Luận văn Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_quan_ly_thue_thu_nhap_ca_nhan_o_viet_n.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THU HUYỀN Ph¸p luËt vÒ qu¶n lý thuÕ thu nhËp c¸ nh©n ë ViÖt Nam - Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ THU HUYỀN Ph¸p luËt vÒ qu¶n lý thuÕ thu nhËp c¸ nh©n ë ViÖt Nam - Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Thu Huyền
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 6 1.1. Khái quát về quản lý thuế thu nhập cá nhân 6 1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân 6 1.1.2. Khái niệm quản lý thuế thu nhập cá nhân 8 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân 10 1.2. Khái niệm, nội dung của pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân 13 1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân 13 1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân 14 1.3. Kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về quản lý thuế thu nhập cá nhân 21 Kết luận chương 1 30 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM 31 2.1. Quản lý đối tượng nộp thuế 31 2.1.1. Xác định đối tượng nộp thuế 31 2.1.2. Quản lý thông tin người nộp thuế 32 2.1.3. Đăng ký và cấp mã số thuế 34
- 2.2. Quản lý thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân 42 2.3. Quản lý kê khai và quyết toán thuế thu nhập cá nhân 48 2.3.1. Quản lý kê khai thuế thu nhập cá nhân 48 2.3.2. Quản lý quyết toán thuế thu nhập cá nhân 49 2.4. Quản lý việc miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế thu nhập cá nhân 53 2.4.1. Quản lý việc miễn thuế thu nhập cá nhân 53 2.4.2. Quản lý việc giảm thuế thu nhập cá nhân 56 2.4.3. Quản lý việc hoàn thuế thu nhập cá nhân 61 2.5. Quản lý việc kiểm tra, thanh tra thuế thu nhập cá nhân và xử lý vi phạm 63 2.6. Quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin 67 Kết luận chương 2 78 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 79 3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân 79 3.1.1. Quản lý thu nhập chịu thuế 79 3.1.2. Đơn giản hóa biểu suất thuế lũy tiến 81 3.1.3. Quản lý miễn, giảm thuế TNCN, hoàn thuế TNCN 81 3.1.4. Về các mẫu biểu, tờ khai thuế, quyết toán thuế 83 3.2. Các giải pháp khác 83 3.2.1. Tăng cường các biện pháp quản lý thông tin người nộp thuế 83 3.2.2. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hoàn thiện quy định pháp luật về nộp thuế điện tử 84 3.2.3. Tích cực tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN 85 3.2.4. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về luật thuế TNCN và nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thuế 87
- 3.2.5. Phối hợp đồng bộ giữa các ngành trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân 89 3.2.6. Tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan trung gian trong quản lý thuế thu nhập cá nhân 90 Kết luận chương 3 92 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội CMND : Chứng minh nhân dân CNTT : Công nghệ thông tin MST : Mã số thuế NHNN : Ngân hàng Nhà nước NNT : Người nộp thuế NSD : Người sử dụng NSNN : Ngân sách Nhà nước QTT : Quyết toán thuế TNCN : Thu nhập cá nhân TNDN : Thu nhập doanh nghiệp TTHC : Thủ tục hành chính TTKDTM : Thanh toán không dùng tiền mặt UBND : Ủy ban nhân dân
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó có hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế TNCN nói riêng là việc hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ X về chính sách thuế theo hướng “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển ”, Quốc hội đã thông qua Luật thuế TNCN ngày 21 tháng 11 năm 2007 và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế TNCN năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 nhằm mục đích đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập trong xã hội và khuyến khích mọi cá nhân lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập để làm giàu chính đáng. Tuy nhiên để luật thuế TNCN phát huy tính hiệu quả và mục tiêu ban đầu đã được đặt ra thì yếu tố quyết định chính là công tác quản lý thuế TNCN. Hiện nay, khi nền kinh tế của nước ta đang ngày càng phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, cũng ngày càng gia tăng; thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến việc thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN. Thuế TNCN cũng như các sắc thuế khác đều góp phần ổn định thu cho NSNN trong quá trình hội nhập. Vì vậy, việc quản lý thuế TNCN cần phải từng bước thực hiện được việc quản lý các đối tượng nộp thuế, các khâu trong quá trình thực hiện việc thu thuế, tiến tới kiểm soát được thu nhập nhưng vẫn phải đảm bảo tính công bằng, minh bạch và công 1
