Luận văn Pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam

pdf 115 trang vuhoa 25/08/2022 3580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_quyen_cua_nguoi_su_dung_dat_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM HƢƠNG THẢO PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM HƢƠNG THẢO PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đồng Ngọc Ba HÀ NỘI - 2015 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Ph¹m H•¬ng Th¶o 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI 6 SỬ DỤNG ĐẤT 1.1. Một số vấn đề về chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở 7 Việt Nam 1.1.1. Khái niệm về sở hữu và chế độ sở hữu đất đai 7 1.1.2. Vấn đề sở hữu đất đai trong lịch sử Việt Nam 9 1.1.3. Đặc điểm của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt 15 Nam hiện nay 1.2. Vấn đề người sử dụng đất và quyền của người sử dụng đất 17 trong chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt Nam 1.2.1. Vấn đề người sử dụng đất trong chế độ sở hữu toàn dân đối 17 với đất đai ở Việt Nam 1.2.2. Khái niệm và đặc điểm quyền của người sử dụng đất trong 23 chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt Nam 1.3. Một số mô hình sở hữu đất đai trên thế giới và kinh nghiệm 26 trong việc ghi nhận quyền cho người sử dụng đất Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI 31 SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về xác lập quyền cho người sử dụng đất 31 2.1.1. Giao đất 31 2.1.2. Cho thuê đất 35 2.1.3. Nhận chuyển quyền sử dụng đất 38 2.1.4. Công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất 39 2.1.5. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận 42 quyền sử dụng đất 4
  5. 2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người sử dụng đất 45 2.2.1. Thực trạng pháp luật về quyền chung của người sử dụng đất 45 2.2.2. Thực trạng pháp luật về quyền của tổ chức trong nước sử 46 dụng đất 2.2.3 Thực trạng pháp luật về quyền của hộ gia đình, cá nhân trong 53 nước sử dụng đất 2.2.4. Quy định về quyền của cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư sử 66 dụng đất 2.2.5. Quy định về quyền của tổ chức nước ngoài có chức năng 69 ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam 2.3. Bất cập của pháp luật hiện hành về quyền của người sử dụng đất 82 2.3.1. Bất cập trong quy định của pháp luật về quyền của người sử 87 dụng đất 2.3.2. Bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về quyền của người 92 sử dụng đất Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ 97 THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM 3.1. Quan điểm hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền sử 97 dụng đất 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người sử dụng đất 100 3.3. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền của người sử 102 dụng đất KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Trải qua hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta ngày càng phát triển hướng đến mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thực hiện công cuộc đổi mới được Đảng xác định là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, với việc xác định lợi ích của người lao động là động lực quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước. Nhằm mục tiêu giải phóng năng lực sản xuất, phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của người lao động, Đảng đã lãnh đạo việc đưa nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xác định khâu quan trọng trong chính sách kinh tế là đổi mới chế độ, chính sách về đất đai. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Luật Đất đai qua các thời kỳ đã không ngừng mở rộng và hoàn thiện các quy định về quyền của người sử dụng đất. Nhà nước đã khẳng định và bảo đảm thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của người sử dụng đất, quy định việc thực hiện giao đất, cho thuê đất cho người sử dụng đất, hoàn thiện quyền của người sử dụng đất, đặc biệt là các quyền chuyển quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất. Nhờ các chính sách và quy định đúng đắn này đã làm cho người sử dụng đất gắn bó hơn với đất đai, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng đất. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực đã vươn lên trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất từng bước được tạo lập được cơ chế hoạt động đưa đất đai 6
