Luận văn Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn tại cục hải quan TP Đà Nẵng

pdf 124 trang vuhoa 25/08/2022 4420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn tại cục hải quan TP Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_quan_ly_thue_xuat_khau_thue_nhap_khau.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn tại cục hải quan TP Đà Nẵng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHẠM QUÝ HƢƠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ THỰC TIỄN TẠI CỤC HẢI QUAN TP ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – Năm 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHẠM QUÝ HƢƠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ THỰC TIỄN TẠI CỤC HẢI QUAN TP ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS .TS LÊ THỊ THU THỦY Hà Nội – Năm 2014 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Nguyễn Phạm Quý Hƣơng 3
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 3 MỞ ĐẦU 8 CHƢƠNG 1 : Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 13 1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 13 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 13 1.1.2. Khái niệm, vai trò của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 15 1.1.3. Những thành tố cơ bản trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 18 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK: 22 1.2.1 Khái niệm, cấu trúc pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK: 22 1.2.2. Các yếu tố chi phối pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu: 27 CHƢƠNG 2 : Thực trạng pháp luật về quản lý thuế XK, thuế NK ở Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng 34 2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế NK, thuế XK ở Việt Nam: 34 2.1.1. Chủ thể thực hiện quản lý quản lí thuế XK, thuế NK ở Việt Nam : 34 2.1.2. Thực trạng pháp luật về thủ tục hành chính thuế: 38 2.1.3. Thực trạng pháp luật về giám sát và bảo đảm sự tuân thủ pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 50 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK tại Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng: 65 2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng: 84 2.3.1. Những kết quả đạt được : 84 2.3.2- Những hạn chế và nguyên nhân : 88 2.3.2.1. Những hạn chế : 88 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 94 CHƢƠNG 3 : Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK và nâng cao hiệu quả quản lý thuế XK, thuế NK tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng. 96 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK : 96 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế XK, thuế NK tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng: 104 3.2.1. Nhóm giải pháp tạo lập và nuôi dưỡng nguồn thu: 104 4
  5. 3.2.2. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công chức Hải quan. 105 3.2.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về hải quan. 108 3.2.4. Triển khai ứng dụng mạnh mẽ kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác quản lý thuế XNK. 109 3.2.5. Tăng cường công tác chống buôn lậu, chống gian lận thương mại, thanh tra, kiểm tra sau thông quan. 111 3.2.6. Tăng cường phối kết hợp với chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan chức năng trên địa bàn để quản lý và chống thất thu thuế XNK. 113 3.2.7. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho đối tượng nộp thuế chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế XNK. 114 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 115 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120 5
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHXHCNVN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam DN : Doanh nghiệp ĐTNT : Đối tượng nộp thuế ĐTGC : Đầu tư gia công NSNN : Ngân sách nhà nước KTTT : Kiểm tra thu thuế HNQT : Hội nhập quốc tế TP : Thành phố XK, NK : Xuất khẩu , nhập khẩu SXXK : Sản xuất xuất khẩu 6
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1 69 Bảng 2.2 76 Bảng 2.3 78 Bảng 2.4 79 Bảng 2.5 80 Bảng 2.6 84 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người đã minh chứng, thuế ra đời là cần thiết, khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Gần đây nhất, Luật quản lý thuế đã được Quốc hội khoá XI kỳ họp 10 thông qua ngày 29/11/2006. Điều 4 Luật này đã khẳng định: “thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế ”. Nhà nước để có thể tồn tại, thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình thì cần phải có nguồn tài chính nhất định. Do vậy, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động, tập trung nguồn của cải đó được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc được gọi là thuế. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những sắc thuế có ý nghĩa quan trọng, vừa là nguồn động viên ngân sách quốc gia, vừa là công cụ để điều tiết sản xuất trong nước, đồng thời cũng là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế trong nước và thương mại quốc tế phát triển. Để phát huy tối đa vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Nhà nước cần có những chính sách, pháp luật, công cụ phù hợp để quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chính vì vậy mà trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc hội nhập quốc tế, phát triển thương mại quốc tế khiến cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam có sự thay đổi lớn, nhiều biến chuyển trong những năm qua, số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Điều này kéo theo việc quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập 8
