Luận văn Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay

pdf 128 trang vuhoa 25/08/2022 8340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_thanh_lap_va_hoat_dong_cua_to_chuc_han.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HỒNG THẮM PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ THỰC TIỄN THỰC THI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG THỊ HỒNG THẮM PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ THỰC TIỄN THỰC THI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy Hà Nội, 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN
  4. MỤC LỤC Danh mục từ viết tắt i PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 6 1.1. Khái quát về công chứng và hoạt động công chứng 6 1.1.1. Quan niệm chung về công chứng và hoạt động công chứng 6 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hoạt động công chứng 10 1.2. Pháp luật công chứng của Việt Nam 15 1.2.1. Khái niệm pháp luật về công chứng 15 1.2.2. Sự phát triển của công chứng và pháp luật công chứng Việt Nam 15 1.2.3. Khái niệm công chứng theo pháp luật Việt Nam hiện hành 25 1.3. Một số đặc điểm trong quy định công chứng của một số nƣớc trên thế giới 35 1.3.1. Công chứng ở Cộng hòa Pháp 37 1.3.2. Công chứng ở Anh - Mỹ 40 1.3.3. Công chứng ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 42 Tiểu kết chƣơng 1. 45 Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ THỰC TIỄN THỰC THI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 46 2.1. Quy định của pháp luật công chứng hiện hành về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng 46 2.1.1. Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng 46 2.1.2. Pháp luật về công chứng viên 62 2.1.3. Các bất cập trong quy định của pháp luật về công chứng 72
  5. 2.2. Thực tiễn hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay 76 2.2.1. Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội 77 2.2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 78 2.2.1.2. Điều kiện về hệ thống cơ quan quản lý, về nguồn nhân lực 78 2.2.2. Thực tiễn hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay 79 2.2.3. Các kết quả đạt được sau hơn sáu năm thực thi Luật công chứng 87 2.3. Một số bất cập trong hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội hiện nay 94 2.3.1. Có nhiều vi phạm trong hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng . 94 2.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng còn bị buông lỏng 97 2.3.3. Nhận thức của người dân về công chứng còn chưa đầy đủ 98 Tiểu kết chƣơng 2 99 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG 100 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật công chứng và quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng 100 3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng 100 3.1.2. Phương hướng quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng . 104 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng 108 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 108 3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác 114 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LCC 2006 Luật công chứng 2006 Tổ chức HNCC Tổ chức hành nghề công chứng UBND Ủy ban nhân dân VPCC Văn phòng công chứng CCV Công chứng viên i
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong những năm gần đây, hoạt động công chứng ở nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng được nhu cầu công chứng của nhân dân trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động công chứng đã tạo ra các bằng chứng, sự an toàn pháp lí cần thiết cho các hợp đồng và các giao dịch dân sự khác, thúc đẩy sự hợp tác giao lưu kinh tế, thương mại, góp phần vào việc phòng ngừa các tranh chấp, vi phạm pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động công chứng với thực tiễn cuộc sống, tại kì họp thứ 10 Quốc hội khóa XI ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật công chứng số 82/2006/QH11 về công chứng (LCC 2006) đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2007; cùng với sự ra đời của LCC 2006, các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động công chứng cũng lần lượt được ban hành như: Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ kí (Nghị định số 79/2007/NĐ-CP); Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (Nghị định số 02/2008/NĐ-CP), Nghị định số 04/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 01 năm 2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2008/NĐ-CP (Nghị định số 04/2013/NĐ-CP). Đồng thời, hiện nay Dự thảo Luật công chứng sửa đổi đang trong quá trình thảo luận, hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua vào đầu năm 2014 đã góp phần tạo nên sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật công chứng nước ta. Có thể khẳng định rằng LCC 2006 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chế định công chứng tại nước 1
