Luận văn Pháp luật về quản trị, điều hành ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về quản trị, điều hành ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_quan_tri_dieu_hanh_ngan_hang_thuong_ma.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về quản trị, điều hành ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN ANH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LAN ANH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy Hà Nội – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Lan Anh
- MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm về quản trị, điều hành NHTMCP 7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP 10 1.2. Các mô hình quản trị, điều hành NHTMCP 16 1.3. Các cơ quan quản trị, điều hành trong NHTMCP 18 1.4. Các nguyên tắc quản trị, điều hành NHTMCP 19 1.4.1. Các nguyên tắc của OECD 19 1.4.2. Các nguyên tắc Basel về quản trị công ty 24 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP Ở VIỆT NAM 29 2.1. Sơ lược pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam 29 2.2. Cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành 35 2.2.1. ĐHĐCĐ 35 2.2.2. Hội đồng quản trị 43 2.2.3. Ban kiểm soát 50 2.2.4. Tổng giám đốc (Giám đốc) 57 2.2.5. Mối quan hệ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy quản trị, điều hành NHTMCP 60 2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam 60
- 2.3.1. Vấn đề tách bạch giữa sở hữu và điều hành 60 2.3.2. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số 62 2.3.3. Thẩm quyền của các cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP 65 2.3.4. Về thành viên HĐQT độc lập 72 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP Ở VIỆT NAM 75 3.1. Những định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam 75 3.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển thị trường tài chính, tiền tệ 75 3.1.2. Nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng tính tự chủ cho các NHTMCP đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 78 3.1.3. Khắc phục những bất cập của pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam 81 3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam 84 3.2.1. Bổ sung những quy định về điều kiện, tiêu chuẩn cho các chức danh quản trị, điều hành 84 3.2.2. Điều chỉnh những quy định về tăng cường quyền lực cho cổ đông nhỏ 86 3.2.3. Bổ sung những quy định pháp luật về chế độ công khai hóa, mức độ minh bạch thông tin trong quản trị, điều hành NHTMCP 86 3.2.4. Bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng của những cổ đông lớn, của HĐQT và người quản lý trong quản trị, điều hành NHTMCP 88 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Từ viết tắt 1 BKS Ban kiểm soát 2 CTCP Công ty cổ phần 3 ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông 4 HĐQT Hội đồng quản trị 5 NHNN Ngân hàng nhà nước 6 NHTM Ngân hàng thương mại 7 NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Từ khi Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, vấn đề quản trị doanh nghiệp đã được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị doanh nghiệp tốt đồng nghĩa với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng trưởng Các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, nhất là trong trường hợp của nước ta khi ngân hàng đóng vai trò là kênh cấp vốn chủ yếu cho doanh nghiệp. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền trong hệ thống và ngược lại, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Hiện nay, tình hình thanh khoản, nợ xấu của các NHTMCP đang rất căng thẳng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do sự yếu kém trong quản trị, điều hành của các ngân hàng. Vấn đề quản trị, điều hành ngân hàng hiện nay đang được điều chỉnh bằng Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 về tổ chức và hoạt động của NHTM, Thông tư số 06/2010/TT- NHNN ngày 26/02/2010 hướng dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi giấy phép, điều lệ của NHTM. Trong đó, sự ra đời của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 đã khắc phục được một số quy định tồn tại về quản trị, điều hành NHTM như: nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT và Tổng giám đốc chưa được phân định rõ ràng và hợp 1
