Luận văn Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

pdf 117 trang vuhoa 25/08/2022 5940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_tai_co_cau_quan_tri_noi_bo_cua_ngan_ha.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY ANH PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY ANH PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THUỶ HÀ NỘI – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thúy Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1 6 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6 1.1. Khái niệm quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại 6 1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại 6 1.1.1.1.Định nghĩa ngân hàng thương mại 6 1.1.1.2.Đặc điểm của ngân hàng thương mại 8 Từ các khái niệm nêu trên, có thể thấy NHTM có những đặc điểm chính như sau: 8 1.1.2.Khái niệm quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại 10 1.1.3.Khái niệm tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại 13 1.2.Mục đích và vai trò của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại 15 1.2.1.Mục đích của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại 15 1.2.2.Vai trò và lợi ích của việc tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại 20 1.3.Nội dung của tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại 21 1.3.1.Tái cơ cấu Bộ máy quản lý của ngân hàng thương mại 22 1.3.2.Tái cơ cấu bộ máy điều hành ngân hàng thương mại 30 Chương 2 38 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 38
  5. 2.1. Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu bộ máy quản lý ngân hàng thương mại ở Việt Nam 38 2.1.3.Hội đồng thành viên 54 2.1.4.Ban kiểm soát 56 2.2.Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu bộ máy điều hành ngân hàng thương mại 58 2.2.1.Tổng giám đốc 58 2.2.2.Kiểm toán và kiểm soát nội bộ 64 2.3.Ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại 68 2.3.1.Pháp luật quản trị nội bộ ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn thiếu 73 2.3.2.Những quy định về quản trị nội bộ ngân hàng thương mại nằm rải rác ở các văn bản khác nhau. 75 2.3.3. Các văn bản pháp luật trong hệ thống văn bản quy định về quản trị nội bộ ngân hàng thương mại không thống nhất. 76 2.3.4. . Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam chưa thống nhất với các chuẩn mực quản trị quốc tế. 76 CHƯƠNG 3 79 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 79 3.1Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại ở Việt Nam 79 3.1.1.Phù hợp đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam 80 3.1.2.Bảo đảm tính thống nhất và phù hợp giữa pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và pháp luật ngân hàng nói chung82 3.1.3.Đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và khắc phục các hạn chế của pháp luật về tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay 83
  6. 3.2 Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái cơ cấu các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 86 3.2.1.Các giải pháp về tái cơ cấu bộ máy quản lý của ngân hàng thương mại 86 3.2.2.Các giải pháp tái cơ cấu bộ máy điều hành của ngân hàng thương mại 93 3.2.3. Những giải pháp hoàn thiện việc tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại từ phía ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại . 99 KẾT LUẬN 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
  7. CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Chữ viết tắt Tên/ cụm từ đầy đủ NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần TCTD Tổ chức tín dụng ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông HĐQT Hội đồng quản trị BKS Ban Kiểm soát
  8. MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề 1.1 . Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trải qua hơn 20 năm đổi mới, ngành ngân hàng Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, luôn giữ vai trò quan trọng là huyết mạch của nền kinh tế và là nhân tố không thể thiếu để tập trung nguồn lực vốn cho phát triển đất nước. Những thành tựu kinh tế xã hội rực rỡ mà Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới đã khẳng định được vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, trong đó có sự đóng góp rất lớn của ngành ngân hàng. Do đó nếu thực sự không tạo điều kiện đảm bảo mọi yếu tố “an toàn” của ngành ngân hàng thì rất dễ gây tổn thương cho nền kinh tế. Việc mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng ở Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Singapore, Nhật Bản, và chịu tác động của những biến động trên thị trường tài chính quốc tế. Cùng với đó cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu kéo dài từ năm 2008 và đến nay vẫn còn để lại hậu quả nặng nề ở nhiều nước, đặc biệt là ở Mỹ mà nguyên nhân chính là sự yếu kém của hệ thống ngành ngân hàng. Điều đó buộc các quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các ngân hàng. Và việc tái cấu trúc hệ thống các ngân hàng, trong đó chú trọng việc tái cơ cấu Ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia để đảm bảo cho các NHTM thích nghi được với nhu cầu phát triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động. Ở Việt Nam hiện nay, khi thị trường chứng khoán phát triển chưa ổn định, gánh nặng về vốn còn dồn lên vai các NHTM thì việc giữ cho hệ thống NHTM ổn định và lành mạnh càng cần phải đặc biệt quan tâm. 1
  9. Đến nay, có thể nói nền kinh tế cũng như hệ thống NHTM Việt Nam đã cơ bản vượt qua cơn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn, có thể kể đến như: Thanh khoản khó khăn, nợ xấu có dấu hiệu tăng cao, năng lực quản trị điều hành hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, rủi ro cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống, Bên cạnh đó, vấn đề sở hữu chéo; hệ thống mạng lưới các NHTM phát triển với tốc độ quá nhanh, số lượng nhiều, chất lượng hoạt động chưa cao, không ít NHTM hoạt động vì lợi ích cục bộ, chạy đua lãi suất gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ. Do đó, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ có nguy cơ xảy ra rủi ro gây mất an toàn hệ thống. Để ổn định và phát triển nền kinh tế hiệu quả, bền vững, Hội nghị trung ương khóa 11 (tháng 10 năm 2011) đã nhấn mạnh sự cần thiết tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó tái cơ cấu hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính là một trong ba lĩnh vực chủ đạo, quan trọng nhất. Đây là chủ trương lớn thể hiện quyết tâm của Đảng nhằm cải tổ nền kinh tế cùng với đẩy lùi tác động, ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới. Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của tái cơ cấu hệ thống NHTM, đặc biệt là bộ máy quản trị nội bộ NHTM và với mong muốn đề ra các giải pháp hữu ích nhằm đóng góp cho quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt Nam thành công, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ ngân hàng thương mại Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 1.2 . Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu Luận văn của tác giả hướng tới mục tiêu sau: - Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM. - Phân tích thực trạng pháp luật về tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam nhằm chỉ ra những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về quản trị nội bộ NHTM Việt Nam trong thời gian hiện nay. Đồng thời xác định nguyên nhân của những hạn chế trong vấn đề quản trị bộ NHTM Việt Nam. - Đề xuất hệ thống giải pháp, kiến nghị góp phần thúc đẩy tiến trình hoàn 2
  10. thiện pháp luật liên quan đến tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt Nam trong tương lai. 1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Xung quanh vấn đề “Pháp luật về tái cấu trúc quản trị nội bộ ngân hàng thương mại ở Việt Nam” đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học từ cấp Bộ, cấp truờng, đến các bài nghiên cứu khoa học điển hình như: - Cao Thị Ý Nhi: “ Cơ cấu lại các ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ kinh tế năm 2007 tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận án đã đánh giá thực trạng và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc cơ cấu lại các NHTM Nhà nước kém hiệu quả trong giai đoạn 2000 - 2005, từ đó xây dựng các định hướng và đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm cơ cấu lại NHTM Nhà nước Việt Nam đến năm 2010. Luận án được giới hạn trong việc cơ cấu lại bốn NHTM Nhà nước trong giai đoạn 2000 - 2005. Phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở 4 NHTM Nhà nước nên chưa phản ánh được thực trạng tái cấu trúc một cách toàn diện hệ thống NHTM Việt Nam, cũng chính vì vậy các giải pháp đề xuất tính ứng dụng còn giới hạn. - Nguyễn Thị Quỳnh Hoa: “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận án tiến sỹ năm 2014 tại trường Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh. Luận án được đánh giá cao bởi các nội dung: (i) Luận án đã xác định được đặc trưng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại là chương trình mang tầm cỡ quốc gia và chỉ rõ những việc cần thực hiện trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM; (ii) Luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2012, từ đó tổng hợp những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam; (iii) Luận án đã phân tích rõ những lý do cho thấy sự cấp thiết cần tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam, đề xuất lộ trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam; (iv) Luận án đã đề xuất thành lâp ủy ban tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam và những công việc cụ thể ủy ban này cần thực hiện, gồm có: Xây dựng bộ tiêu chuẩn xếp loại NHTM sau khi tái 3
  11. cơ cấu làm cơ sở để xác định mục đích mà cả cơ quan quản lý Nhà nước và từng NHTM cần đạt được. Tuy nhiên, luận án còn mang tính bao quát chưa có nhiều phân tích cụ thể xoáy sâu vào các lĩnh vực tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM. - Tác giả Nguyễn Hồng Sơn, bài viết “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: kinh nghiệm quốc tế và một số hàm ý về tư duy cho Việt Nam” tại Hội thảo quốc tế “Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” ngày 21 tháng 11 năm 2011, trình bày các vấn đề sau: (i) Lý do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là hệ thống ngân hàng rơi vào khủng hoảng hoặc một ngân hàng lớn bị rơi vào khủng hoảng; (ii) vì sao cần thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; (iii) Những nguyên tắc cần đảm bảo trong quá trình tái cấu trúc; (iv) NHTW độc lập và tăng cường năng lực. Như vậy bài viết trên chỉ trình bày được lý do tái cấu trúc ngân hàng chủ yếu là do khủng hoảng kinh tế, mà chưa coi tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là công việc cần thực hiện thường xuyên, liên tục để duy trì sự ô định và phát triển. Bài viết cũng chưa đánh giá được thực trạng tái cơ cấu hệ thống NHTM và cũng chưa đề cập đến giải pháp tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam. Nhìn chung, trong tất cả các nghiên cứu mà tác giả có điều kiện tham khảo về các nội dung liên quan đến tái cơ cấu NHTM Việt Nam, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về vấn đề pháp luật tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận về NHTM và tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM; ý nghĩa của việc tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM, nội dung tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM; các biện pháp tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt Nam từ số liệu thu thập được, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, mang tính thực tiễn nhằm đóng góp cho quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Việt Nam thành công. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tái cơ cấu ngân hàng thương mại. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề: 4
  12. Tái cơ cấu bộ máy quản lý ngân hàng thương mại bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát; tái cơ cấu bộ máy điều hành ngân hàng thương mại bao gồm: Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát, Kiểm toán nội bộ. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp. 4. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các bảng phụ lục, luận văn gồm ba phần chính như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM Chương 2: Thực trạng pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM ở Việt Nam. 5
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CƠ CẤU QUẢN TRỊ NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm quản trị nội bộ ngân hàng thương mại và tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Định nghĩa ngân hàng thương mại Khi nền sản xuất hàng hóa xuất hiện thì tiền tệ và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Bản thân sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ cũng tạo tiền đề và đòi hỏi phải xuất hiện ngân hàng, tức là đòi hỏi phải có một hình thức tổ chức và bộ máy thích hợp đảm nhiệm lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Như vậy, sự ra đời của hình thức kinh doanh tiền tệ dưới dạng “ngân hàng” là sự đòi hỏi tất yếu khách quan của kinh tế - xã hội. Ở nhiều quốc gia trên thế giới có rất nhiều dạng ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, Nhưng sự ra đời của mô hình NHTM đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong các định chế tài chính của mỗi quốc gia cũng như đối với nền kinh tế của quốc gia đó. Và NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, và ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì NHTM tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng. Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM. Ở Mỹ, NHTM được hiểu là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.[33] Còn tại Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: 6
  14. "Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính". Hay ở Ấn Độ, NHTM được coi là các cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 và Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ quy định về Tổ chức và hoạt động của NHTM đã đưa ra khái niệm về ngân hàng và NHTM khá thống nhất với pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Theo Khoản 1, Điều 6 “Giải thích từ ngữ”, Luật NHNN năm 2010 ghi nhận: “1.Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. Và tại Khoản 2,3, Điều 4 “Giải thích từ ngữ”, Luật các TCTD năm 2010 thì quy định: “2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. 3. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Còn tại Khoản 1, Điều 5 “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 59/2009/NĐ- CP ngày 16-7-2009 của Chính phủ quy định về Tổ chức và hoạt động của NHTM cũng ghi nhận cụ thể: “1. Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.” Theo các quy định trên, có thể hiểu NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với 7
  15. trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán với mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào thực hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước [22]. Và NHTM gồm có NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần nhà nước và nhân dân, NHTM có 100% vốn nước ngoài và NHTM liên doanh. 1.1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại Từ các khái niệm nêu trên, có thể thấy NHTM có những đặc điểm chính như sau: - NHTM là trung gian tài chính: Thứ nhất, đặc điểm về trung gian tài chính được thể hiện ở chỗ NHTM là trung gian giữa cung và cầu về vốn tín dụng, hay còn được hiểu là trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền thông qua hoạt động thường xuyên, chủ yếu là nhận tiền gửi và có trách nhiệm hoàn trả, sử dụng tiền gửi này để cấp tín dụng. Với chức năng là trung gian tín dụng, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay, hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận tiền gửi, lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: Người gửi tiền và người đi vay Và cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho NHTM. Thứ hai, NHTM là trung gian giữa Ngân hàng trung ương và nền kinh tế. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng trung ương ở các quốc gia là thực hiện chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ như tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, lãi suất, để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và bắt buộc NHTM phải chấp hành. Sự hạn chế về nguồn vốn buộc các NHTM phải thận trọng hơn trong việc đầu tư, hướng nguồn vốn vào các lĩnh vực có hiệu quả. Điều này vừa có tác động kiềm chế lạm phát, vừa bảo đảm an toàn cho các NHTM [49]. - NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. NHTM cũng giống như các doanh nghiệp khác ở chu trình sản xuất và 8
  16. lưu thông hàng hóa. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ hàng hóa mà NHTM kinh doanh là quyền sử dụng các khoản tiền tệ và các dịch vụ Ngân hàng khác. NHTM đi vay từ những người có vốn nhàn rỗi, phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn toàn bộ số vốn huy động được này với một khoản lợi tức nhất định. NHTM lại dùng chính số vốn huy động được này để cấp tín dụng cho người có nhu cầu với cam kết trả tiền và lãi suất. Quá trình đi vay để cho vay này thực chất là tạm thời chuyển nhượng quyền sở hữu. Lãi suất mà người đi vay trả cho NHTM cũng chính là giá cả quyền sở hữu các khoản tiền tệ và cũng là lợi nhuận mà các NHTM hướng tới. Đồng thời với đặc điểm kinh doanh tiền tệ thì đối với vai trò là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ngân hàng, NHTM đóng vai trò như là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. - NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt NHTM với các ngân hàng khác như ngân hàng chính sách và ngân hàng đầu tư. Và mục tiêu lợi nhuận với chức năng tạo tiền được coi là yếu tố quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và 9
