Luận văn Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam

pdf 101 trang vuhoa 25/08/2022 15061
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_su_dung_lao_dong_nuoc_ngoai_tai_viet_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam

  1. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 3 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI 7 VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.1. LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI - MỘT LOẠI LAO ĐỘNG CÓ TÍNH ĐẶC THÙ 7 1.1.1. Khái niệm yếu tố nước ngoài trong pháp luật lao động 7 1.1.2. Phân loại lao động nước ngoài 10 1.2. PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 12 1.2.1. Sự cần thiết phải có quy định riêng đối với lao động nước ngoài 12 tại Việt Nam 1.2.2. Nguyên tắc về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam 14 1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người lao động nước ngoài tại Việt Nam 16 1.2.4. Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật về sử dụng lao động 22 nước ngoài tại Việt Nam 1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC SỬ DỤNG LAO 33 ĐỘNG NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trong việc sử dụng lao động 33 nước ngoài 1.3.2. Những bài học cho Việt Nam 46 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO 49 ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC 49 NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM 2.1.1. Về những đối tượng được phép sử dụng lao động nước ngoài 49 2.1.2 Về các hình thức vào Việt Nam làm việc của lao động nước ngoài 52 2.1.3. Về điều kiện đối với người nước ngoài khi làm việc ở Việt Nam 56 2.1.4. Về trình tự, thủ tục tuyển người nước ngoài làm việc tại Việt Nam 59 2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC 61 1
  2. NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.2.1. Quản lý lao động nước ngoài trước hết bằng "công cụ" Giấy 61 phép lao động 2.2.2. Quản lý những lao động nước ngoài không thuộc diện phải xin 65 Giấy phép lao động 2.2.3. Xử lý vi phạm pháp luật lao động đối với người lao động và chủ 66 sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam 2.2.4. Sự phối hợp quản lý của các cơ quan nhà nước về người lao 67 động nước ngoài tại Việt Nam 2.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG 69 LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.3.1. Ưu điểm 69 2.3.2. Hạn chế 70 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO 81 ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 81 SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1.1. Về mặt khách quan 81 3.1.2. Về mặt chủ quan 83 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 84 VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.2.1. Về các quy định pháp luật 84 3.2.2. Về quá trình tổ chức thực hiện 92 KẾT LUẬN 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hóa. Hội nhập giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp tác cùng có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di chuyển lao động là điều không tránh khỏi. Theo đánh giá của tổ chức di dân quốc tế (IOM), tính đến năm 2005, cả thế giới có khoảng 185 triệu người đang ở ngoài lãnh thổ quốc gia mình, trong đó có 85 triệu người di dân vì mục đích làm việc [48]. Di chuyển lao động không chỉ có ý nghĩa đối với người dân (cần việc làm và tiền lương) mà còn có ý nghĩa đối với quá trình xây dựng chính sách lao động của mỗi quốc gia. Xuất hay nhập khẩu lao động tùy thuộc tình hình kinh tế xã hội và kế hoạch phát triển của mỗi nước. Người nước ngoài đến Việt Nam làm việc không phải là điều mới mẻ và đã có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh đối tượng này. Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994 đã có những quy định riêng cho một số loại lao động đặc thù, trong đó có lao động nước ngoài tại Việt Nam. Hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động là những nghị định, thông tư được sửa đổi, bổ sung và thay thế nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và thực trạng lao động của Việt Nam luôn thay đổi, đặc biệt việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 khiến Việt Nam phải chịu sự ràng buộc với những cam kết của mình. Một tất yếu xảy ra khi chúng ta chưa chuẩn bị tốt cho cuộc hội nhập quốc tế là các văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề phát sinh sau hội nhập. Một khối lượng lớn lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc dưới nhiều hình thức 3