- lý dẫn đến tình trạng có những ngân hàng, HĐQT can thiệp quá sâu vào việc điều hành hoặc ngược lại, có những ngân hàng Ban điều hành lấn át HĐQT , hay chưa có chế độ báo cáo và công bố thông tin rõ ràng, minh bạch dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản điều chỉnh vấn đề quản trị, điều hành ngân hàng hiện nay thực sự vẫn chưa tương đồng, chưa nghiên cứu áp dụng triệt để các nguyên tắc chung về quản trị của thế giới (các nguyên tắc quản trị ngân hàng lành mạnh của Ủy ban Basel; các nguyên tắc của OECD) và còn nhiều bất cập như quy định về thành viên HĐQT độc lập, về số vốn tối thiểu của Chủ tịch HĐQT, làm hạn chế hiệu quả quản trị, điều hành ngân hàng. Từ năm 2011 và nhất là từ đầu năm 2012 đến nay, vấn đề chất lượng hoạt động của các ngân hàng đang bộc lộ nhiều vấn đề đáng báo động, vấn đề thanh khoản và nợ xấu tăng lên không ngừng. Ngoài những nguyên nhân khách quan do điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế tác động thì hạn chế về quản trị, điều hành ngân hàng cũng là một yếu tố gây ảnh hưởng không nhỏ. Trong đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 của Thủ tướng Chính phủ, một định hướng quan trọng được đề ra là cơ cấu lại hệ thống quản trị. Đặc biệt, ngày 26 tháng 11 năm 2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014, hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015 với những thay đổi trong quy định về cơ cấu tổ chức quản trị, điều hành một công ty cổ phần sẽ trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động tổ chức quản trị, điều hành các công ty cổ phần nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng. Từ năm 2011, các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, có kinh nghiệm quốc tế đã được quyền bình đẳng trên mọi lĩnh vực với các ngân hàng trong nước. Số lượng ngân hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Tính đến tháng 12/2014, trên thị trường Việt Nam 2
- đã có 05 ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh, 49 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc giữ thị phần và phát triển kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Để có thể tự tin đứng vững và phát triển ngay tại “sân nhà” trong bối cảnh hiện nay càng đòi hỏi các ngân hàng nội, đặc biệt là các NHTMCP Việt Nam cần chú trọng đến vấn đề quản trị ngân hàng đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị quốc tế. Vì vậy tôi chọn đề tài “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTM cổ phần ở Việt Nam” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quản trị, điều hành doanh nghiệp nói chung đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Về quản trị công ty cổ phần đã có một số công trình nghiên cứu sau: “So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp của một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam” – Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia do PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), năm 2004, Mã số: QG.04.23; “Quản trị công ty: Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận nguồn vốn thị trường toàn cầu” – sách do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu có đề cập đến quản trị công ty như: “Nghiên cứu so sánh quản lý CTCP theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Công hòa nhân dân Trung Hoa”, Luận văn tiến sĩ luật học của Ngô Viễn Phú, năm 2004; “Tổ chức quản lý nội bộ CTCP – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Kim Trinh, năm 2004; “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong CTCP theo pháp luật Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Minh Nguyệt, năm 2010. Từ những năm 2000 cho đến nay, khi lĩnh vực ngân hàng phát triển mạnh mẽ ở nước ta, đặc biệt từ năm 2006, hàng loạt ngân hàng nông thôn địa 3
- phương chuyển đổi thành ngân hàng đô thị thì vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP đặt ra rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên, thực tế những công trình nghiên cứu, những bài viết về vấn đề này còn rất ít. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề quản trị, điều hành trong NHTMCP và các công trình nghiên cứu về quản trị trong CTCP như kể trên, thì các công trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề quản trị cho NHTMCP vẫn chưa nhiều. Năm 2009 có công trình: “Pháp luật về quản trị NHTMCP ở Việt Nam” - Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Phong Thủy. Tuy nhiên, công trình này được nghiên cứu khi Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 chưa được ban hành, vì vậy kiến nghị trong luận văn chỉ phù hợp với giai đoạn trước năm 2011 (thời điểm Luật các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực). Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam” hiện nay vẫn là cần thiết nhằm tìm ra những bất cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này và nâng cao hiệu quả quản trị điều hành NHTMCP ở Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quản trị, điều hành NHTMCP; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề này tại một số NHTMCP. Trên cơ sở đó nêu ra những bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ khái niệm quản trị, điều hành NHTMCP; những quy định của pháp luật về vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP; 4