  8. ta. Sau gần hai mươi năm kể từ khi được tái lập trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, lần đầu tiên văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng đã được “nâng cấp”, thể hiện dưới hình thức một đạo luật. Đặc biệt, LCC 2006 đã chuyển tải một số quan điểm lập pháp hoàn toàn mới lạ với tư duy pháp lý truyền thống cũng như giải quyết thành công một vài hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng trước đó. Có hiệu lực pháp lý kể từ ngày 01/07/2007, cho đến nay Luật công chứng đã đi vào cuộc sống được hơn sáu năm, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức hành nghề công chứng (tổ chức HNCC) hoạt động một cách tương đối hiệu quả trong suốt thời gian vừa qua. Thực tiễn áp dụng Luật công chứng trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua đã đem lại nhiều kết quả khả quan như: Số lượng tổ chức HNCC và công chứng viên (CCV) hành nghề ngày càng tăng về số lượng, vững vàng hơn về chất lượng, chất lượng phục vụ người dân ngày càng tốt và chuyên nghiệp hơn. Các Phòng công chứng duy trì được chất lượng và uy tín, nhiều Văn phòng công chứng (VPCC) xây dựng được thương hiệu tốt, đáp ứng được nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức. Người dân trên địa bàn thành phố có nhiều thuận lợi, nhiều lựa chọn hơn khi có yêu cầu công chứng, nhất là người dân tại các huyện, nơi trước đây không có tổ chức HNCC. Luật công chứng là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý các giao dịch dân sự, nhưng đến nay, do biến động của tình hình thực tế có nhiều vấn đề mà Luật công chứng chưa tiên liệu được. Điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật công chứng hiện nay ở trên địa bàn cả nước nói chung, trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục để hoạt động này phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong thực tiễn cuộc sống. Thành phố Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, nơi tập trung của cả nước về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Với đặc điểm là dân số đông, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động, phức tạp - đặc biệt 2
  9. là các giao dịch về bất động sản nên thực tiễn thực thi pháp luật về công chứng tại Hà Nội có nhiều thuận lợi song cũng phát sinh nhiều bất cập. Bởi vậy, tác giả đã chọn thành phố Hà Nội là địa bàn nghiên cứu cho luận văn. Với các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Công chứng, với tư cách là một chế định bổ trợ tư pháp trong hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa, xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu. Tuy nhiên, trong thời gian qua, kể từ khi Luật công chứng ra đời, đã có một số đề tài luận án, luận văn nghiên cứu về lĩnh vực này. Cụ thể như: Tuấn Đạo Thanh, Luận án Tiến sĩ Luật học, “Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”, 2008; Phạm Thị Mai Trang, Luận văn thạc sĩ Luật học, “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, 2011; Nguyễn Quang Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay”, 2008; Nguyễn Chí Thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, “Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, 2006 cùng một số khóa luận tốt nghiệp khác. Ngoài ra, còn có sách chuyên khảo: Pháp luật công chứng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, 2012 của tiến sĩ Tuấn Đạo Thanh cùng khá nhiều các bài báo, tạp chí viết về vấn đề này như Tạp chí Nghề Luật, số 5 tháng 10/2012 Chuyên đề về Công chứng; Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 2/21010 Chuyên đề về công chứng; Đặng Thị Tân Mai, 2010, “Phát triển hệ thống tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội”, Tạp chí Quản lý Nhà nước - Học viện hành chính, số 177 (T10/2010) Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều đi sâu phân tích các quy định của pháp luật về công chứng nói chung, tình hình công chứng trên phạm vi cả nước, xã hội hóa công chứng hoặc nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật công 3
  10. chứng Việt Nam dựa trên sự phân tích, so sánh với pháp luật công chứng của các quốc gia khác trên thế giới tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về tình hình và kết quả hoạt động công chứng của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về công chứng và tổ chức HNCC, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội, đồng thời đưa ra các ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công chứng và hoạt động công chứng trong điều kiện hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích đó, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau: Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về pháp luật công chứng và tổ chức HNCC. Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật công chứng và thực trạng thành lập, hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ kết quả đạt được nhằm rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật về công chứng. Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về công chứng và nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Với khuôn khổ của Luận văn, luận văn sẽ tập trung đi sâu phân tích một số quy định của pháp luật công chứng hiện hành về thành lập và hoạt động tổ chức HNCC và thực tiễn hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội. • Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm 4