  4. nhưng các văn bản pháp luật hiện hành chưa bao quát hết những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi. Chính vì vậy, pháp luật lao động về người lao động nước ngoài tại Việt Nam được sửa đổi, bổ sung và thay thế nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất cập, việc thực hiện các quy định đó lại chưa nghiêm túc trên phạm vi cả nước, từ người lao động, chủ sử dụng lao động đến những cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Từ tình hình trên tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài "Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài ở nước ta. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu gồm hai mặt là: - Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam. - Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết, những ý kiến đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện chế độ pháp lý về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam, cũng như áp dụng có hiệu quả chúng trong thực tiễn đời sống. 3. Phạm vi nghiên cứu - Khái quát chung về lao động nước ngoài và thực trạng lao động nước ngoài tại Việt Nam. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng. - Ngoài ra, luận văn còn nêu lên những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam. 4
  5. 4. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam là một đề tài khá mới mẻ trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Đã có một số bài báo và một vài công trình nghiên cứu về vấn đề này, như: - Luận án Phó tiến sĩ khoa học luật học (1996), "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước ngoài ở nước ta hiện nay", của Bùi Quảng Bạ. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005), "Bảo hiểm xã hội đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam", của Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005), "Vấn đề di chuyển thể nhân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", của Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. - Khóa luận tốt nghiệp (2010), "Pháp luật về tuyển dụng, quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam thực trạng và một số kiến nghị", của Nguyễn Tú Anh - sinh viên lớp K51 - Chất lượng cao, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, còn một số bài báo cũng đề cập đến lao động nước ngoài tại Việt Nam như: "Không quản được lao động nước ngoài", của Phạm Hồ - Nam Dương đăng trên Báo Người lao động số ra ngày 02/07/2009 hay "Lao động nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập" của Cao Nhất Linh đăng trên Báo Lao động và Xã hội số ra từ ngày 01 đến 15/6/2007, v.v Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ khía cạnh xã hội mà chưa quan tâm nhiều đến khía cạnh pháp lý hoặc chỉ tập trung một vấn đề nhỏ về lao động nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, có thể nói rằng, đề tài "Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam" là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, tương đối toàn diện việc sử dụng 5
  6. lao động nước ngoài dưới góc độ pháp luật. Trước thực tiễn lao động nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu có hệ thống vấn đề này mang tính thời sự cao. Với kết quả đạt được, luận văn hy vọng là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm công tác nghiên cứu, học tập, thực thi pháp luật, những người muốn tìm hiểu về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và mong muốn được góp phần hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả lấy phép biện chứng của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, khảo sát, thu thập, được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực lao động liên quan đến người nước ngoài là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về lao động nước ngoài và pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam. 6