- khai, nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ cho công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, mà cụ thể là Chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Trên thực tế, luật thuế TNCN đã được triển khai thực hiện trong hơn sáu năm qua, với rất nhiều những quy định mới về đối tượng nộp thuế, hay thu nhập chịu thuế TNCN, được cụ thể hoá trong luật theo hướng hoàn thiện hơn, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Vậy là, ứng với những điểm mới của luật thuế TNCN, cũng cần phải có những quy định mới trong việc quản lý thuế TNCN, sao cho việc quản lý đạt được hiệu quả tốt nhất, tránh tình trạng “thất thu thuế” đã và đang diễn ra trong thực tiễn. Vấn đề đặt ra ở đây là: việc cụ thể hoá công tác quản lý thuế TNCN trong các văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện như thế nào? Thực trạng của pháp luật về quản lý thuế TNCN ra sao? Và đâu là giải pháp để khắc phục phần nào những thực trạng đó? Xuất phát từ sự cần thiết của pháp luật trong công tác quản lý thuế TNCN, cũng như từ những vấn đề phát sinh thực tế trong việc thực thi pháp luật về quản lý thuế TNCN ở trên, nên tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý thuế và các chính sách thuế ở Việt Nam khá đa dạng. Có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu như: Đề tài luận án tiến sĩ luật học: “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2012 của tác giả Vũ Văn Cương; Luận án tiến sĩ kinh tế “Quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện HNKTQT” năm 2011 của tác giả Nguyễn Thị Thùy Dương; Luận án tiến sĩ kinh tế “Quản lý thuế TNCN ở Việt Nam trong điều kiện HNKTQT” năm 2010 của tác giả Lý Phương Duyên; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp” năm 2013 của tác giả Tạ Minh Hảo; Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc 2
- tế” năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh; Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay” năm 2010 của tác giả Đoàn Quang Thành; Khóa luận tốt nghiệp “Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện” năm 2010 của tác giả Nguyễn Thị Thơm; Các nghiên cứu ở trên không còn mang tính cập nhật, không phản ánh được những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn hiện nay. Hệ thống pháp luật về quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng đã có những thay đổi để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN số 26/2012/QH13; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 đã mang đến nhiều điểm mới trong quy định của pháp luật về các chính sách thuế cũng như công tác quản lý thuế. Do đó, các công trình nghiên cứu trước đây đã không còn “tính thời sự”. Hơn nữa, không có nhiều công trình nghiên cứu sâu về lĩnh vực pháp luật quản lý thuế TNCN từ khi có Luật số 71/2014/QH13. Trên cơ sở kế thừa những đóng góp của các công trình nghiên cứu trước về pháp luật quản lý thuế TNCN, luận văn tiếp tục giải quyết những vấn đề về mặt pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế TNCN ở thời điểm hiện tại, từ đó đưa ra những giải pháp góp phần đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng ở Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu Với việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, tác giả mong muốn, trước hết là tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề này và thực tế, các quy định đó đã và đang được áp dụng như thế nào? Sau khi đã có một cách nhìn tổng quát về quản lý thuế TNCN, cùng với việc đưa ra những kiến nghị giải pháp để hoàn thiện các vấn đề pháp lý; luận văn sẽ mang đến “cách nhìn chân thực nhất”, qua đó, cơ quan Nhà nước sẽ có những định hướng cũng như có thể khắc phục được những mặt hạn chế của pháp luật thuế TNCN, giúp cho việc quản lý các đối tượng nộp thuế được tốt hơn, góp phần ổn định nguồn thu lâu dài cho NSNN. 3
- Luận văn sẽ hướng tới những mục tiêu cụ thể sau: - Phân tích những quy định pháp luật, từ đó nhận xét và đánh giá việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, những mặt đã đạt được và những mặt hạn chế của các quy định pháp luật trong công tác quản lý thuế TNCN. - Nghiên cứu những quy định pháp luật về quản lý thuế TNCN của Việt Nam so với một số quốc gia khác trên thế giới từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Thông qua việc phân tích thực trạng, và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần cải thiện và nâng cao hiệu lực thi hành, hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật quản lý thuế TNCN, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý thuế TNCN. Việc thực thi các quy định pháp luật đó trong thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Xét về mặt lý luận: phạm vi nghiên cứu đề tài là trong khuôn khổ những quy định pháp luật về quản lý thuế và pháp luật về thuế TNCN. Bên cạnh đó, luận văn cũng tham khảo thêm những kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài về pháp luật quản lý thuế TNCN. Xét về mặt thực tiễn những số liệu được thống kê đề cập tới trong nội dung các phần phân tích được cập nhật từ thực tiễn tại một số chi cục thuế trong cả nước. Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý thuế TNCN của Nhà nước đối với các chủ thể nộp thuế mà không tiếp cận vấn đề quản lý thuế của bản thân các đối tượng nộp thuế. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê, khảo sát thực tế, Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê: nghiên cứu thực tiễn áp dụng của luật thuế TNCN qua các số liệu, thống kê thu thập được. Phương pháp hệ thống: coi pháp luật quản lý thuế TNCN là một bộ phận cấu thành của pháp luật quản lý thuế để tiến hành nghiên cứu. 4