- - Đưa ra và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam, có so sánh với thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này ở một số nước trên thế giới; - Trên cơ sở đó, tìm ra những bất cập, tồn tại của pháp luật Việt Nam và đề xuất hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam, trên cơ sở có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật của một số nước trên thế giới. - Thông qua luận văn, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị không chỉ nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này mà còn nhằm nâng cao năng lực quản trị, điều hành của NHTMCP trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP và thực tiễn áp dụng tại một số ngân hàng. - Phạm vi nghiên cứu: tác giả sẽ tập trung vào phân tích thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam, trong đó có đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật về quản trị, điều hành ở một số NHTM nhà nước sau cổ phần hóa (Vietcombank, Vietinbank, BIDV) và một số NHTM thành lập theo hình thức công ty cổ phần từ ngay ban đầu. 6. Phương pháp nghiên cứu Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích luật, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo sát, diễn giải, suy luận logic để làm rõ quy định của pháp luật 5
- Việt Nam về vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP và thực trạng áp dụng pháp luật ở một số ngân hàng của Việt Nam. 7. Địa điểm nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu tại thành phố Hà Nội là một trong hai thành phố lớn của cả nước, nơi mà hoạt động ngân hàng diễn ra sôi động và đa dạng nhất, yêu cầu về quản trị ngân hàng đặt ra cấp thiết hơn bất cứ nơi nào. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với nhau và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng ngoại ngày càng khốc liệt đòi hỏi các ngân hàng ngày càng phải nâng cao năng lực về mọi mặt, đặc biệt là năng lực quản trị điều hành ngân hàng. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu vấn đề pháp luật về quản trị, điều hành ngân hàng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 8. Bố cục của luận văn Bố cục của luận văn bao gồm các phần sau đây: Phần mở đầu Chương 1. Những vấn đề lý luận về quản trị, điều hành NHTMCP Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam Chương 3. Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP Kết luận chung Danh mục tài liệu tham khảo 6
- Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP 1.1. Khái niệm, đặc điểm về quản trị, điều hành NHTMCP 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP 1.1.1.1 Khái niệm NHTMCP Khác với NHNN, là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế, trước tiên NHTM là một loại hình doanh nghiệp. Cũng như những doanh nghiệp khác, NHTM sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới hình thức là cung cấp dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, không giống những doanh nghiệp khác, ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó vốn và tiền vừa là phương tiện, mục đích và cũng là đối tượng kinh doanh của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng thường thấp và ngân hàng kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác, nên kinh doanh ngân hàng thường gắn với rủi ro và ngân hàng phải chấp nhận mức độ mạo hiểm nhất định. Các ngân hàng không những phải đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả như những doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, tình hình tài chính và rủi ro của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế cũng như tâm lý người dân do bản chất lây lan rủi ro ngân hàng có thể làm rung chuyển toàn hệ thống kinh tế. Như vậy, có thể hiểu NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của 7