  7. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.1. LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI - MỘT LOẠI LAO ĐỘNG CÓ TÍNH ĐẶC THÙ 1.1.1. Khái niệm yếu tố nước ngoài trong pháp luật lao động Cùng với sự phát triển của quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, ngày nay, sự chuyển dịch lao động từ khu vực này sang khu vực khác, đặc biệt, từ nước này sang nước khác, ngày càng gia tăng đáng kể. Việc thu hút lao động nước ngoài vào các ngành kinh tế nước mình cũng như việc gửi lao động nước mình đi làm việc ở nước ngoài ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia, nhất là đối với những nước đang phát triển. Thực tế ở một số nước phát triển trên thế giới cho thấy cùng với việc thu hút lực lượng lao động có tri thức cao, trình độ tay nghề tốt thì họ còn thu hút những lao động thủ công từ các nước đang phát triển nhằm phục vụ các nhu cầu của xã hội. Với nhiều nước đang phát triển, bên cạnh việc thu hút lực lượng lao động có tay nghề cao trong một số lĩnh vực kinh tế, công nghệ theo hướng dẫn trực tiếp của người nước ngoài, vấn đề xuất khẩu lao động được đặc biệt coi trọng. Bởi lẽ xuất khẩu lao động tạo cơ hội cho người lao động có việc làm, nâng cao trình độ tay nghề, tiếp cận với công nghệ tiên tiến, tạo cơ hội cho họ có thu nhập, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Hơn nữa, xuất khẩu lao động còn mang lại nguồn lợi đáng kể cho nền kinh tế các nước này. "Theo thống kê của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), khoản thu nhập hàng năm của người lao động đi làm việc ở nước ngoài đạt tới 65,5 tỷ đô la. Trong khi đó, tổng các khoản tiền viện trợ phát triển chính thức (ODA) trên thế giới mỗi năm chỉ đạt mức 51 tỷ đô la" [42]. 7
  8. Xu hướng mở rộng quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài của thế giới tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, xuất khẩu lao động là lĩnh vực được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đây là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước trên thế giới. Mặt khác, sự mở cửa nền kinh tế trong tiến trình hội nhập quốc tế đã và đang ngày càng thu hút đông đảo lực lượng lao động có trình độ cao của nước ngoài vào Việt Nam. Cùng với luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài ("839 dự án FDI với tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm là 21,48 tỉ USD". "Vốn đầu tư thực hiện ước đạt 10 tỉ USD" [45]), hàng ngàn lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Việc đưa người nước mình đi làm việc ở nước ngoài cũng như việc nhận người nước ngoài đến làm việc tại nước mình được pháp luật các nước điều chỉnh. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) gọi những lao động này là lao động di trú và đã có công ước về vấn đề này. Đó là Công ước về Di trú vì việc làm năm 1939, Công ước về Di trú vì việc làm (sửa đổi) năm 1951 có hiệu lực từ ngày 22/01/1952 (hay còn được gọi là Công ước 97) và Công ước về người di trú trong hoàn cảnh bị lạm dụng và về việc thúc đầy cơ hội và sự đối xử bình đẳng với người lao động di trú năm 1973 có hiệu lực từ ngày 09/12/1973 (còn được gọi là Công ước 143). Theo Công ước 97, thuật ngữ “người di trú vì việc làm” được hiểu là một người di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác để tìm kiếm việc làm, bao gồm bất kỳ người nào được tuyển dụng một cách lâu dài như là một người di trú vì việc làm. Công ước này không áp dụng với những người lao 8
  9. động qua lại ở các vùng biên giới; những nghệ sỹ và người có chuyên môn hành nghề tự do đến làm việc ở nước khác trong thời gian ngắn; các thủy thủ. Theo Công ước 143, thuật ngữ “người lao động di trú” có nghĩa là người di cư hoặc đã di cư từ một nước này sang một nước khác vì mục đích được tuyển dụng lao động chứ không phải tự lực lao động, và bao gồm cả những người được chính thức tuyển làm lao động di trú. Hai Công ước này điều chỉnh người lao động nước này đi làm việc ở một nước khác. Pháp luật lao động của Việt Nam không gộp chung trong một khái niệm “người lao động di trú” mà tách riêng quy định về người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và về người nước ngoài làm việc ở Việt Nam. Về khái niệm quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, theo Giáo trình tư pháp quốc tế năm 2003 - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội thì quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài là quan hệ phát sinh theo hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động khi những người này có quốc tịch khác nhau. Như vậy, các nhân tố làm phát sinh quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài bao gồm: - Người Việt Nam được người nước ngoài sử dụng lao động ở nước ngoài; - Người Việt Nam được cử đi công tác theo hợp đồng lao động ở nước ngoài theo thời hạn; - Người nước ngoài lao động tại Việt Nam. Theo quan điểm của chúng tôi, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài là quan hệ phát sinh giữa người sử dụng lao động và người lao động khi những người này có quốc tịch khác nhau hoặc có cùng quốc tịch nhưng làm việc trên lãnh thổ của một nước khác theo hình thức hợp đồng lao động hoặc theo các hình thức khác. Và các nhân tố làm phát sinh quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài gồm: 9
