vậy, các tranh chấp phát sinh từ hoạt động này có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài. + Tranh chấp giữa các bên, trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại: Loại tranh chấp này có thể xảy ra giữa: 19
- Tranh chấp xảy ra giữa các bên trong đó một bên có hoạt động thương mại và một bên không có hoạt động thương mại. Ví dụ: tranh chấp xảy ra giữa ông A và công ty X, ông A mua các thiết bị điện của Công ty X để lắp đặt cho ngôi nhà mới. Trong tranh chấp này, Công ty X là bên có hoạt động thương mại, còn ông A là bên không có hoạt động thương mại; Tranh chấp giữa các bên mà cả hai bên đều thực hiện các hoạt động thương mại. Ví dụ: tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai Công ty X và Y. Trong tranh chấp này, Công ty X và Công ty Y đều là các chủ thể có hoạt động thương mại. + Những tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài: Đây là quy định mang tính chất mở của Luật Trọng tài Thương mại về thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Theo quy định này, ngoài hai loại tranh chấp đã nêu ở trên thì Trọng tài Thương mại còn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào, giữa bất kỳ các chủ thể nào mà pháp luật quy định tranh chấp đó được giải quyết bằng Trọng tài Thương mại. Ví dụ: Luật đầu tư 2005 quy định Trọng tài Thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp mà một bên chủ thể là cơ quan Nhà nước. - Các chủ thể của tranh chấp Khoản 3, Điều 3, Luật Trọng tài Thương mại 2010 giải thích khái niệm “Các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn”. Theo quy định nêu trên, Luật Trọng tài Thương mại 2010 không giới hạn về phạm vi chủ thể được thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hay nước ngoài đều có quyền được 20
- thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh bằng con đường trọng tài và tham gia tố tụng trọng tài. 1.2.2 Phân loại thỏa thuận trọng tài Điều 7.1 Luật Mẫu quy định: "Thoả thuận trọng tài là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng". Theo quy định của Luật Mẫu thì thỏa thuận trọng tài được chia thành hai loại: - Thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh: thỏa thuận trọng tài loại này được xác lập để giải quyết các tranh chấp "có thể phát sinh" trong tương lai. - Thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh: thỏa thuận trọng tài loại này được xác lập để giải quyết những tranh chấp đã phát sinh giữa các bên. Trong khi đó, Khoản 1, Điều 3, Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định: "Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài". Theo quy định trên, căn cứ vào thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài được phân chia thành hai loại là: - Thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh Thỏa thuận trọng tài loại này thường có trong hợp đồng giữa các bên và là một thỏa thuận để đưa các tranh chấp xảy ra trong tương lai ra trọng tài. Điều khoản trọng tài thường có nội dung khá ngắn gọn, vì điều khoản trọng tài liên quan đến các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai. Điều khoản 21
- trọng tài thường không quá đi vào chi tiết vì rất khó biết chắc được loại tranh chấp nào sẽ phát sinh và đâu là cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp đó. Trên thực tế, mặc dù trong hợp đồng hai bên luôn dự trù tình huống tranh chấp có thể phát sinh nên đồng ý đưa vào hợp đồng một điều khoản trọng tài nhưng thực chất cả hai bên đều không mong muốn tranh chấp xảy ra và không cần phải sử dụng đến điều khoản này. Bởi vậy, các bên thường lựa chọn một điều khoản trọng tài mẫu của một tổ chức trọng tài uy tín. [11, tr 158] - Thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh Thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh là loại thỏa thuận nhằm đưa tranh chấp hiện tại ra trọng tài. Thỏa thuận trọng tài loại này liên quan đến tranh chấp đã phát sinh trên thực tế, bởi vậy, thỏa thuận trọng tài này có thể hoàn toàn biến đổi để phù hợp với nội dung vụ tranh chấp. Nội dung của thỏa thuận trọng tài loại này thường bao gồm chi tiết hầu hết các vấn đề liên quan như: tổ chức trọng tài được lựa chọn, quy tắc tố tụng được áp dụng, chỉ định trọng tài viên, xác định vấn đề đang tranh chấp, Quan điểm của các bên khi bàn bạc về một thỏa thuận trọng tài sau khi tranh chấp đã phát sinh khác hoàn toàn với quan điểm của họ khi đưa một điều khoản trọng tài vào hợp đồng vì: Khi đó tranh chấp đã thực sự phát sinh và điều này đồng nghĩa với việc đã xảy ra mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai bên. Hơn nữa, khi tranh chấp đã phát sinh, các bên sẽ biết họ đang đối diện với loại tranh chấp nào từ đó sẽ biết được họ muốn đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại tổ chức trọng tài nào cho hiệu quả và hợp lý. Xảy ra tranh chấp cũng đồng nghĩa với việc có sự xung đột về lợi ích giữa các bên. Khi đó, bên nguyên đơn thường muốn nhanh chóng giải quyết vụ việc để bảo đảm lợi ích cho mình, trong khi bị đơn thường cố tình muốn kéo dài thời gian, trì hoãn 22
- quá trình tố tụng, do vậy, việc đàm phán để đi đến một thỏa thuận trọng tài trong trường hợp này thường mất một thời gian khá dài. [11, tr 193] Theo pháp luật một số nước trên thế giới mà điển hình là pháp luật Pháp luôn có quy định sự khác biệt giữa hai loại thỏa thuận trọng tài. Các chủ thể được tự do hơn đối với loại thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ dừng lại ở việc ghi nhận có hai loại thỏa thuận trọng tài mà chưa có quy định cụ thể sự khác nhau giữa chúng. 1.2.3 Hình thức thỏa thuận trọng tài * Hình thức của thỏa thuận trọng tài Tất cả các công ước quốc tế về trọng tài cũng như Luật mẫu và hầu hết luật trọng tài của các nước trên thế giới đều quy định một thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Điều II Công ước New York quy định yêu cầu thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức văn bản, Điều 7.2 Luật mẫu cũng quy định: "Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản" . Tuy nhiên, định nghĩa "văn bản" lại được giải thích khác nhau. Công ước New York định nghĩa "văn bản" như sau: thỏa thuận bằng văn bản bao gồm một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài được các bên ký hoặc có trong các thư từ hoặc điện tín trao đổi. Tuy nhiên, kể từ khi Công ước New York ra đời năm 1958, đã có một cuộc cách mạng trong truyền thông. Điện tín - một phương tiện truyền tin bằng văn bản phổ biến đã được thay thế bằng telex, fax và bây giờ là thư điện tử. Luật mẫu đã kịp thời cập nhật sự thay đổi về phương tiện liên lạc và có sự tiến bộ hơn so với Công ước New York trong việc định nghĩa "văn bản", Điều 7.2, Luật mẫu quy định: Thoả thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, Telex, telegrams hoặc các hình thức trao đổi viễn thông khác mà ghi nhận thoả thuận 23