  11. của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Những đóng góp mới của Luận văn Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật công chứng hiện hành. Thứ hai, đánh giá, tổng kết được kết quả hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội sau hơn sáu năm Luật công chứng có hiệu lực. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp mang tính thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật công chứng, phát triển hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương. Chương 1: Các vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật công chứng và hoạt động công chứng. Chương 2: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn Hà Nội Chương 3: Hoàn thiện pháp luật công chứng và nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng. 5
  12. Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG 1.1. Khái quát về công chứng và hoạt động công chứng 1.1.1. Quan niệm chung về công chứng và hoạt động công chứng 1.1.1.1. Quan niệm công chứng trên thế giới Trên thế giới, nghề công chứng đã có lịch sử hình thành, phát triển hàng ngàn năm, gắn bó chặt chẽ với đời sống dân sự, được người dân và pháp luật tôn trọng. Công chứng và việc hành nghề của CCV đã góp phần tích cực cho công việc quản lý nhà nước và xã hội. Để hiểu rõ hơn về hoạt động công chứng, trước tiên phải tìm hiểu về nguồn gốc của khái niệm công chứng trên thế giới. Theo định nghĩa tại từ điển online Legal Dictionary, CCV là “Một người mang công quyền, mà quyền hạn bao gồm quản lý việc tuyên thệ và xác nhận chữ ký, cả hai cách quan trọng và hiệu quả để giảm thiểu gian lận trong các tài liệu liên quan đến luật pháp (A public official whose main powers include administering oaths and attesting to signatures, both important and effective ways to minimize fraud in legal documents) [54]. Từ điển Luật học Mỹ, cũng định nghĩa công chứng (Notarial) là hoạt động của CCV. CCV, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius” trong luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Có thể truy nguyên nguồn gốc của chức danh CCV từ thời đế chế La Mã cổ xưa. Sự ra đời của nghề công chứng ở Cộng hòa La Mã cổ đại được hình thành từ năm 106 đến năm 43 trước công nguyên, và gọi là notaries (công chứng) hay scribae (thầy tư tế). Về sau, trong luật La Mã đó là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của Tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu. Họ là nhánh lâu đời nhất trong ngành luật còn tồn tại đến ngày nay trên khắp thế giới [1]. 6
  13. Theo các cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng, tính chất của nghề CCV là một nhân viên công. Các nhân viên công, còn được gọi là ''thư ký'' là những người chuyên chép thuê. Thời gian trôi qua đã có sự thay đổi về tính chất nghề nghiệp trong các mối quan hệ giữa các lĩnh vực công - tư. Một số là nhân viên thường trực gắn bó với Viện nguyên lão và Tòa án, có trách nhiệm lưu giữ các biên bản, sao chép lại giấy tờ của nhà nước, hỗ trợ các quan tòa về các thủ tục pháp lý và ghi vào sổ các bản án và phán quyết của quan tòa [50, tr.10]. Pháp luật dân sự đã trải qua thời kỳ trung cổ đến thời kỳ phục hưng từ thế kỷ 12 trở đi, thời kỳ này, công chứng phát triển thành tổ chức nghề luật ở hầu hết các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, từ trước tới nay trên thế giới luôn cùng tồn tại ba hệ thống công chứng: Hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng Anglo-sacxon ( Anh - Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Collectiviste). - Hệ thống công chứng La tinh (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ ). - Hệ thống công chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật Anglo-Saxon (Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan - Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ 7
  14. XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam [18]. Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste). Ở mô hình công chứng tự do, các CCV được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức VPCC tư nhân hoặc VPCC tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho Nhà nước. CCV chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải bồi thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba. Ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, CCV là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, CCV không phải chịu trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do hành vi công chứng trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng. Có thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển, ở đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân [18]. Có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của CCV, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các CCV phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công 8