  10. - Người Việt Nam được tổ chức, cá nhân Việt Nam sử dụng lao động ở nước ngoài; - Người Việt Nam được tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng lao động ở nước ngoài; - Người Việt Nam được tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng lao động ở Việt Nam; - Người nước ngoài được tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng lao động ở Việt Nam; - Người nước ngoài được tổ chức, cá nhân Việt Nam sử dụng lao động ở Việt Nam; - Người nước ngoài được tổ chức, cá nhân Việt Nam sử dụng lao động ở nước ngoài. Như vậy, yếu tố nước ngoài trong pháp luật lao động thể hiện ở quốc tịch của người lao động khác với "quốc tịch” của người sử dụng lao động hoặc quốc gia mà họ đang làm việc. 1.1.2. Phân loại lao động nước ngoài Để phân loại lao động nước ngoài, chúng ta có thể dựa vào các tiêu chí sau đây: - Căn cứ vào hình thức Giấy phép lao động được cấp bởi quốc gia nơi làm việc, lao động nước ngoài gồm: + Những đối tượng cần phải xin cấp Giấy phép lao động; + Những đối tượng không cần xin cấp Giấy phép lao động. Dựa vào cách phân loại này, các quốc gia có thể quản lý số lượng và chất lượng của lao động nước ngoài cũng như thời gian họ sống và làm việc tại nước mình. Thông qua Giấy phép lao động, các nhà quản lý cũng nắm 10
  11. được các thông tin cá nhân của từng người lao động nước ngoài. Dựa vào việc cấp, gia hạn hay không cấp, không gia hạn Giấy phép lao động, các nhà quản lý có thể cho phép hay không cho phép họ được tiếp tục làm việc tại nước mình. - Căn cứ hình thức vào làm việc, lao động nước ngoài gồm: + Người làm việc theo hợp đồng lao động; + Người làm việc theo các hình thức di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp có hiện diện thương mại tại nước này; + Người thực hiện các hợp đồng về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, v.v; + Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng; + Người chào bán dịch vụ; + Người đại diện cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài được phép hoạt động tại nước này; + Và các hình thức khác. Dựa vào cách phân loại này, nhà quản lý có thể nắm được mục đích đến nước mình của những người nước ngoài này, để từ đó có những chính sách đối xử cho phù hợp. Mặt khác, người lao động nước ngoài đến kéo theo các hoạt động như chào bán dịch vụ, cung cấp dịch vụ theo hợp đồng, thực hiện hợp đồng kinh tế, v.v ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân nước mình cũng như nền kinh tế nước mình. Tùy từng giai đoạn và định hướng phát triển kinh tế của nước mình, các nhà quản lý sẽ có chiến lược khuyến khích hay hạn chế đối với từng đối tượng. - Căn cứ vào trình độ chuyên môn, lao động nước ngoài gồm: + Những đối tượng có trình độ chuyên môn tay nghề cao (như kỹ sư, cử nhân, thạc sĩ, v.v ); 11
  12. + Những đối tượng là lao động phổ thông (như người giúp việc gia đình, công nhân, v.v ). Trình độ của lao động nước ngoài phản ảnh chất lượng lao động của họ. Sử dụng họ vào những công việc gì không chỉ là yêu cầu của nhà tuyển dụng mà còn là trách nhiệm của nhà quản lý. Có thể nói, nhà quản lý lao động gián tiếp sử dụng lao động nước ngoài thông qua chính sách về việc làm. Họ khuyến khích lao động trình độ cao, hạn chế lao động phổ thông hay ngược lại là tùy thuộc vào yêu cầu của sự phát triển kinh tế và phải cân đối với lao động trong nước. Đấy là lý do vì sao hiện nay nhiều nước có nền kinh tế phát triển như Séc, Đức, Đài Loan, Nhật sử dụng nhiều lao động phổ thông đến từ các nước kém phát triển và đang phát triển và nhiều nước có nền kinh tế chưa phát triển như Việt Nam lại sử dụng những lao động có trình độ, chuyên môn cao mà lao động trong nước chưa đáp ứng được. 1.2. PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.2.1. Sự cần thiết phải có quy định riêng đối với lao động nước ngoài tại Việt Nam Với hầu hết các quốc gia, sử dụng lao động nước ngoài là cần thiết, tuy nhiên số lượng và trình độ của lao động nước ngoài tại mỗi nước tùy thuộc tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Với những nước đang phát triển, việc sử dụng lao động nước ngoài có những mặt lợi và cũng có những mặt hại. Nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đang đối mặt với sự dịch chuyển lao động lớn, từ ngành nông nghiệp sang chế biến và công nghiệp, từ ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao tạo ra dư thừa lao động ở một số ngành nhưng cũng thiếu ở một số ngành khác, nhất là ngành công nghệ cao. Việc sử dụng lao động nước ngoài có trình độ cao sẽ lấp đầy những thiếu hụt đó, giúp cho nền kinh tế đạt được những mục tiêu đặt ra. 12