  7. trở thành nguồn vốn để phát triển đất nước. Trong các lĩnh vực khác, nhờ sự thay đổi trong chính sách đất đai, đã tạo môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. Trong quá trình phát triển, pháp luật đất đai không ngừng được hoàn thiện theo hướng mở rộng quyền năng cho người sử dụng đất, thiết lập khuôn khổ và cơ chế pháp lý cho người sử dụng đất thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, hạn chế tối đa sự can thiệp của các cơ quan công quyền khi người sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất của mình. Mặc dù đã đạt được những kết quả to lớn, tuy nhiên, Trong thực tế, một số quy định về quyền của người sử dụng đất còn chưa đầy đủ, chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Theo đánh giá của Chính phủ tại Tờ trình số 302/TTr-CP ngày 24/10/2012 thì: Trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhưng lại trao cho người sử dụng đất nhiều quyền, quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt cũng đặt ra nhiều vấn đề mới, trong khi chúng ta còn thiếu kinh nghiệm. Mặt khác, công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để làm rõ cơ sở lý luận còn hạn chế, chưa kịp thời [8, tr. 3]. Theo tác giả, việc hoàn thiện pháp luật về quyền của người sử dụng đất theo hướng giải quyết hài hòa mối quan hệ về sở hữu đất đai và quan hệ sử dụng đất, tạo lập môi trường pháp lý minh bạch cho các giao dịch dân sự, thương mại về đất sẽ tạo điều kiện cho người sử dụng đất phát huy tối đa nguồn lực đất đai. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với quy định về quyền của người sử dụng đất. 7
  8. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của Luật Đất đai về quyền của người sử dụng đất đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, các luật gia và cán bộ thực tiễn, nhưng nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Hiện nay, ở các mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu được công bố như các giáo trình đại học giảng dạy về Luật Đất đai của Trường Đại học luật Hà Nội đã nghiên cứu khái quát các vấn đề về quyền của người sử dụng đất. Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền của người sử dụng đất phải kể đến: Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Quang Tuyến với đề tài "Địa vị pháp lý của người sử dụng đất trong các giao dịch dân sự, thương mại về đất đai"; Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung với đề tài "Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thập với đề tài "Quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân dưới khía cạnh quyền tài sản tư theo quy định của pháp luật Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Doãn Cương với đề tài "Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất" Một số bài báo nghiên cứu ở phạm vi hẹp về quyền của người sử dụng đất đã được công bố như: bài viết của tác giả Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Xuân Trọng, "Bàn về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất"; bài viết của tác giả Nguyễn Minh Thắng, "Không được hạn chế quyền của người sử dụng đất"; bài viết của tác giả Thu Hà, "Khắc phục những bất cập để đảm bảo quyền sử dụng đất cho người dân" Qua nội dung các công trình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề quyền của người sử dụng đất đã được nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ và ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận về quyền của 8
  9. người sử dụng đất vẫn còn một số quan điểm khác nhau, thực tiễn quy định về quyền của người sử dụng đất vẫn còn một số bất cập do vậy vấn đề này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài "Pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam" làm Luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền của người sử dụng đất bao gồm: - Các vấn đề lý luận về sở hữu đất đai, chế độ sở hữu đối với đất đai và quyền của người sử dụng đất; - Quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền cho người sử dụng đất; - Thực trạng pháp luật về quyền của người sử dụng đất là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giá, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam. Từ đó chỉ ra những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền của người sử dụng đất. 3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của Luật Đất Đai năm 2013 về về quyền của người sử dụng đất và thực tiễn thực hiện quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong chính sách đất đai. Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; nghiên cứu thực tiễn công tác thực hiện quyền cho người sử dụng đất để làm căn cứ cho các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả có nghiên cứu, tham 9