  9. khẩu cần phải có sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn, phải đảm bảo hệ thống pháp luật thì mới hội nhập, nhất là ở lĩnh vực quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là tiền đề cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hiệu quả các cam kết khi gia nhập. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về việc quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu, chính sách thuế xuất khẩu nhập khẩu ở Việt Nam là một nhu cầu cần thiết. Trong chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011- 2020, nhà nước ta xác định mục tiêu tổng quát: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: Thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính đơn giản, khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế; Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao phấn đấu đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á trong xếp hạng mức độ thuận lợi về thuế vào năm 2020”. Cùng với sự đổi mới, hội nhập quốc tế (HNQT), ngành Hải quan nói chung và Cục Hải quan TP Đà Nẵng nói riêng đã cố gắng, nỗ lực hết mình, không ngừng đổi mới và phát triển, đã có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt kỹ năng nghiệp vụ, biện pháp quản lý cho việc gia nhập này, đặc biệt là thực hiện và đề xuất hoàn thiện pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu góp phần quan trọng vào việc giữ gìn nền an ninh và tài chính quốc gia; Nhìn chung, trong những năm qua hoạt động quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã đạt được những kết quả và thành tựu đáng kể, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại như: tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế và gian lận thương mại còn phổ biến; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được coi trọng đúng mức dẫn đến còn thất thu cho ngân sách Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng xã hội dẫn đến xuất hiện những khó khăn, thách thức không nhỏ ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; bên cạnh đó công tác tuyên truyền pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho đối tượng nộp thuế chưa được quan tâm thường xuyên. Sở dĩ xảy ra tình trạng này phát sinh từ nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như: nguyên nhân từ nội dung các quy định của pháp luật, chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập 9
  10. khẩu còn kẻ hỡ, dễ bị lợi dụng, nguyên nhân từ năng lực, trình độ quản lý thuế của cơ quan Hải quan còn hạn chế, Xuất phát từ những tồn tại trong quản lý thuế XK, thuế NK nêu trên đòi hỏi cơ chế chính sách pháp luật phải luôn được quan tâm hoàn thiện để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý; đó là kiểm soát cho được tất cả các đối tượng nộp thuế, chịu thuế, hạn chế thất thu ở mức thấp nhất, đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu nộp ngân sách nhà nước(NSNN), kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định tình hình chính trị, kinh tế. Vì vậy, pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn áp dụng thi hành là một đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, trước yêu cầu cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ, các quy định về thủ tục hành chính trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải tiếp tục được cải cách hơn nữa, đi đôi với việc tạo cơ sở pháp lý để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện tử, hải quan điện tử Từ tất cả những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng” để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đề tài pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một đề tài đã và đang được nhiều tổ chức, cá nhân liên quan nghiên cứu đến ở nhiều góc độ khác nhau như: Một số luận văn và luận án đề cập đến vấn đề quản lý thuế dưới giác độ nghiên cứu về từng vấn đề riêng lẻ trong toàn bộ quá trình quản lý thuế nói chung, chẳng hạn như: Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO” của tác giả Ngô Khánh Phượng, năm 2011; Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của Doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thị Lệ Thúy, năm 2009 . Hầu hết các công trình nghiên cứu trên phần nhiều đề cập đến một khía cạnh trong công tác quản lý thuế nói chung, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói 10
  11. riêng mà chưa đề cập một cách đầy đủ, chuyên sâu về pháp luật quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam và thực tiễn tại một cục Hải quan địa phương như Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về quản lý thuế XK, thuế NK và thực tiễn tại Cục Hải quan Đà Nẵng là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích Luận văn là chọn lọc và hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về thuế XK, thuế NK; đưa ra một cái nhìn tổng quát nhất các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về vấn đề này tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng. Với mục đích như trên, Luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; - Phân tích, đánh giá khái quát các quy định của pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn áp dụng như: cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thủ tục hành chính quản lý thuế cơ bản như khai thuế, ấn định thuế, thu nộp thuế; miễn, giảm, hoàn thuế; kiểm tra, thanh tra thuế; xử lý vi phạm pháp luật vê thuế - Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng để rút ra những thành công, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thuế XK, NK của Cục Hải quan TP Đà Nẵng. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam; các cam kết quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng như một số quy định liên quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, xác định theo các giới hạn sau: - Đối với vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luận văn chỉ nghiên cứu khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; 11