  17. phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Mục tiêu lợi nhuận và chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở là trung gian thanh toán và dịch vụ ngân hàng. Thông qua đặc điểm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy, ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. Tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các hoạt động tín dụng chính sách của các NHTM nhà nước đang chuyển dần sang các ngân hàng chính sách, nhờ đó những ngân hàng này đã nâng cao được lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh và đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại Quản trị nội bộ NHTM cũng giống như quản trị nội bộ của một doanh nghiệp và một công ty. Tuy nhiên, bên cạnh đó quản trị nội bộ NHTM có những đặc biệt hơn so với quản trị nội bộ của doanh nghiệp. Hiện nay, quan niệm và nội dung của quản trị công ty ở các quốc gia khác nhau có những nét đặc trưng riêng. Điều này xuất phát từ nguồn gốc thể chế luật pháp, đặc tính quốc gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính tại mỗi nước từ đó ảnh hưởng đến quyền của cổ đông, quyền của chủ nợ, và thực thi quyền tư hữu. Cuốn “Các nguyên tắc quản trị công ty” xuất bản năm 2004 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm quản trị công ty như sau: 10 i
  18. “Quản trị công ty là một loạt mối quan hệ giữa Ban Giám đốc (BGĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT), các cổ đông và các bên có liên quan khác trong một doanh nghiệp. Quản trị công ty còn là một cơ chế để thông qua đó xác định các mục tiêu của doanh nghiệp, phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và theo dõi kết quả thực hiện”. Quản trị công ty và quản lý công ty là hai khái niệm khác biệt. Nếu như quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và các quy trình của công ty nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và giải trình thì quản lý công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp [51]. Như vậy, quản trị công ty được đặt ở một tầm cao hơn nhằm bảo đảm rằng công ty sẽ được quản lý một cách hiệu quả và phục vụ lợi ích của các cổ đông. Một cấu trúc quản trị doanh nghiệp hoàn chỉnh và hiệu quả là cấu trúc quản trị bao gồm đầy đủ các cấu phần: Chủ sở hữu, HĐQT, các Ủy ban giúp việc cho HĐQT, Ban điều hành cấp cao, cấp trung và các nhân viên tác nghiệp trực tiếp. Bên cạnh đó, một cấu trúc quản trị doanh nghiệp còn đòi hỏi phải chứa đựng những yếu tố vô hình như sự bảo vệ quyền và lợi ích của các cổ đông, của người gửi tiền đó là tính minh bạch trong việc cung cấp các thông tin, báo cáo; tính tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế; văn hóa tổ chức lành mạnh và những chuẩn mực đạo đức [40]. Sơ đồ 1: Cấu trúc quản trị doanh nghiệp hiện đại Nguồn: The Essential Handbook of Internal Auditing 11
  19. Bên cạnh các cấu phần đầy đủ và hoàn thiện như trên, cơ cấu quản trị doanh nghiệp hiệu quả cần phải đảm bảo xây dựng được bốn giá trị cốt lõi [33]: Tính công bằng: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp phải bảo vệ quyền lợi của các cổ đông và đảm bảo đối xử công bằng với tất cả các cổ đông kể cả cổ đông thiểu số và các cổ đông nước ngoài. Tất cả các cổ đông phải có cơ hội được bồi thường thỏa đáng khi quền của họ bị vi phạm. Tất cả các cổ đông cùng một hạng cần phải được đối xử công bằng. Tính trách nhiệm: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần công nhận quyền của các bên liên quan được thành lập theo pháp luật, và khuyến khích các hoạt động hợp tác giữa các chi nhánh/công ty con trong tổng công ty và giữa các cổ đông trong việc tạo ra tài sản, việc làm tính bền vững của các bộ phận/chi nhánh trong tổng công ty/tập đoàn. Tính minh bạch: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần đảm bảo việc công khai kịp thời và minh bạch các thông tin liên quan đến (i) kết quả hoạt động và tài chính của công ty trên báo cáo tài chính, (ii) các mục tiêu hoạt động của công ty, (iii) sở hữu của các cổ đông chính, (iv) chính sách lương, thưởng cho HĐQT và các nhà điều hành chủ chốt, (v) giao dịch với các bên liên quan, (vi) các yếu tố có thể dẫn tới rủi ro, (vii) các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người lao động, (viii) các chính sách và cơ cấu quản trị. Trách nhiệm giải trình của HĐQT: Khuôn khổ quản trị doanh nghiệp cần thiết lập cơ chế trách nhiệm của HĐQT trước cổ đông và công ty. Khi được lập ra nhằm đại diện cho cổ đông thì hai nghĩa vụ cơ bản của HĐQT là nghĩa vụ cẩn trọng và nghĩa vụ trung thành cần phải được tuân thủ [40]. Thông qua khái niệm trên về quản trị công ty, có thể hiểu quản trị nội bộ của NHTM như sau: “Quản trị nội bộ NHTM là một loạt các mối quan hệ giữa Ban Giám đốc (BGĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT), Hội đồng thành viên, các cổ đông, thành viên và các bên có liên quan khác trong một ngân hàng. Quản trị ngân hàng còn là một cơ chế, quy trình, công cụ để 12
  20. thông qua đó xác định các mục tiêu của ngân hàng, phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và theo dõi kết quả thực hiện”. Như vậy, có thể thấy hoạt động quản trị nội bộ NHTM có những đặc điểm sau: Một là, quản trị nội bộ NHTM được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu ngân hàng. Ngân hàng là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông ) nhưng để tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban Giám đốc, sự giám sát của Ban kiểm soát (BKS) và sự đóng góp của người lao động, những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như các cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Hai là, quản trị nội bộ NHTM xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ đông, HĐQT, Ban Điều hành, BKS và những người liên quan khác của ngân hàng như người lao động, nhà cung cấp. Đồng thời, quản trị nội bộ NHTM cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không minh bạch. 1.1.3. Khái niệm tái cơ cấu quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh về khái niệm tái cơ cấu NHTM nói chung và tái cơ cấu quản trị nội bộ của NHTM nói riêng. Trong thực tế, thuật ngữ “Tái cấu trúc” hay “tái cơ cấu” mới chỉ xuất hiện trong những năm trở lại đây. Theo từ điển Oxford: “tái cơ cấu là việc tổ chức lại một cái gì đó như một hệ thống hoặc một công ty theo một cách mới hẳn và khác 13
  21. hẳn”. Theo từ điển Cambridge: “Tái cấu trúc là tổ chức một công ty, một công việc kinh doanh hoặc một hệ thống để nó vận hành hiệu quả hơn”. Hoặc theo từ điển Robert của Pháp: “Tái cơ cấu là mang lại một cấu trúc mới, một cách tổ chức mới” [18]. Xuất phát từ các quan điểm về tái cơ cấu nói trên, có thể định nghĩa tái cơ cấu (restructuring) chính là quá trình tổ chức, sắp xếp lại NHTM nhằm tạo ra “trạng thái” tốt hơn cho NHTM để thực hiện những mục tiêu đề ra. Nói một cách đầy đủ hơn, có thể hiểu khái niệm tái cơ cấu NHTM nói chung như sau: “Tái cơ cấu ngân hàng thương mại là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của ngân hàng, bằng cách xây dựng lại sơ đồ cơ cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới, thay đổi tư duy quản lý, tái cấu trúc lại quá trình kinh doanh, trên cơ sở đó định hình mô hình và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng kinh doanh của doanh nghiệp”. Trong hệ thống NHTM việc tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM là một trong những vấn đề trọng tâm hiện nay. Và xuất phát từ khái niệm tái cơ cấu ngân hàng nói chung và quan điểm của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu hệ thống NHTM, có thể định nghĩa “tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM” như sau: “Tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM là quá trình sắp xếp, tổ chức lại toàn bộ mô hình tổ chức, quản trị điều hành trong nội bộ các ngân hàng, từ đó giảm thiểu tối đa nguy cơ rủi ro trong hoạt động của từng ngân hàng đơn lẻ nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung, đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh kinh tế hiện nay và đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng”[14]. Quá trình tái cơ cấu quản trị nội bộ NHTM cũng như việc tái cơ cấu hệ thống NHTM được thực hiện theo lộ trình và những giải pháp cụ thể do NHNN và các cơ quan khác có thẩm quyền quyết định thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định chi tiết từng giai đoạn, từng nội dung tái cơ cấu, phù hợp 14