  13. Lao động nước ngoài có trình độ cao vào Việt Nam làm việc sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường lao động nước ta. Những lao động thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa và kỹ thuật thấp bị loại trừ dần hoặc họ phải vươn lên, tự nâng cao trình độ, chuyên môn của mình. Chất lượng lao động trong nước từ đó sẽ được nâng cao trên thực tế. Việc cho phép sử dụng cả lao động trong nước và lao động nước ngoài sẽ khiến các doanh nghiệp, tổ chức chủ động hơn trong việc bố trí nhân lực phù hợp với đặc thù công việc. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài lại càng mong muốn sử dụng những người có tác phong làm việc giống như họ mà phải mất một thời gian tương đối dài, lao động trong nước mới đáp ứng được. Tuy nhiên, việc sử dụng lao động nước ngoài cũng làm tăng gánh nặng việc làm và thất nghiệp ở nước ta. Lao động nước ngoài chất lượng cao vào Việt Nam làm việc nhưng nếu không có kế hoạch thay thế bằng người Việt Nam thì sẽ không còn cơ hội cho lao động Việt Nam chất lượng cao. Lao động nước ngoài chất lượng thấp vào Việt Nam sẽ tạo gánh nặng cho nền kinh tế và làm dư thừa lao động phổ thông trong nước. Dù muốn, dù không, lao động nước ngoài vẫn hiện diện ở Việt Nam và với số lượng ngày càng tăng. Pháp luật lao động phải có những quy định cụ thể để quản lý họ nhằm mục tiêu khuyến khích sự phát triển nền kinh tế, đồng thời vừa phải đảm bảo an toàn cho thị trường lao động trong nước. Lao động nước ngoài là một lao động có tính đặc thù, khác hẳn với lao động trong nước cả về điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ. Việc quản lý những người lao động nước ngoài không thể áp dụng nguyên các quy phạm pháp luật về quản lý lao động trong nước. Mặt khác, sử dụng lao động của một quốc gia khác còn ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, thương mại và văn hóa giữa các nước với nhau. Do vậy, có thể nói việc sử dụng lao động nước ngoài là một vấn đề cần thiết 13
  14. nhưng rất nhạy cảm. Quốc gia có sử dụng lao động nước ngoài cần đối xử bình đẳng như những người lao động là công dân của mình nhưng cũng cần có những biện pháp cứng rắn để bảo vệ công dân mình. Xét trên bình diện quốc tế, các nước có sử dụng lao động nước ngoài đều có các văn bản pháp luật cụ thể quy định chi tiết việc tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài. Có nước xây dựng một luật riêng, cũng có nước quy định thành một mục trong các văn bản pháp luật về lao động. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 12, Phần II Công ước 143 thì các quốc gia thành viên (trong đó có Việt Nam) phải ban hành luật và triển khai các chương trình giáo dục nhằm đảm bảo chấp nhận và thực hiện chính sách bình đẳng về cơ hội và đối xử đối với người lao động di trú. Với những lý do xét trên góc độ kinh tế, xã hội và pháp lý như trên, chúng ta cần phải xây dựng những quy định pháp luật riêng đối với lao động nước ngoài. 1.2.2. Nguyên tắc về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội và lao động, việc làm của nước ta, việc sử dụng lao động nước ngoài phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Thứ nhất, nhà nước thống nhất quản lý, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng cơ quan, tổ chức. Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề lao động và việc làm, do vậy, việc sử dụng lao động nước ngoài đương nhiên cũng nằm trong sự quản lý của nhà nước. Các cơ quan nhà nước, tùy theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình, quản lý lao động nước ngoài ở từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sử dụng lao động lao động nước ngoài, bao gồm: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân các cấp, ). 14