  12. - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Đà Nẵng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cở sở phương pháp luận của triết học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu từ các báo cáo định kỳ của ngành, đơn vị. Lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn để đánh giá một cách chính xác, khách quan thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trên cơ sơ những phương pháp nghiên cứu này, tác giả làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có 3 chương sau đây: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chương 2:. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu , thuế nhập khẩu ở Việt Nam và thực tiễn thi hành tại cục hải quan thành phố Đà Nẵng . Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế XK, thuế NK và nâng cao hiệu quả quản lý thuế XK, thuế NK tại Cục Hải quan TP Đà Nẵng. 12
  13. CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU 1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: * Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Trong xu thế hội nhập quốc tế nước ta đã và đang từng bước hòa mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại.Việc buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa nước ta với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng đa dạng phong phú. Mỗi quốc gia độc lập và có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới và cửa khẩu của quốc gia mình. Thuế đánh vào hàng hóa trong các trường hợp này được gọi chung là thuế quan. Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam thì thuế quan được gọi với tên chung là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và là loại thuế độc lập trong hệ thống pháp luật thuế Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Đây là loại thuế ngoài chức năng huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN) còn bảo hộ sản xuất, cân đối nền kinh tế và can thiệp vào quá trình hoạt động ngoại thương, buôn bán trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Luật Thuế XK, NK hàng mậu dịch 1987 là luật thuế đầu tiên được Quốc hội khóa VIII thông qua; Đây là loại thuế đầu tiên của nước CHXHCNVN được ban hành bằng hình thức luật khá hoàn chỉnh nhằm tăng cường các hoạt động XK, NK; Trong những năm tiếp theo do sự thay đổi của chính sách kinh tế và hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước mà Nhà nước ta đã ban hành luật thuế XK, NK có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế của từng giai đoạn vào các năm 1991, 1993, 1998, 2005; Và cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một khái niệm đồng nhất về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Theo từ điển kinh tế học (Anh - Việt giải thích): “Thuế nhập khẩu là khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng để tăng nguồn thu cho Chính phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài”. [34] 13
  14. Theo Từ điển Luật học: “Thuế XNK là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hoá XNK qua biên giới”.[34] Trên cơ sở nghiên cứu các quan niệm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, có thể hiểu khái niệm chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như sau: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá, là một phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa mà các tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật về thuế XK, thuế NK quy định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội. * Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Từ khái niệm về thuế XK, thuế NK cho thấy thuế XK, thuế NK cũng có những đặc điểm của thuế nói chung, đó là: Thứ nhất, mang tính quyền lực Nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền đặt ra thuế XK, thuế NK qua đó để kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động XK, NK hàng hoá và bảo hộ nền sản xuất trong nước, đồng thời để tạo nguồn thu cho NSNN. Thứ hai, mang tính pháp lý cao. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước mà không có sự bồi hoàn trực tiếp nào, việc nộp thuế được thể chế bằng pháp luật mà mọi pháp nhân và thể nhân phải tuân theo. Thứ ba, chứa đựng các yếu tố KT - XH. Điều này được thể hiện ở chỗ thuế XK, thuế NK là một phần của cải của xã hội, mức huy động thuế XK, thuế NK vào ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các mục tiêu KT - XH của đất nước đặt ra trong mỗi thời kỳ. Ngoài những đặc điểm chung, thuế XK, NK còn có đặc điểm riêng là: - Thuế XK, thuế NK đánh vào hàng hoá được phép XK, NK qua biên giới của một nước, kể cả hàng hoá được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan đưa vào tiêu thụ trong nước. 14
  15. - Thuế XK, thuế NK là một loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế XK, thuế NK để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của hàng hóa XK, NK. Vì vậy, thuế XK, thuế NK là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa XK, NK; người nộp thuế là người thực hiện hoạt động XK, NK hàng hóa; người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hóa XK, NK. Nhà nước thu thuế XK, thuế NK của người tiêu dùng gián tiếp thông qua người cung cấp hàng hóa XK, NK. 1.1.2. Khái niệm, vai trò của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 1.1.2.1. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Vì vậy, để tiếp cận khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước hết cần tiếp cận khái niệm quản lý. Theo Từ điển tiếng Việt, quản lý là “Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. Dưới góc độ chung của các chuyên ngành khoa học “Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho một hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý và nhằm đạt được những mục đích đã định trước” [45, tr.258]. Trong cuốn giải thích thuật ngữ pháp lý Việt Nam có giải thích: “quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Nó nhằm chỉ một tập hợp các hoạt động cần thiết phải được thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu chung” [45, tr.258]. Mary Parker Follett (1868-1933) cho rằng quản lý là “Nghệ thuật đạt được các mục tiêu của tổ chức thông qua con người” Nhìn chung, các khái niệm về quản lý đều thống nhất rằng, đã nói đến quản lý là nói đến các hoạt động và một loạt các nhiệm vụ mà người quản lý phải liên tục đảm nhận và giải quyết. Đó là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra, kiểm soát bao gồm cả mục tiêu, kết quả và hiệu năng hoạt động của một tổ chức, nghĩa là nói tới quản lý là nói tới kết quả đạt được với chất 15