  10. khảo các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật liên quan đến phạm vi đề tài; tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố, tổng kết, đánh giá của các cơ quan chuyên môn và ý kiến của các chuyên gia có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam; phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển chế độ sở hữu đất đai, người sử dụng đất và quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam; làm rõ các quy định của Luật Đất đai 2013 về người sử dụng đất và quyền của người sử dụng đất trong mối quan hệ so sánh với pháp luật đất đai trước đây và các văn bản pháp luật khác có liên quan; phân tích thực tiễn thực hiện quyền của người sử dụng đất trong thực tế. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật Đất đai về quyền của người sử dụng đất. Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của tác giả luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Luật Đất đai liên quan đến quyền của người sử dụng đất. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền của người sử dụng đất Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam. 10
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và không thể thay thế trong đời sống con người. Đất đai là môi trường sống và tiến hành các hoạt động sản xuất của cải vật chất để tồn tại và duy trì nòi giống. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, bằng lao động của mình con người đã sử dụng và cải tạo đất, biến đất đai từ tài sản tự nhiên trở thành tài sản của cộng đồng, dân tộc. Luật Đất đai năm 1993 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay. Do tính chất đặc biệt quan trọng của loại tài sản này mà vấn đề sở hữu đối với đất đai có yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chế định quyền của người sử dụng đất là một trong những chế định cơ bản và đặc thù của pháp luật đất đai ở Việt Nam. Chế định quyền của người sử dụng đất được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được ghi nhận và không ngừng củng cố, hoàn thiện kể từ khi Hiến pháp năm 1980 ra đời cho đến nay. Theo đó, toàn bộ đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giữ vai trò đại diện chủ sở hữu thực hiện chức năng quản lý đất đai trong cả nước, người dân trực tiếp sinh sống, lao động, sản xuất và thực hiện các hoạt động khác trên đất được coi là người sử dụng đất và được thực hiện các quyền trên cơ sở quy định của pháp luật. Nghiên cứu chế định quyền của người sử dụng đất không thể không bắt đầu từ việc tìm hiểu chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam. 11
  12. 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TOÀN DÂN ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm về sở hữu và chế độ sở hữu đất đai 1.1.1.1. Khái niệm quan hệ sở hữu Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình xác lập và thực hiện quyền đối với đối tượng sở hữu. Ph. Ăngghen đã khẳng định: "Khoa kinh tế chính tri ̣không nghiên cứ u các vâṭ phẩm , mà nghiên cứu những mối quan hệ giữa người với ngườ i, xét cho cùng là giữa giai cấp với giai cấp, nhưng các quan hê ̣đó bao giơ ̀ cũng gắn với các vật phẩm vàb iểu hiêṇ ra như là những vâṭ phẩm" [20, tr. 615]. Quan hệ sở hữu hình thành và vận động theo các quy luật khách quan, là một trong các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quyết định quan hệ phân phối và quan hệ quản lý. Nó cũng xác lập và vận động trên cơ sở trình độ kinh tế - xã hội, đồng thời phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất trong xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Với tư cách là một trong những quan hệ xã hội nền tảng, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong xã hội, do vậy, từ rất lâu trong lịch sử quan hệ sở hữu đã được thể chế hóa bằng pháp luật. Theo quan điểm của tác giả, về mặt pháp lý, quan hệ sở hữu là các quyền năng pháp lý trong quá trình xác lập và vận động của các quyền năng kinh tế đối với đối tươṇ g sở hữu theo các quy định của pháp luật. Toàn bộ các quy định của pháp luật về quan hệ sở hữu và cơ chế vận hành các quan hệ sở hữu đó hợp thành chế độ pháp lý về sở hữu. 1.1.1.2. Khái niệm chế độ sở hữu đất đai Chế độ pháp lý về sở hữu đất đai là toàn bộ các quy định pháp luật trong việc xác lập và vận động của quan hệ sở hữu đất đai. Chế độ sở hữu đối với đất đai bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu và các vấn đề liên quan đến cơ chế vận hành của quan hệ sở hữu đối với đất đai. 12