  15. Thứ hai, sử dụng lao động nước ngoài phải đảm bảo cơ hội việc làm cho lao động trong nước. Thực trạng việc làm và lao động nước ta hiện nay cũng như xu hướng trong thời gian tới cho thấy, việc sử dụng lao động nước ngoài là một nhu cầu tất yếu của Việt Nam. Tuy nhiên, sử dụng lao động nước ngoài chỉ nhằm bù đắp thiếu hụt lao động trong nước, không khuyến khích những trường hợp lao động trong nước đáp ứng được. Đối với một số ngành nghề, lĩnh vực mà chúng ta cam kết trong Biểu cam kết dịch vụ với WTO, chúng ta vẫn tạo điều kiện để họ vào Việt Nam làm việc nhưng phải đảm bảo các nghĩa vụ cần thiết đối với nhà nước Việt Nam như đóng thuế, khai báo xuất nhập cảnh, v.v Bên cạnh đó, chúng ta phải có kế hoạch, chương trình đào tạo người lao động Việt Nam thay thế. Được làm việc với các chuyên gia nước ngoài, lao động Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với trình độ khoa học, kỹ thuật và quản lý cao, đồng thời học được phong cách làm việc chuyên nghiệp và nghiêm túc. Đây cũng được coi là cơ hội đối với người Việt Nam để nâng cao chất lượng lao động của mình. Sử dụng lao động nước ngoài trong một thời hạn nhất định và có kế hoạch đào tạo người Việt Nam thay thế là một yêu cầu bắt buộc. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có kế hoạch và thực hiện rất tốt việc đào tạo nhân viên là người Việt Nam với các chương trình đào tạo ở nước ngoài. Nếu không sử dụng họ đúng vị trí, chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ "chảy máu chất xám" và "chảy máu lao động trình độ cao". Thứ ba, sử dụng lao động nước ngoài không được làm ảnh hưởng xấu đến vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã hội và văn hóa trong nước. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng. Người nước ngoài đến Việt Nam có thể với nhiều mục đích. Nếu chúng ta không cẩn trọng, những người có mục đích chính trị rất dễ lọt vào phá hoại thông qua con đường du lịch, hoặc lao động. Với những người đến Việt Nam làm việc vì mục đích lao động 15
  16. đơn thuần, chúng ta sử dụng sức lao động của họ phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước, do vậy, tuyệt đối không để họ có những hành động ảnh hưởng không tốt tới nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra. Do vậy, chúng ta cũng cần hạn chế tiếp nhận người nước ngoài vào làm một số công việc hay nghề nghiệp nhất định vì lợi ích quốc gia (Ví dụ: công an, quân đội, nhân viên tòa án, viện kiểm sát, v.v). Không những vậy, họ là những người đến từ những nền văn hóa khác nhau, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến người Việt Nam. Chúng ta cũng cần sàng lọc những gì nên học và những gì nên loại bỏ. Thứ tư, sử dụng lao động nước ngoài không để mang dịch bệnh truyền nhiễm, làm tổn hại sức khỏe nhân dân. Đây là nguyên tắc mà pháp luật nước nào cũng quy định, thậm chí rất nghiêm ngặt. Người nước ngoài khi muốn đến làm việc tại Việt Nam phải được kiểm tra sức khỏe cẩn thận và phải có xác nhận đủ điều kiện làm việc của các cơ quan y tế có thẩm quyền. Thứ năm, sử dụng lao động nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật các nước và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Xuất khẩu hay nhập khẩu lao động là một phần của hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động. Do vậy, việc sử dụng lao động nước ngoài phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp với pháp luật của quốc gia mà người nước ngoài đó mang quốc tịch cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. 1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người lao động nước ngoài tại Việt Nam Bộ luật Lao động Việt Nam (điều 131 và Khoản 2 Điều 133) quy định người lao động nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật lao động Việt Nam và được pháp luật lao động Việt Nam bảo vệ; được hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. 16
  17. Theo Công ước 97 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà Việt Nam đã là thành viên từ năm 1992 thì mỗi quốc gia thành viên ILO phải cam kết áp dụng với mọi người di trú hợp pháp trong lãnh thổ nước mình, không có sự phân biệt đối xử nào về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc giới tính, một sự đối xử ở mức không kém hơn so với công dân của nước mình trong các vấn đề sau đây: - Trong chừng mực mà các vấn đề như sau được điều chỉnh bởi pháp luật hoặc quy định, hoặc được quản lý bởi các nhà chức trách hành chính: + Thù lao, bao gồm trợ cấp gia đình ở những nơi mà những trợ cấp này là một phần của thù lao, thời giờ lao động, thỏa thuận làm thêm, các ngày lễ được nghỉ hưởng lương, những hạn chế về công việc gia đình, tuổi tối thiểu