- công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” [55]. Ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác [26, tr.13-14]. Như vậy, dù khác nhau song các định nghĩa trên đây đều tiếp cận khái niệm NHTM thông qua hoạt động nghiệp vụ của nó. Ở Việt Nam, tại khoản 2, Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng”. Theo đó, NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, cơ sở phân biệt NHTM với các hình thức ngân hàng khác là ở “mục tiêu lợi nhuận”. Khi NHTM được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần thì có tên gọi cụ thể là NHTMCP. Ở Việt Nam hiện nay, trong 05 NHTM nhà nước thì có 03 ngân hàng đã cổ phần hóa (NHTMCP Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank, NHTMCP Công thương Việt Nam – Vietinbank, NHTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam); còn tất cả các NHTM tư nhân đều được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần [62, số liệu tính đến cuối năm 2014]. Từ những nhận thức trên, có thể hiểu NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần; được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ định nghĩa như vậy thì vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP chịu sự điều chỉnh của nhiều quy phạm pháp luật khác nhau, trong 8
- đó cơ bản là các quy định pháp luật về các tổ chức tín dụng và quy định về các công ty cổ phần (Luật Doanh nghiệp). 1.1.1.2. Đặc điểm của NHTMCP Thứ nhất, bản thân NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của ngân hàng cũng có những “đặc thù” so với các công ty. Đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý. Thành phần tham gia điều hành hoạt động của loại hình doanh nghiệp này hết sức đa dạng, phức tạp và chủ yếu phân chia lợi ích (cổ tức) theo tỷ lệ góp vốn (cổ phần). Các cá nhân, tổ chức góp vốn sẽ đều có những quyền hạn nhất định trong việc tham gia điều hành, quản trị hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể là quan trọng nhưng hết sức phức tạp. Nếu không có những quy định hợp lý, sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng phi tổ chức, thiếu thống nhất, hoặc xuất hiện lợi ích nhóm. Thứ hai, NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận, song vốn tự có thường không ổn định. Hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu tác động từ nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế hoặc đôi khi chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như bất động sản, chứng khoán Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường chứa đựng tính rủi ro cao. Do nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động thường cao và dễ dẫn đến phá sản. Điều này đặt ra những yêu cầu nhất định của việc quản trị điều hành nhằm đưa hoạt động của NHTMCP đi vào ổn định và phát triển. Do đó, việc đưa ra những quy định pháp luật về NHTMCP hợp lý là cực kỳ quan trọng, tạo hành lang pháp lý thống nhất để các chủ thể khi tham gia hoạt động này thực hiện. Thứ ba, NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội, các hoạt động của 9
- loại hình doanh nghiệp này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước, nếu đổ vỡ sẽ có thể gây tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Tại cùng một thời điểm, các ngân hàng chịu rủi ro hơn về quản trị so với doanh nghiệp thông thường vì tính không rõ ràng hay cụ thể hơn là phạm vi cát cứ, chuyển rủi ro, lợi ích của cá nhân và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, hoạt động cho vay nội gián, chiếm đoạt ) lớn hơn so với các doanh nghiệp phi tài chính. Việc quản lý thiếu nghiêm túc, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ một số NHTMCP là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đe dọa hoạt động và sự ổn định của cả hệ thống tổ chức tín dụng. Sự khủng hoảng của hệ thống các tổ chức tín dụng trong thời gian qua và mối liên quan trực tiếp từ sự khủng hoảng của kinh doanh bất động sản là một minh chứng hết sức rõ nét cho tầm ảnh hưởng của hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và NHTMCP nói riêng tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Do đó, việc đặt ra những quy định pháp lý chặt chẽ điều chỉnh hoạt động của các NHTMCP trong đó đặc biệt là hoạt động quản trị, điều hành là vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là công cụ để Nhà nước kiểm soát, điều hành sự vận động của kinh tế vĩ mô, trong đó có hoạt động kinh doanh tiền tệ. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP 1.1.2.1. Khái niệm quản trị, điều hành NHTMCP Xuất phát từ sự khác nhau về nguồn gốc thể chế pháp luật, đặc tính quốc gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính mà quan niệm và nội dung của quản trị, điều hành NHTMCP ở các quốc gia khác nhau có nhiều điểm không tương đồng. Cuốn “Các nguyên tắc quản trị công ty” xuất bản năm 2004 của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “Quản trị công ty là một hệ thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, các chức danh quản lý và những người có lợi ích liên quan, quy định trình tự 10
- ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó [43]. Theo Ngân hàng Thế giới (WB): quản trị công ty là một hệ thống các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tồn tại quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ bản nhất của hệ thống quản trị công ty là: (i) tính minh bạch của các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; (ii) đảm bảo thực thi các quyền của tất cả các cổ đông; (iii) các thành viên trong HĐQT có thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết. Các định nghĩa này cho thấy, quản trị công ty nhằm bảo vệ lợi ích của các bên liên quan chính trong các doanh nghiệp kinh doanh. Quản trị công ty trước hết bao gồm các thiết chế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa họ với bộ máy điều hành trong những doanh nghiệp quy mô lớn mà sở hữu và điều hành đã bắt đầu tách rời. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, một công ty có nhiều đối tượng hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành các nhóm lợi ích xung đột với nhau. Việc quản trị sẽ cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu cho công ty nhằm phát huy được tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức mạnh cạnh tranh cho chính bản thân doanh nghiệp. Điều này cho thấy, thuật ngữ “quản trị công ty” hoàn toàn khác với cách hiểu “quản trị kinh doanh” thường được hiểu là tri thức và 11
- kỹ năng của những người quản lý. Quản trị kinh doanh chính là áp dụng các nguyên tắc và lý luận của khoa học quản trị vào việc quản trị một cơ sở kinh doanh là một quá trình, một hoạt động có hướng đích, có tổ chức của chủ thể quản trị (nhà quản trị) lên đối tượng quản trị (cấp dưới) để điều hành, phối hợp các nguồn lực (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, thời gian và các mối quan hệ) trong điều kiện cạnh tranh thị trường nhằm đạt được mục đích kinh doanh với hiệu quả cao. Đối với các ngân hàng, quản trị tốt phải bao gồm 5 yếu tố chủ yếu, bao gồm: sự công bằng giữa các cổ đông, tạo điều kiện cho cổ đông đóng góp ý kiến về mục tiêu của ngân hàng và tiếp cận các nguồn thông tin; minh bạch thông tin, nhất là về tầm nhìn chiến lược, các chính sách, tình hình tài chính, cơ cấu quản lý, cổ đông, quản trị rủi ro; tinh thần trách nhiệm, cần phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban, xây dựng các thông số đánh giá hoạt động và hệ thống khen thưởng rõ ràng; sự tuân thủ, các ngân hàng cần hoạt động kinh doanh một cách thận trọng, đảm bảo tuân thủ các qui định hiện hành; sự độc lập, ngân hàng cần đưa ra quyết định khách quan, không chịu áp lực của các bên liên quan, phải ngăn ngừa sự chi phối của các cổ đông và tránh phát sinh các xung đột lợi ích. Nếu như trước đây, NHTM nhà nước chiếm phần lớn thị phần (theo báo cáo của NHNN năm 2007, 05 NHTM thuộc sở hữu nhà nước chiếm khoảng 80% tổng sản phẩm của các NHTM, các khoản cho vay của NHTM thuộc sở hữu nhà nước chiếm gần 80% trong tổng số dư nợ ngân hàng) thì đến nay, cùng với sự củng cố và phát triển của NHTMCP và quá trình cổ phần hóa các NHTM Nhà nước (NHTMCP Ngoại thương Việt Nam, NHTMCP Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam), vị thế và vai trò của hệ thống NHTMCP đã thay đổi, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. 12