  16. lượng tốt nhất và chi phí thấp nhất chứ không chỉ là những quy trình thực hiện các thao tác kỹ thuật đơn thuần. Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng cho quản lý gồm nhân lực, tài chính, công nghệ. Quản lý thuế là một dạng của quản lý xã hội kể từ khi có nhà nước và gắn với quyền lực nhà nước. Quản lý thuế trước hết và quan trọng nhất thuộc trách nhiệm của nhà nước cho nên người ta thường quan niệm quản lý thuế là quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế. Vậy, xét theo nghĩa rộng, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể được hiểu là quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc nhà nước tác động có tổ chức và bằng pháp quyền đối với các quá trình kinh tế xã hội và hành vi của con người nhằm thực hiện các mục tiêu chung thông qua công cụ thuế quan. Còn xét trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được hiểu theo nghĩa hẹp là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thực hiện các quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. 1.1.2.2. Vai trò của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu * Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước Quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được đầy đủ, chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định cho Ngân sách nhà nước. Thuế luôn là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số thu Ngân sách nhà nước của hầu hết các quốc gia. Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Nhờ đó, một bộ phận thu nhập của xã hội được tập trung vào ngân sách nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, giúp nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Nguồn thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu ngân sách quốc gia. Đảm bảo nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là vai trò quan trọng hàng đầu của công tác quản lý nhà 16
  17. nước trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nhà nước cần phải tăng thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bằng mọi giá. Một tỉ lệ thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hợp lý và ổn định sẽ vừa kích thích nền kinh tế phát triển, hiệu quả vừa đảm bảo nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Vì vậy, vai trò đảm bảo nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những vai trò quan trọng . Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, với xu thế hội nhập và cắt giảm thuế quan thì nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày càng giảm, vì vậy việc quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu là rất khó. * Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là mục tiêu chủ chốt của mỗi quốc gia, đặc biệt trong xu thế tự do hóa thương mại trên phạm vi khu vực và thế giới. Thông qua việc quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cơ quan nhà nước sẽ quản lý được số lượng, loại hình hàng hóa thực xuất khẩu, nhập khẩu, từ đó kiểm soát được tất cả hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để Nhà nước đưa ra chính sách pháp luật phù hợp đối với hoạt động xuất nhập khẩu, cho phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nào, cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nào. * Bảo hộ sản xuất trong nước Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất trong nước. Nhà nước sẽ sử dụng công cụ thuế nhập khẩu theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Thông qua các chính sách đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, Nhà nước tác động vào giá cả hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa, làm giảm khả năng cạnh tranh đối với hàng hóa được sản xuất trong nước. Và để thay thế, người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất. Bảo hộ sản xuất trong nước nhằm hỗ trợ nền sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm và nguồn thu nội địa. Bảo hộ cũng làm giảm tính cạnh tranh, lãng phí nguồn lực gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Chính vì vậy việc lựa chọn ngành nghề bảo hộ, thời gian bảo hộ phù hợp là điều vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, về lâu dài thì đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới là yếu tố quyết định. 17