được lao động, thời gian học nghề và việc huấn luyện nghề nghiệp, công việc của phụ nữ và công việc của những người trẻ tuổi; + Tư cách thành viên của các tổ chức công đoàn và việc hưởng các lợi ích của thỏa ước lao động tập thể; + Nơi ở; - An sinh xã hội (tức những quy định pháp luật liên quan đến các quyền lợi khi bị tai nạn nghề nghiêp, ốm đau, sinh đẻ, tàn tật, tuổi già, chết, thất nghiệp và trách nhiệm gia đình, và bất kỳ những việc ngẫu nhiên nào khác mà theo pháp luật hoặc quy chế của quốc gia sẽ được chi trả bởi hệ thống an sinh xã hội), ngoại trừ những trường hợp sau: + Nếu có thể có những thu xếp thích đáng nhằm duy trì các quyền có được và các quyền đang tìm kiếm; 17
  18. + Luật và các quy tắc quốc gia của các nước nhập cư có thể bao gồm những thu xếp liên quan đến các khoản trợ cấp hoặc sự phân chia các khoản trợ cấp mà được chi trả hoàn toàn không phụ thuộc vào các quỹ công cộng và liên quan đến những khoản trợ cấp trả cho những người mà không hoàn thành những điều kiện đóng góp được quy định để được nhận một khoản lương hưu bình thường; + Các khoản thuế, lệ phí hoặc đóng góp về việc làm mà người lao động được tuyển dụng phải trả; và + Các thủ tục tố tụng liên quan đến những vấn đề được nêu trong Công ước này. Hiện nay, quyền và nghĩa vụ của người lao động nước ngoài tại Việt Nam nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật Việt Nam như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, v.v. Theo các quy định pháp luật hiện hành, người lao động nước ngoài tại Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: 1.2.3.1. Về quyền của người lao động nước ngoài tại Việt Nam Một là, người nước ngoài có quyền được cung cấp đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình. Theo Nghị định 34/2008/NĐ-CP, người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ các các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Người nước ngoài phải nghiên cứu đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam do người sử dụng lao động cung cấp, đồng thời phải chuẩn bị các giấy tờ cần thiết và thực hiện theo đúng quy định. Hai là, người lao động nước ngoài được hưởng tương tự như người lao động Việt Nam các chế độ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi. Họ làm việc không quá 8 giờ trong một ngày và không quá 48 giờ trong một tuần. 18
  19. Đối với công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thời giờ làm việc được rút xuống 1 giờ đến 2 giờ. Việc làm thêm giờ theo thỏa thuận nhưng không quá 4 giờ/ngày và không quá 200 giờ/năm. Người nước ngoài được nghỉ sáu ngày nghỉ lễ theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, ngày Quốc khánh và Tết dân tộc của quốc gia mà người nước ngoài mang quốc tịch không được pháp luật Việt Nam quy định. Pháp luật của một số nước sử dụng lao động nước ngoài (Ví dụ: Đài Loan) quy định ngoài những ngày nghỉ theo pháp luật lao động nước sở tại, lao động nước ngoài còn được nghỉ thêm một ngày Tết dân tộc và một ngày Quốc khánh của nước họ. Ba là, đối với lao động theo hợp đồng, người nước ngoài được nhận lương thỏa thuận theo hợp đồng nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng. Theo Nghị định số 108/2010/NĐ-CP ngày 29/10/2010, mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động , tùy từng địa bàn, từ 830.000 đồng/tháng đến 1.350.000 đồng/tháng. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp trả cao hơn mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, người lao động nước ngoài còn được hưởng các chi phí đi lại và chi phí lưu trú (theo thỏa thuận với chủ sử dụng) Bốn là, về chế độ bảo hiểm xã hội, người lao động nước ngoài không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng như tự nguyện theo pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Thực tế, chế độ bảo hiểm do hai bên thỏa thuận, có trường hợp người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thương mại hoặc bảo hiểm thân thể cho người lao động, có trường hợp trả luôn vào tiền lương để họ tự lo. Thông thường người lao động nước ngoài tham gia bảo hiểm thương mại về thân thể, tai nạn, y tế do các tổ chức nước ngoài thực hiện. Ngoài ra, nhiều người còn trích phần lương của mình để tham gia các bảo hiểm tuổi già ở nước họ. Việc lao động nước ngoài tham gia các loại hình bảo hiểm ở Việt Nam cũng khó bởi lẽ thời gian họ làm việc ở Việt Nam rất ngắn (thường từ 1 đến 3 năm, một số có gia hạn thêm một thời 19