  13. Thông thường, chế độ sở hữu đất đai thường được hiểu là các quyền năng sở hữu, các quyền năng này có thể được khái quát hóa dưới dạng quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt (theo pháp luật các nước thuộc hệ thống civil law) hoặc "bó quyền" các quyền tài sản đối với đất đai (theo pháp luật của các nước thuộc hệ thống common law). Quyền sở hữu nói chung và quyền sở hữu đối với đất đai nói riêng có thể được chia nhỏ để trao cho những người không phải chủ sở hữu trên cơ sở thỏa thuận và quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, cả quyền sở hữu của chủ sở hữu và quyền năng của người không phải chủ sở hữu là quyền tài sản đối với đất đai. Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật common law, quyền sở hữu có thể phân chia theo nội dung các quyền năng để trao cho từng chủ thể. Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật common law cũng thừa nhận tính độc lập của người không phải chủ sở hữu thông qua nhận chuyển giao các quyền năng của chủ sở hữu. Quyền của người được chủ sở hữu trao quyền cũng có tính độc lập tương đối và được coi như một quyền tài sản của người không phải chủ sở hữu, trở thành đối tượng được tham gia các giao dịch. Trong mỗi chế độ sở hữu đất đai có thể tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai. Ở hầu hết các nước tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân đối với đất đai. Bên cạnh đó cũng có một số nước chỉ ghi nhận một hình thức sở hữu đối với đất đai là sở hữu nhà nước. Trên thực tế, không phải hình thức sở hữu mà chính nội dung quyền năng và chủ thể tham gia quan hệ sở hữu mới ảnh hưởng quyết định đến chế độ sở hữu đối với đất đai. Ở Việt Nam, mặc dù hiến pháp không công nhận hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai, tuy nhiên, xét về nội dung quyền sử dụng đất của một số đối tượng sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay không có nhiều khác biệt với nội dung quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai ở đa số các nước khác. 13
  14. 1.1.2. Vấn đề sở hữu đất đai trong lịch sử Việt Nam 1.1.2.1. Sở hữu đất đai ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến Xuyên suốt chiều dài lịch sử chế độ phong kiến, Việt Nam song song tồn tại cả hai hình thức sở hữu đối với đất đai: hình thức sở hữu tối cao của nhà nước và hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai. Quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai bắt đầu hình thành vào triều Lý (thế kỷ XI), thực sự phát triển vững chắc từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) và tiếp tục duy trì trong các triều đại sau với quy mô và mức độ khác nhau. Quá trình xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với đất đai được đánh dấu bằng các sự kiện: Nhà Lý đã tiến hành đo đạc lại ruộng đất trong cả nước để xác lập chủ quyền của nhà nước đối với toàn bộ đất đai; đến thời Trần, Nhà nước lập ra một chức quan phụ trách việc điền địa và trông coi đê điều; Thời nhà Lê, sau khi giành thắng lợi quân xâm lược nhà Minh, vua Lê cho tiến hành thống kê ruộng đất trong cả nước. Cùng với việc thống kê tình hình ruộng đất, năm 1429 nhà Lê đã tiến hành thu hồi ruộng đất của quan lại nhà Minh, ngụy quan, ruộng đất của nhân dân bỏ hoang, ruộng đất của lính trốn để sung làm ruộng đất của công. Bên cạnh đó, vua Lê còn ra lệnh cho các phủ làm sổ ruộng đất, sổ hộ. Trên cơ sở thống kê và tịch thu đất đai, nhà nước phong kiến Việt Nam qua các triều đại còn thực hiện quyền sở hữu tối cao của mình đối với đất đai bằng việc thi hành chính sách lộc điền, quân điền, đặt ra tô thuế cho từng loại ruộng đất, quy định cụ thể quyền sở hữu của mình trên ruộng đất công. Quốc triều hình luật có quy định cấm dân không được bán ruộng đất của công cấp cho hay là ruộng đất khẩu phần (Điều 342); trừng phạt người chiếm ruộng đất công quá số hạn định (Điều 343). Mặc dù chế độ sở hữu nhà nước đối với đất đai được xây dựng và củng cố ngày càng vững chắc qua các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt trong triều đại Lê Sơ, tuy nhiên bên cạnh nó vẫn tồn tại hình thức sở hữu tư nhân đối với ruộng đất. Hình thức sở hữu này bắt đầu xuất hiện từ thời Lý - 14
  15. Trần, đến thời Lê Sơ, với chính sách cấp ruộng đất cho công thần, quan lại, nhà nước cũng cho phép họ có quyền định đoạt (mua bán, chuyển nhượng, để thừa kế) trừ khi họ phạm tội nên hình thức sở hữu ruộng đất tự nhân trở thành một hình thức phổ biến. Hình thức sở hữu tư nhân về ruộng đất bao gồm: Sở hữu của quan lại, quý tộc được nhà nước ban cấp ruộng đất; sở hữu của người lao động do tự khai phá, mua lại ruộng đất. Nhà nước phong kiến cũng thừa nhận và bảo hộ hình thức sở hữu này thông qua các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các hành vi xâm chiếm, bán trộm, tranh giành ruộng đất. Hình thức sở hữu tư nhân về ruộng đất không ngừng phát triển qua các triều đại phong kiến Việt Nam, tuy nhiên: Nhà nước giữ quyền sở hữu tối cao đối với toàn bộ đất đai của quốc gia. Vì vậy quyền tư hữu đối với ruộng đất là một thứ quyền tư hữu bị hạn chế và không hoàn chỉnh, luôn luôn bị sự chi phối lớn bởi quyền tối cao của nhà nước. Đây chính là một đặc điểm lớn trong chế độ sở hữu ruộng đất tại Việt Nam [15, tr. 15]. 