  15. chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng thuế của các CCV. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân. 1.1.1.2. Hoạt động công chứng Từ các quan niệm về công chứng ở trên, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hành vi của CCV nhằm lập, chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch với mục đích đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật. Khởi nguồn của hoạt động công chứng là hoạt động của xã hội, với vai trò làm chứng của quần chúng nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan của các khế ước, văn tự được lập, đề phòng sự tranh chấp, lật lọng. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của lịch sử công chứng, công chứng chính là nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao dịch chứ chưa phải nhu cầu của quản lý nhà nước. Như vậy, công chứng là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc. Mặt khác, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ quản lý nhà nước, góp phần bảo đảm ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển và hỗ trợ tư pháp thông qua việc cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử, công chứng là một nghề có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, cộng đồng. Với vai trò quan trọng như trên, công chứng đã trở thành đối tượng quản lý của nhà nước. Thậm chí, ở một số quốc gia, trong những điều kiện lịch sử nhất định, công chứng còn trở thành một hoạt động thuộc chức năng xã hội của nhà nước (chức năng cung ứng dịch vụ công). Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, hoạt động công chứng đã khẳng định sự tồn tại vững chắc và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và trở thành hoạt 9
  16. động hỗ trợ đắc lực cho công dân và nhà nước trên cả hai phương diện: hỗ trợ hành pháp (quản lý nhà nước) và bổ trợ tư pháp [50, tr.12-13]. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của hoạt động công chứng Từ khái niệm về công chứng và hoạt động công chứng, có thể rút ra những đặc điểm pháp lý của hoạt động công chứng như sau: Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của CCV Nội dung cơ bản của hoạt động công chứng là lập các hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật bởi vậy, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của CCV. Chỉ có CCV, người được đào tạo về chuyên môn và được cơ quan nhà nước trao quyền mới được thực hiện hoạt động này. Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động công chứng, là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt hoạt động công chứng với các hoạt động mang tính chất hành chính của các cơ quan công quyền. Hành vi lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng giấy tờ đó theo quy định của pháp luật là hành vi tạo nên các văn bản công chứng. Hay nói cách khác, các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng gọi là các văn bản công chứng. Đặc điểm này của hoạt động công chứng được biểu hiện như sau: Các phòng công chứng, VPCC thực hiện hoạt động công chứng bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các CCV là những người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng. Các CCV thông qua các thao tác nghề nghiệp của mình, giúp khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản, đảm bảo cho ý chí của họ phù hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đồng thời, CCV còn kiểm tra, tư vấn góp ý để khách hàng có thể thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của chính họ một cách chính xác rõ ràng nhất trong các văn bản công chứng. 10
  17. CCV bằng sự kiến thức pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Ví dụ: khi tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp đồng mua bán xe ô tô của khách hàng thì ngoài việc xác định các nội dung cơ bản của hợp đồng theo quy định pháp luật như bên mua, bên bán, tình trạng chất lượng tài sản, giá cả và phương thức thanh toán CCV còn phải xác định các quan hệ pháp lý liên quan khác, gồm: - Quan hệ sở hữu: sở hữu chung hay sở hữu riêng - Quan hệ giao dịch bảo đảm: tài sản có đang đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ nào khác hay không như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ); - Quan hệ thừa kế: tài sản có liên quan đến di sản thừa kế hay không? Đồng thời CCV còn phải giải thích rõ cho khách hàng biết họ sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý gì khi tranh chấp xảy ra nếu có sự dối trá, giả tạo, không trung thực trong quá trình giao kết hợp đồng thì. Sau khi xác định rõ các vấn đề trên, các bên trong hợp đồng ký vào văn bản trước sự chứng kiến của CCV. CCV công nhận tính xác thực, hợp pháp của các hợp đồng giấy tờ bằng việc ghi lời chứng theo thể thức và nội dung do pháp luật quy định và ký tên vào văn bản, giấy tờ đó. Sau khi hoàn tất giai đoạn này, hợp đồng giấy tờ trở thành văn bản công chứng - một loại công chứng thư (văn bản có tính chất công như văn bản cửa cơ quan công quyền - được lập ra do người có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục chặt chẽ) [50, tr.16]. Ngoài ra, sau khi lập, chứng nhận các hợp đồng giấy tờ như đã phân tích ở trên, CCV còn phải cấp văn bản cho khách hàng và phải có nghĩa vụ lưu giữ văn bản công chứng lâu dài, đảm bảo an toàn và cấp bản sao văn bản công chứng khi có yêu cầu của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch. Như vậy, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao của CCV, khác với hoạt 11