- Bên cạnh đó, quy định cho phép chuyển đổi hình thức các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ về đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký chuyển đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Do đó, việc cho phép ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài chuyển đổi sang hình thức NHTMCP là xu hướng tất yếu trong tương lai. Trong NHTMCP, quản trị, điều hành nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Quản trị không đơn thuần chỉ là việc quản trị, thực hiện các quyết định và tổ chức nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh khoản (khả năng thanh toán và quy mô của ngân hàng), quản trị tài sản có (tích sản), quản trị tài khoản nợ (tiêu sản), quản trị vốn, quản trị tín dụng với nội dung cơ bản là phân tích tín dụng [26, tr.12,13]. Trong việc quản trị, thực hiện quyết định và tổ chức nội bộ sẽ bao gồm nhiều hoạt động: hoạch định việc thực hiện các quyết định trong ngân hàng; kiểm tra (gồm có việc thực hiện các báo cáo, kiểm toán, thanh tra ngân hàng) và tổ chức nội bộ. Trong hoạt động tổ chức nội bộ của ngân hàng sẽ bao gồm việc tổ chức cơ cấu từ cấp cao (hội sở) đến từng ủy ban chức năng, các chi nhánh hoạt động và việc tổ chức các cơ quan quản lý, điều hành trong ngân hàng. Như vậy, quản trị có thể hiểu là việc tổ chức nội bộ; đưa ra và thực hiện các quyết định của đại hội cổ đông thông qua HĐQT, đồng thời quản lý, kiểm soát hoạt động điều hành của ngân hàng. Điều hành là các hoạt động nghiệp vụ được tiến hành nhằm duy trì hoạt động bình thường, ổn định, phát triển của ngân hàng, thường được tiến hành bởi những chủ thể có quyền lực nhất định. Tuy nhiên, hoạt động quản trị và điều hành không hoàn toàn tách biệt mà có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, trong quản trị có điều hành, trong điều 13
- hành thể hiện yếu tố quản trị. Có thể coi điều hành là hoạt động triển khai kết quả của quản trị. Quản trị và điều hành là hai mặt hoạt động của ngân hàng; chúng hỗ trợ nhau tạo nên hiệu quả của hoạt động ngân hàng. Nếu như quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và các quy trình của công ty nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và giải trình thì điều hành công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để tổ chức thực hiện các hoạt động của công ty. Nói cách khác, trong khi điều hành phần nhiều mang tính nghiệp vụ ngân hàng thì quản trị mang tính tổ chức nội bộ. Phạm vi đề tài này đề cập đến những vấn đề liên quan đến tổ chức nội bộ đối với các cơ quan quản lý, điều hành trong ngân hàng và những quy định pháp luật liên quan, cụ thể là việc phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên, cơ quan trong ngân hàng như các cổ đông, HĐQT, BKS, Ban điều hành và các quan quan giúp việc khác. 1.1.2.2. Đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP Các NHTMCP - bản chất là các doanh nghiệp, song là các doanh nghiệp đặc biệt, cung cấp các dịch vụ về tài chính nhằm thu lợi nhuận, do vậy hoạt động quản trị, điều hành không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình mà họ cho vay vốn. Công tác quản trị, điều hành tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Nói một cách tổng quát, vấn đề quản trị, điều hành tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước đo cho khả năng chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế. Không những thế, hoạt động của ngân hàng tác động đến sự luân chuyển nguồn vốn của nền kinh tế bởi lẽ các ngân hàng huy động và phân bổ tiết kiệm của xã hội. Cũng bởi NHTMCP là các doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của các ngân hàng cũng có những “đặc thù” khác với các công ty. 14
- Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ từ các thông tin về tài chính được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau và khó nhận định đánh giá. Cùng với đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; nhiều khoản nợ ngắn hạn dẫn đến độ rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các NHTMCP cũng phải đưa ra các quy định rất cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản phẩm, chi nhánh), yêu cầu về đảm bảo an toàn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc ). Vai trò của quản trị, điều hành NHTMCP rất quan trọng vì quản trị tốt, ngân hàng có thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn. Thứ hai, quản trị, điều hành được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu NHTMCP. NHTMCP do các cổ đông là chủ sở hữu, nhưng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban điều hành, sự giám sát của BKS và sự đóng góp của người lao động, những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như cổ đông có thể hướng hoạt động của ngân hàng phát triển đem lại hiệu quả cao nhất. Thứ ba, quản trị, điều hành NHTMCP xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ đông, HĐQT, Ban điều hành, BKS. Đồng thời, quản trị, điều hành ngân hàng cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra các quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không minh bạch. 15