1.1.2.2. Sở hữu đất đai trong thời kỳ Pháp thuộc Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thiết lập nền thống trị ở Việt Nam, chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam cũng nằm dưới sự quyết định của người Pháp. Ở Nam Kỳ, thực dân Pháp thi hành chính sách cướp đất, lập đồn điền đã hình thành một loại chủ đất mới là địa chủ phong kiến người châu Âu. Với các chính sách chiếm đoạt ruộng đất để cấp cho người Pháp và tay sai, cấm làng xã xác lập quyền chiếm hữu đối với ruộng đất bỏ hoang, tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân đối với đất đai ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, thu hẹp sở hữu của làng xã, đẩy nông dân vào tình trạng mất đất [47, tr. 40]. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Thực dân Pháp thực hiện chính sách duy trì và phát triển công điền, công thổ, bảo vệ ruộng đất của làng xã để buộc nông dân phải lệ thuộc vào ruộng đất công. Do chính sách này nên sở hữu tư nhân đối với ruộng đất ở Bắc và Trung Kỳ chủ yếu là sở hữu nhỏ. 15
  16. Trong thời kỳ Pháp thuộc, chế định pháp luật về sở hữu đối với đất đai ngày càng hoàn thiện trên cơ sở xây dựng và áp dụng hệ thống pháp luật theo mô hình Châu Âu. Chính quyền thực dân ban hành nhiều luật, sắc lệnh, nghị định, trên cơ sở các văn bản này , lần đầu tiên ở Việt Nam , các vấn đề về tài sản, hình thức sở hữu , các quyền năng của chủ sở hữu , quyền điạ dic̣ h đã được quy định một cách rõ ràng. 1.1.2.2. Sở hữu đất đai ở Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1980 Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã coi việc giải quyết vấn đề ruộng đất là một nội dung quan trọng của cách mạng dân tộc, dân chủ. Trong Luận cương chính trị năm 1930 Đảng đã xác định chính sách đối với ruộng đất là: "Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chánh phủ công nông" [11, tr. 2]. Chính cương vắn tắt của Đảng cũng khẳng định: "Thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo" [11, tr. 3], mục tiêu này đã trở thành động lực to lớn, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Ở Miền Bắc, các quy định về ruộng đất trước đây đều được bãi bỏ, năm 1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giảm tô và ra chỉ thị chia lại ruộng đất các đồn điền và ruộng đất vắng chủ cho nông dân sử dụng. Năm 1953, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua Luật cải cách ruộng đất theo đó tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, cường hào chia cho nông dân để thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng" đồng thời xác lập quyền sở hữu của họ trên những mảnh đất đó. Năm 1954, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền. Thời kỳ này, ở miền Bắc và miền Trung tồn tại cả hình thức quan điền (ruộng thuộc sở hữu nhà nước) và cả hình thức sở hữu công của cộng đồng làng xã. Những diện tích đất thuộc sở hữu của cộng đồng này xuất phát từ các cá nhân hiến, tiến cúng, do khai phá tập thể và cũng có thể là quỹ đất trong làng được sử dụng theo 16
  17. quy tắc trong hương ước của làng xã. Cùng với việc thực hiện cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, vào thời kỳ này ở Việt Nam tồn tại cả sở hữu nhà nước, sở hữu cá nhân và sở hữu của cộng đồng dân cư đối với đất đai. Hiến pháp năm 1959 của nước ta cũng ghi nhận các hình thức sở hữu đối với đất đai bao gồm: sở hữu nhà nước; sở hữu của hợp tác xã (sở hữu tập thể) và tại Điều 14 ghi nhận: "Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân" tức hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai. Mặc dù Hiến pháp năm 1959 đã quy định rõ việc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất của nông dân tuy nhiên trong những năm miền Bắc thực hiện phong trào hợp tác hóa, Nhà nước đã vận động nông dân đóng góp ruộng đất để tham gia vào làm ăn tập thể thì về cơ bản đất đai ở nước ta đã được xã hội hóa toàn bộ. Tính đến năm 1975: Mô hình tâp̣ thể hóa nông nghiêp̣ đa ̃ đươc̣ đẩy lên đến đỉnh cao, hoàn chỉnh, sư ̣ phân công lao đôṇ g trong các hơp̣ tác xa ̃ có dáng dấp của phân công lao đôṇ g chuyên môn hóa theo lối công nghiêp̣ . Năm 1975, số hợp tác xã nông nghiêp̣ có 17.000, trong đó, hợp tác xã bâc̣ cao, chiếm đến 90% tổng số hợp tác xã [47, tr. 62-63]. Mô hình thực hiện quyền sở hữu tập thể đất đai ở Miền Bắc cùng với yếu kém trong quản lý, chế độ phân phối bình quân đã tách người nông dân ra khỏi đất đai, hiệu quả sử dụng đất rất thấp, năng suất lúa và đời sống người nông dân ngày càng giảm. Ở Miền Nam, sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền cách mạng cũng thực hiện giảm tô và phân phối lại ruộng đất theo chủ trương chung. Tuy nhiên, do sự can thiệp của đế quốc Mỹ, việc thực hiện các chính sách này bị gián đoạn, những địa chủ trước đây bị lấy đất chia cho nông dân nay được sự bảo hộ của chính quyền quay trở lại đòi đất của nông dân. Trước sức ép của phong trào cách mạng do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền 17