  18. động chuyên môn thuần túy của các công chức hành chính. Ý nghĩa pháp lý của hoạt động động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra (văn bản công chứng là một công chứng thư). Bản thân hoạt động công chứng chứa đựng tính phức tạp, đa dạng của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm CCV. Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ Văn bản công chứng là văn bản do CCV lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch. Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại điều 1319: “Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy đầy đủ cho hợp đồng”; Điều 1317: “Văn bản công chứng là văn bản được CCV lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc” [44, tr 31]. Tại Việt Nam, theo Điều 6 khoản 1, LCC 2006 thì: “ Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập trước hết không nhằm tạo ra chứng cứ và càng không phải mục đích duy nhất làm chứng cứ. Văn bản công chứng được tạo lập, trước hết đảm bảo giá trị thực hiện đối với các bên trong giao dịch, đồng thời có giá trị đối với cả bên thứ ba. Hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng theo các quy định của pháp luật thì giá trị pháp lí của hợp đồng, giao dịch đó sẽ được nhà nước thừa nhận. Văn bản đã được công chứng sẽ có ý nghĩa ràng buộc các bên tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không cần sự phán xét của Tòa án. Trừ khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện theo văn bản đã công chứng thì bên còn 12
  19. lại trong hợp đồng, giao dịch có quyền yêu cầu tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là văn bản đã được công chứng luôn tạo ra một biện pháp an toàn cho các bên khi tranh chấp xảy ra. Đây chính là giá trị chứng cứ của các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những văn bản đã được công chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Từ đó, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Trên thế giới hiện nay, các hệ thống công chứng khác nhau có quan điểm khác nhau khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. - Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon là công chứng hình thức, khi thực hiện công chứng, các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của Giáo hội chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên hoặc ý chí của người yêu cầu công chứng mà không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba [15, tr.19-20] Bởi vậy, văn bản công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, hiển nhiên trước Tòa án, không có giá trị cưỡng chế thi hành như một phán quyết của Tòa án, mà chỉ được coi là nguồn chứng cứ trước tòa, vẫn cần điều tra xác minh, có tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn so với các hệ thống công chứng khác. - Hệ thống công chứng La tinh: công chứng La tinh là công chứng nội dung, văn bản công chứng được lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, CCV không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính xác thực của hợp đồng, giao dịch mà còn phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ ba hoặc của Nhà nước. Bởi vậy, CCV đem lại 13
  20. cho văn bản giá trị như văn bản do cơ quan công quyền cấp, đảm bảo cho các hợp đồng một sự an toàn trong mọi tình huống, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân sự, làm giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử của các Tòa án. CCV giữ vai trò quan trọng để đảm bảo trật tự pháp lý, đó là vai trò bổ trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng, nhằm phòng ngừa tranh chấp (thẩm phán phòng ngừa). Chính vai trò mang tính chất phòng ngừa này của CCV là một ưu điểm trong hệ thống luật Châu Âu lục địa so với hệ thống luật Anh - Mỹ [15, tr.12-13]. Hoạt động công chứng chịu sự quản lý của Nhà nước Đặc điểm này được thể hiện ở các hệ thống công chứng như sau: Ở các nước theo hệ La tinh, CCV được Nhà nước ủy thác một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên CCV đó. Với tư cách là ủy viên công quyền, CCV có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng Anglo- Saxon đều coi công chứng là một nghề tự do. CCV hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi CCV phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, bởi vậy, CCV do nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề [50, tr.14]. Hệ thống công chứng Collectiviste là một thể chế công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vật chất, trả lương và hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp của Chính phủ. CCV hầu hết đều là công chức, nhân 14