- Phương pháp so sánh: Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định của pháp luật nước ngoài về thuế TNCN, qua đó học hỏi kinh nghiệm và rút ra những “bài học” để sửa đổi các quy định pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia mình, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thuế TNCN ở Việt Nam. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Trong lĩnh vực luật thuế TNCN, đã có nhiều những bài viết, những đề tài nghiên cứu. Nhưng, nội dung chính của những nghiên cứu ấy thường tập trung xoay quanh những vấn đề chung của luật thuế TNCN, cũng như thường tiếp cận dưới góc độ quản lý đơn thuần, hoặc một khía cạnh của luật thuế, những bất cập của pháp luật thuế TNCN; chứ chưa tập trung khai thác sâu dưới góc độ pháp lý về vấn đề quản lý thuế TNCN. Vì vậy, nội dung nghiên cứu của luận văn này có tính mới hơn so với những đề tài trước đó, thêm nữa, dựa trên tinh thần của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN số 26/2012/QH13 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13, nên trong bài phân tích sẽ tập trung vào các quy định pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung và các số liệu được cập nhật gần với thực tiễn hơn so với những công trình nghiên cứu trước. Những đóng góp khoa học của đề tài: - Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết về hoạt động quản lý thuế TNCN nói chung và pháp luật về quản lý thuế TNCN nói riêng. - Làm sáng tỏ thực trạng pháp luật quản lý thuế TNCN của nước ta từ khi luật thuế TNCN có hiệu lực cho đến nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế TNCN và góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế TNCN ở nước ta trong thời kỳ hội nhập. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính của luận văn được kết cấu thành ba chương Chương 1: Khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân 5
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1.1. Khái quát về quản lý thuế thu nhập cá nhân 1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế là các cá nhân trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản TNCN, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế TNCN được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, Pháp 1916 và Liên Xô năm 1922 [46]. Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế: (1) Có nước tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân, (2) có nước tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình: Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào NSNN. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả và đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu ăn theo. Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan Các chuyên gia cho rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập 6
- khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách thứ hai. Như vậy: Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế [45]. Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo quy định của pháp luật thuế TNCN. Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế TNDN ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình NNT, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế 7
- TNCN nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972. Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 11 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và để nâng cao hơn nữa tính chất quan trọng cùng với việc phải có các biện pháp chế tài đủ mạnh để thực hiện thu thuế TNCN được đi vào ổn định, có hiệu quả, công bằng, tại kỳ họp Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12-Luật thuế TNCN, luật này đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Sau gần sáu năm thực hiện luật, trước yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số nội dung của Luật đã tỏ ra bất cập, cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, ngày 22/11/2012, Quốc hội XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN và Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 luật sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế để giải quyết phần nào những tồn tại của luật thuế TNCN ở Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm quản lý thuế thu nhập cá nhân Quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng là lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Vì vậy, để làm rõ khái niệm quản lý thuế và quản lý thuế TNCN, trước hết cần tìm hiểu khái niệm quản lý. Theo từ điển Tiếng Việt, “Quản lý là trông coi và điều khiển các hoạt động nào đó theo những yêu cầu nhất định”. Trong cuốn giải thích thuật ngữ pháp lý Việt Nam thì giải thích: “Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức. Nó nhằm chỉ một tập hợp các hoạt động cần thiết phải được thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu chung” [21]. Các khái niệm đều chỉ ra rằng quản lý là nói đến hoạt động của con người nhằm thực hiện những mục tiêu đã định thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp, kiểm soát và thúc đẩy hoạt động của những con người trong tổ chức đó. 8
- Quản lý thuế là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành thuộc quản lý hành chính Nhà nước. Trong cuốn “Tài chính công” của Khoa Tài chính Nhà nước Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2005) thì “Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu NSNN thực hiện” “Đó là những hoạt động thường xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật định”. Với quan niệm như vậy, quản lý thuế là quản lý thu thuế. Nó bao gồm xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ chức các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế [47]. Xuất phát từ những phân tích trên, theo tác giả “quản lý thuế là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp tác động lên đối tượng của quản lý thuế làm cho chúng vận động phù hợp với mục tiêu đặt ra”. Như vậy, quản lý thuế bao gồm cả hoạt động xây dựng chính sách thuế, ban hành pháp luật thuế và hoạt động tổ chức hành thu, xây dựng lực lượng thuế có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao để đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Các vấn đề về chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải được xác định đúng đắn. Khái niệm quản lý thuế TNCN cũng không nằm ngoài khái niệm chung về quản lý thuế, theo đó “quản lý thuế TNCN là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp quản lý thuế TNCN tác động lên quan hệ phát sinh trong quản lý thuế TNCN làm cho chúng vận động theo đúng quỹ đạo mong muốn của nhà quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế TNCN” [17]. Theo đó, khái niệm trên đã chỉ rõ: Chủ thể quản lý thuế TNCN là Nhà nước. Quan hệ phát sinh trong quản lý thuế TNCN là các quan hệ phát sinh trước, trong và sau khi triển khai tổ chức thu, nộp thuế TNCN cho Nhà nước. Công cụ của quản lý thuế TNCN là pháp luật, kế hoạch, chính sách và một số công cụ khác. Phương pháp quản lý thuế TNCN gồm các phương pháp như: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục Quản lý thuế TNCN hướng tới mục tiêu tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN, tối thiểu hóa chi phí nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của NNT. 9
- Tóm lại, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng là một trong các nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong đó các cơ quan quản lý thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải quan đóng vai trò chủ đạo. Thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý thuế có tác động tích cực tới quá trình thu, nộp thuế, tránh thất thoát nguồn NSNN. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân Hoạt động quản lý thuế TNCN chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố này tác động dưới hai dạng: khách quan và chủ quan. Nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế là phải hiểu rõ các yếu tố có ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý thuế TNCN, để từ đó xây dựng chương trình kế hoạch hạn chế những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực. Qua đó, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN trong thực tiễn. 1.1.3.1. Các yếu tố khách quan Chính sách pháp luật của Nhà nước về hệ thống thuế, trong đó có thuế TNCN Quan điểm của các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng trước hết tới các chính sách thuế TNCN, sau đó là tới quá trình thực hiện và các công việc khác thuộc phạm vi quản lý sắc thuế này. Pháp luật thể hiện quan điểm của giai cấp thông trị. Luật thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng cũng không ngoại lệ. Một Nhà nước chú trọng công bằng hơn hiệu quả kinh tế sẽ có chính sách điều tiết mạnh vào người có thu nhập cao, mức thuế suất sẽ tăng rất nhanh theo lượng thu nhập tăng thêm. Điều này thông thường sẽ làm giảm nỗ lực làm việc của cá nhân có thu nhập cao. Nhìn chung, hiệu quả kinh tế sẽ giảm. Ngược lại, Nhà nước chú trong hiệu quả kinh tế hơn thì thuế TNCN sẽ điều tiết ít vào những người có thu nhập cao, tạo điều kiện cho họ hăng hái làm việc, tạo thêm thu nhập cho xã hội. Theo đó, các chính sách pháp luật ra đời; ứng với mỗi quan điểm ở trên sẽ là những chính sách thuế khác nhau, và do đó pháp luật quản lý thuế cũng phải thay đổi cho phù hợp. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế TNCN Các văn bản pháp luật về thuế TNCN là cơ sở pháp lý để hướng dẫn NNT thực hiện nghĩa vụ về thuế và là căn cứ để kiểm tra, xử phạt các trường hợp vi 10
- phạm. Hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh và phù hợp sẽ tăng tính hiệu quả của công tác quản lý trong thực tiễn. Ngược lại, nếu không có đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật về thuế TNCN sẽ gây khó khăn trong công tác quản lý, dễ dẫn đến tình trạng thất thu thuế cho NSNN. Điều kiện kinh tế Hiệu quả của pháp luật quản lý thu thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu vực, số đối tượng nộp thuế thu nhập nhiều sẽ giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được, ngược lại có ít đối tượng nộp thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả hơn. Ở các nước phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao nên thuế TNCN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách. Việc quản lý đối tượng nộp thuế thông qua việc thanh toán không dùng tiền mặt chính là yếu tố quan trọng trong công tác quản lý thuế TNCN. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đi kèm với phát triển hình thức thanh toán qua tài khoản. Điều này chỉ được thực hiện dễ dàng ở những nước có nền kinh tế phát triển. Ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế. Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra. Chính vì vậy, công tác quản lý thu thuế và thanh tra thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế là một trong những điều kiện quan trọng trong thực hiện hoạt động quản lý thuế TNCN. 1.1.3.2. Các yếu tố chủ quan Cơ sở vật chất của ngành thuế Nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác quản lý thuế TNCN. Những quy định trong chính sách về diện thu thuế (rộng hay hẹp), phương thức kê khai, 11
- nộp thuế, quyết toán thuế phụ thuộc rất nhiều vào khả năng đáp ứng của ngành thuế. Khả năng này lại phụ thuộc rất lớn vào cơ sở vật chất của ngành thuế. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế càng hiện đại, quy trình quản lý chặt chẽ, bộ máy quản lý thống nhất, đồng bộ thì hoạt động quản lý thuế TNCN càng nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm thời gian, chi phí và hiệu quả. Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo cán bộ thuế Trình độ đội ngũ cán bộ thuế đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế, đặc biệt là thuế TNCN. Nhân tố này tác động vào tất cả các nội dung của công tác quản lý thuế TNCN, từ ban hành chính sách, tổ chức thực hiện chính sách tới thanh tra thuế, tổ chức bộ máy quản lý thuế. Để có thể ban hành những chính sách thuế đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của những thay đổi kinh tế xã hội và đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý thuế TNCN thì đội ngũ cán bộ thuế cần phải có trình độ cao về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn. Bên cạnh trình độ chuyên môn thì đạo đức của mỗi cán bộ thuế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động quản lý thuế TNCN. Mềm dẻo, linh hoạt không hách dịch, cửa quyền sẽ là “chìa khóa” để dẫn tới “thành công” trong công tác quản lý thuế nói chung [24]. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật thuế TNCN, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về pháp luật thuế TNCN sẽ giúp NNT kịp thời cập nhật các chính sách pháp luật về thuế, từ đó có ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế. Bên cạnh việc tuyên truyền thì cũng cần có những biện pháp, chế tài để xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế TNCN, cũng như có các hình thức kiểm tra, thanh tra kịp thời nhằm ngăn chặn những hành vi sai phạm trong việc kê khai thuế TNCN của đối tượng nộp thuế, cũng như các sai phạm của cán bộ thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền. Qua đó, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của NNT, cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ thuế, giảm các hiện tượng tiêu cực trong quản lý thuế TNCN. 12
- 1.2. Khái niệm, nội dung của pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân 1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân Pháp luật quản lý thuế là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế ở mỗi quốc gia, là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để thực hiện công tác quản lý thuế. Quan hệ thu, nộp giữa Nhà nước và dân cư được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Trên thế giới có hai xu hướng ban hành pháp luật về thuế phổ biến: một là quy định gộp các sắc thuế trong một bộ luật chung về thuế, gọi là thuế vụ; hai là ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế. Mỗi xu hướng đều có những ưu, nhược điểm khác nhau và mỗi quốc gia sẽ lựa chọn một cách xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước mình. Dù được xây dựng, thiết kế theo nguyên tắc nào thì luật quản lý thuế bao giờ cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc quản lý, điều hành chính sách thuế hay luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện các luật thuế. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của các luật về chính sách thuế phụ thuộc khá lớn vào luật quản lý thuế. Các đạo luật thuế chính là pháp luật nội dung, còn pháp luật quản lý thuế là pháp luật thủ tục [23]. Việc đưa ra khái niệm pháp luật quản lý thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ xã hội do luật nội dung và luật thủ tục điều chỉnh, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. Tùy theo những cách hiểu khác nhau mà người ta có thể nhìn nhận và phân tích pháp luật quản lý thuế theo những căn cứ khác nhau. Từ những phân tích trên, pháp luật quản lý thuế có thể được định nghĩa như sau: Pháp luật quản lý thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với NNT và các đối tượng có liên quan nhằm hình thành nguồn thu NSNN phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu xác định trước. Để thực hiện hoạt động quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng, Nhà nước cần ban hành hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Tuy nhiên: Ranh giới giữa pháp luật quản lý thuế và pháp luật nội dung các 13