  18. Nam Việt Nam lãnh đạo, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện một số cải cách ruộng đất theo đó hạn chế tập trung ruộng đất quy mô lớn của các đại địa chủ và tạo điều kiện nhất định cho sở hữu nhỏ của nông dân. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước , mô hình hợp tác xã và chính sách đất đai vốn đã bộc lộ nhiều bất cập được áp dụng thống nhất ở cả miền Nam . Tháng 9/1975, Ban Chấp hành Trung ương khóa III ra Nghi ̣ quyết số 247 với chủ trương : "triêṭ để xóa bỏ tàn d ư của chế đô ̣thưc̣ dân phong kiến về ruôṇ g đất " theo hướ ng: "kết hơp̣ chăṭ che ̃ cải taọ xã hội chủ nghĩa đối vớ i nông nghiêp̣ , xây dưṇ g nền nông nghiêp̣ lớ n xã hội chủ nghĩa; môṭ măṭ xây dưṇ g các nông trườ ng quốc doanh măṭ khác ph ải thực hiện hơp̣ tác hóa nông nghiêp̣ , làm từng bước , tích cực , vững chắc ". Tuy nhiên, cũng giống như miền Bắc, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất ở miền Nam cũng rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh không hiệu quả, sản xuất nông nghiệp giảm sút. 1.1.2.3. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai từ năm 1980 đến nay Trên cơ sở triển khai mô hình hợp tác xã, vận động người dân đưa đất đai vào làm ăn tập thể như đã phân tích ở trên, trước năm 1980, về nguyên tắc Nhà nước vẫn công nhận sở hữu tư nhân về đất đai tuy nhiên trên thực tế hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể chiếm ưu thế. Đến hiến pháp năm 1980, với quy định tại Điều 18: "Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, đều thuộc sở hữu toàn dân" [24], ở Việt Nam chỉ còn tồn tại một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu toàn dân đối với đất đai. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai theo Hiến pháp năm 1980 được xây dựng trên cơ sở lý luận sau: Học thuyết Mác - Lênin cho rằng cần phải thay thế hình thức sở hữu tư nhân về đất đai thông qua việc thực hiện quốc hữu hóa đất đai. Quốc hữu hóa đất đai là việc làm mang tính khách quan và phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội loài người bởi các lý do sau: 18
  19. - Việc tích tụ, tập trung đất đai sẽ mang lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao hơn so với hình thức sở hữu tư nhân về đất đai. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp với máy móc, phương thức canh tác hiện đại, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách hiệu quả. - Đất đai là tài sản do thiên nhiên ban tặng con người, đồng thời cũng là thứ tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong hoạt động kinh tế xã hội của con người, do vậy mọi người đều có quyền sử dụng, không ai có quyền biến đất đai thành tài sản riêng của mình. C.Mác đã khẳng định: "Quyền sở hữu ruộng đất là hoàn toàn vô lý. Nói đến quyền tư hữu về ruộng đất chẳng khác gì nói đến quyền sở hữu cá nhân đối với người đồng loại của mình. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì chế độ tư hữu về đất đai là vô lý nhất" [20, tr. 244-245]. - Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẩy nhanh quá trình kiệt quệ hóa đất đai do mục tiêu của chủ đất và nhà tư bản kinh doanh trên đất là thu lợi nhuận tối đa do vậy sẽ tìm mọi cách khai thác tối đa các thuộc tính có ích của đất, giảm chi phí cải tạo đất đồng thời bóc lột sức lao động của người làm thuê trên đất đó và cắt giảm tiền lương của họ. Do vậy, việc xóa bỏ hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai của giai cấp tư sản cũng đồng nghĩa với việc giải phóng người lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột và xây dựng một xã hội công bằng hơn. - V.I. Lênin cũng chỉ ra rằng, quốc hữu hóa đất đai là một quy luật tất yếu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào làm cách mạng vô sản nhưng không nhất thiết phải tiến hành ngay lập tức sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền mà có thể dần dần từng bước từ thấp đến cao, từ tập thể hóa đến xã hội hóa. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được tiếp tục được khẳng định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở ngày càng củng cố, hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai trong phạm vi cả nước. 19