  18. *Hạn chế tối đa hành vi vi phạm pháp luật về thuế Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò trong việc hạn chế tối đa các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, hành vi buôn lậu. Đồng thời quản lý nhà nước cũng làm tăng cường sự tuân thủ pháp luật thuế, bởi tính tuân thủ cao cũng là một trong những biểu hiện của hệ thống thuế phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội. * Thực hiện các chính sách đối ngoại Một trong những vai trò không kém phần quan trọng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc thực hiện các chính sách đối ngoại. Đây là một biện pháp quản lý tiến bộ thay vì sử dụng những biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu theo định hướng phát triển kinh tế xã hội thì Nhà nước sẽ sử dụng công cụ thuế quan theo hướng có lợi cho nền kinh tế là một chính sách phù hợp, góp phần cân bằng cán cân thương mại và ổn định được cán cân thanh toán quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với rất nhiều nước và vùng lãnh thổ, tham gia nhiều hiệp định thương mại, là thành viên của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để xác định mức độ chịu thuế của các hàng hóa khác nhau, mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là một bảng tổng hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Vì vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại với từng quốc gia. 1.1.3. Những thành tố cơ bản trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 1.1.3.1. Cơ chế quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Theo từ điển tiếng Việt: “Cơ chế là phương thức hoạt động theo đó một quá trình nào đó được thực hiện” [35, tr.207]. 18
  19. Theo cách định nghĩa này thì cơ chế quản lý thuế nói chung có thể hiểu là phương thức quản lý thuế mà Nhà nước sử dụng để quản lý quá trình thu nộp thuế từ các đối tượng nộp thuế cho NSNN. Trong khoa học quản lý: “Cơ chế quản lý là hệ thống các quy tắc điều chỉnh các hành vi, hoạt động của các chủ thể trong hệ thống quản lý; là hệ thống các biện pháp, hình thức, cách thức tổ chức, điều khiển nhằm duy trì các mối quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống quản lý đó phù hợp với những quy luật khách quan theo mục tiêu đã xác định để bảo đảm cho hoạt động của hệ thống thông suốt. Vì vậy, khi nghiên cứu cơ chế quản lý, người ta không chỉ chú ý đến cơ chế vận hành các yếu tố cấu thành của nó mà còn phải chú ý nhiều hơn đến mối liên hệ và tác dụng của các yếu tố cấu thành trong tổng thể hệ thống đó. Cơ chế quản lý tác động sâu sắc đến hiệu quả quản lý. Do vậy, hiệu quả quản lý là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đánh giá tính đúng đắn của cơ chế quản lý” [42]. Trong quản lý thuế XK, thuế NK, người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo pháp luật qui định, còn cơ quan quản lý thuế XK, NK (cơ quan Hải quan) được giao trách nhiệm tổ chức, điều hành, giám sát và bảo đảm việc thực hiện pháp luật thuế và thu tiền thuế cho NSNN. Trên cơ sở này đã hình thành mối quan hệ quản lý, trong đó, trách nhiệm và quyền hạn của người nộp thuế và cơ quan thuế Hải quan luôn có mối liên hệ hết sức chặt chẽ dựa trên các cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động này gọi là cơ chế quản lý thuế. Trước đây Nhà nước Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý thuế XK, thuế NK theo cơ chế cơ quan thuế (cơ quan Hải quan) tính thuế: cơ chế này đòi hỏi cán bộ thuế phải kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, các khoản phải thu dựa trên những số liệu mà cơ quan thuế (Hải quan) có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế cho người nộp thuế thực hiện. Điều này, đồng nghĩa với việc thể hiện sự không tin tưởng hoặc ít tin tưởng của Nhà nước đối với người nộp thuế. Cách thức quản lý thuế mang nặng tính áp đặt, sử dụng quyền lực nhà nước là chủ yếu để quản lý thuế đối với người nộp thuế và tiến độ thu thuế thường chậm. Việc xác định số thuế phải nộp trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan quản lý thuế (Hải quan), không khuyến khích người nộp thuế tự giác tuân thủ. 19
  20. Hiện nay cùng với sự phát triển kinh tế, Việt Nam mở cửa và gia nhập WTO, các nước vào đầu tư, số lượng người nộp thuế gia tăng nhanh chóng, để quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu quả đòi hỏi nhân lực của cơ quan quản lý thuế (Hải quan) phải gia tăng tương ứng về số lượng và chất lượng. Vì vậy, để cân bằng hoạt động quản lý này, Nhà nước phải tiến hành xây dựng cơ chế người nộp thuế tự tính thuế, hay còn gọi là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế. Theo cơ chế quản lý thuế này, việc kê khai, tính thuế, nộp thuế được thực hiện trên nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Người nộp thuế căn cứ các qui định của pháp luật thuế XK,NK để xác định các loại thuế phải nộp, tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp số thuế đã tính vào NSNN. Người nộp thuế có trách nhiệm lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh các số liệu đã kê khai. Cơ quan thuế (Hải quan) có nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế, từ đó họ tự thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Cơ quan quản lý thuế (Hải quan) tập trung nhân lực để giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế thông qua việc áp dụng quản lý rủi ro, kiểm tra, thanh tra về thuế, kiểm tra sau thông quan để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra, thanh tra, kiểm tra sau thông quan của cơ quan thuế (Hải quan) đối với người nộp thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp cần thanh tra, kiểm tra, kiểm tra sau thông quan thuế để chi phí quản lý và không gây phiền hà cho người nộp thuế. Như vậy, thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế không phải buông lỏng sự quản lý, giám sát người nộp thuế mà cơ quan quản lý thuế (Hải quan) thực hiện quản lý, giám sát bằng phương pháp mới hiện đại, hiệu quả hơn. Cơ chế quản lý thuế này giúp tạo được sự cân bằng giữa hai chức năng chủ yếu của cơ quan quản lý thuế (hải quan) là chức năng phục vụ và chức năng giám sát, kiểm tra hoạt động tuân thủ pháp luật thuế đối với người nộp thuế; tạo nên sự kết hợp hài hoà vai trò của cơ quan quản lý thuế (Hải quan): Một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thuế XK, NK và đồng thời là một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế XK, NK cho cộng đồng DN và xã hội. 1.1.3.2. Mô hình tổ chức quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 20