Luận văn Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 6340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_quan_ly_chat_thai_y_te_tu_thuc_tien_th.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM HỒNG NGỌC PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY HÀ NỘI - 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHẠM HỒNG NGỌC
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ 6 1.1. Những vấn đề chung về quản lý chất thải y tế 6 1.2. Những vấn đề chung về pháp luật quản lý chất thải y tế 22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ VÀ THỰC TIẾN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 34 2.1.Các quy định pháp luật về quản lý chất thải y tế và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội 35 2.2. Một số nhận định đánh giá về pháp luật quản lý chất thải y tế ở Việt Nam qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội 62 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ TẠI VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 70 3.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải y tế 71 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý chất thải y tế ở Việt Nam 73 KẾT LUẬN 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BV Bệnh viện BVMT Bảo vệ môi trường BYT Bộ Y tế CTYT Chất thải y tế CTRYT Chất thải rắn y tế SYT Sở Y tế
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Đảng, Quốc hội và Chính phủ luôn quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội gắn với coi trọng bảo vệ, cải thiện môi trường và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo tiền đề tốt để tăng cường công tác bảo vệ môi trường (BVMT) thời gian tới. Ngay từ nhưng năm 1960 vấn đề ô nhiễm môi trường đã tạo ra một thách thức đối với xã hội hiện đại. Ở phần lớn các quốc gia trên thế giới, đã có những quan điểm chung được các nhà khoa học đề cập tới, đó là những nguy cơ mà hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt do sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động của con người, bởi sự bùng nổ dân số và sự tác động của các công nghệ mà không phải lúc nào chúng ta cũng làm chủ được. Cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, thực trạng môi trường đang nảy sinh nhiều hệ lụy phức tạp. Lượng chất thải phát sinh ngày càng gia tăng đã và đang gây áp lực đến sức khỏe con người và môi trường . Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc hoàn thiện và tăng cường hệ thống pháp luật kiểm soát và bảo vệ môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng. Kiểm soát ô nhiễm môi trường tốt sẽ giảm thiểu các rủi ro gây tổn thương đối với cộng đồng trước các vấn đề môi trường nan giải, phục vụ cho việc hoạch định tốt các chính sách công của Đảng và Nhà nước. Kiểm soát ô nhiễm môi trường tốt sẽ đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của con người, giảm thiểu các chi phí cho việc khôi phục môi trường khi có ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường xảy ra, bớt chi phí và đồng nghĩa với việc quản lý môi trường có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo vệ môi trường nói chung, về kiểm soát ô nhiễm môi trường nói riêng đang là một yêu cầu cấp thiết để các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở Việt Nam không bị thua thiệt khi tham gia vào nền kinh tế thế giới. Một trong những thách thức về môi trường ở Việt Nam hiện nay là vấn đề xử lý chất thải – trong số đó phải kể đến Chất thải y tế ( CTYT ), loại chất thải tiềm tàng nhiều nguy cơ gây hại cho sức khoẻ con người cũng như cho môi trường. 1
  6. CTYT nếu không được phân loại, thu gom, xử lý đúng cách sẽ ẩn chứa nhiều mầm bệnh nguy hiểm lây lan đến sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, nó còn ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên đất, nước, không khí. Chính vì vậy việc quản lý xử lý CTYT trở thành vấn đề nóng bỏng trong công tác BVMT hiện nay. Đặc biệt tại Hà Nội một trong hai thành phố lớn nhất của cả nước, nơi tập trung rất nhiều các bệnh viện tuyến trung ương cũng như của địa phương. Vấn đề xử lý CTYT được các cấp chính quyền dành nhiều sự quan tâm, tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa thực sự tìm được giải pháp triệt để để giải quyết. Trước thực trạng trên để góp phần vào công cuộc bảo vệ môi trường sống, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Lĩnh vực bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm từ trước đến nay luôn dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia. Đặc biệt là về các khía cạnh pháp lý, bởi từ xưa đến nay pháp luật vẫn được xem như là công cụ quản lý hiệu quả nhất để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Khi đời sống con người nâng cao, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cũng ngày càng tăng. Chất thải y tế theo đó cũng càng nhiều hơn về số lượng. Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về quản lý chất thải y tế. Nhưng phần lớn các nghiên cứu ấy thiên về lĩnh vực khoa học quản lý môi trường, các nghiên cứu về khía cạnh pháp lý thì ít hơn. Vấn đề pháp luật quản lý chất thải y tế đặt trong mối liên quan đến lĩnh vực bảo vệ môi trường, có thể kể tên một số nghiên cứu như: Lê Thị Kim Oanh (2010), Bàn về áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” trong chính sách môi trường, Tạp chí khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng – Số 4 (39) năm 2010. Phạm Hữu Nghị, Bùi Đức Hiển (2011), “Các quy định pháp luật về thiệt hại, xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và định hướng xây dựng, hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2011, tr. 40 – 47; Nguyễn Võ Hinh (2013) , “Nguy cơ môi trường ô nhiễm ảnh hưởng sức khỏe do chất thải y tế”; Vũ Thị Duyên Thủy (2009), “Xây dựng và hoàn 2
  7. thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Bùi Kim Hiếu (2010), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Điểm chung của các công trình khoa học nêu trên là đều đề cập đến vấn đề môi trường dưới góc độ các quy định của pháp luật, trong đó có nhiều góc độ khác nhau cũng đã đề cập liên quan đến pháp luật về quản lý chất thải y tế. Khóa luận tốt nghiệp của Phạm Kim Thoa 2004 “Một số vấn đề pháp lý về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội” Đại học Luật Hà Nội, với quy mô là công trình khóa luận tốt nghiệp nên nghiên cứu vẫn còn chưa thực sự chuyên sâu. Khi đó Luật bảo vệ môi trường 2005 chưa ban hành, chất thải y tế được quản lý dựa trên quy chế quản lý 1999. Các giải pháp, lý luận cũng không còn nhiều ứng dụng so với thực tế hiện nay. Do đó có thể khẳng định đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là một đề tài mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quản lý CTYT, tổng hợp và hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý CTYT ở Việt Nam qua thực tiễn tại thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý CTYT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: +) Nghiên cứu về khái niệm có liên quan đến đề tài, bao gồm khái niệm chất thải, chất thải y tế, quản lý chất thải y tế và khái niệm về pháp luật quản lý CTYT +) Phân tích thực trạng quản lý CTYT trên địa bàn thành phố Hà Nội +) Tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về quản lý CTYT. +) Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quản lý CTYT. 3
  8. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài “ Pháp luật về quản lý chất thải y tế từ thực tiễn thành phố Hà Nội” chỉ nghiên cứu những vấn đề pháp lý về quản lý CTYT và không nghiên cứu các loại chất thải khác. Trên cơ sở đó tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về CTYT và thực tiễn Hà Nội mà không đi sâu vào những vấn đề có tính kỹ thuật, chuyên môn như phương pháp, công nghệ, thiết bị xử lý CTYT. Phạm vi nghiên cứu: tác giả đi sâu vào nghiên cứu khía cạnh pháp lý trong hoạt động quản lý CTYT diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước kết hợp với việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trong quá trình nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử, phương pháp phân tích ( sử dụng cho toàn luận văn ), phương pháp so sánh ( chủ yếu sử dụng cho chương 2 ), phương pháp thống kê ( chủ yếu cho chương 1, chương 2 ) 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Với những nội dung được trình bày, luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về quản lý chất thải y tế và pháp luật về quản lý nước thải y tế. Ý nghĩa thực tiễn: Là một đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về lĩnh vực quản lý chất thải y tế, tác giả hy vọng luận văn có giá trị tham khảo nhất định, trước hết đối với những người quan tâm về vấn đề quản lý chất thải y tế ở góc độ pháp lý và là nguồn tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học Luật Môi trường. Bên cạnh đó một só kiến nghị của đề tài còn là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật về quản lý chất thải y tế nói riêng. 4
  9. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 03 chương, với nội dung chính là: Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý chất thải y tế và pháp luật quản lý chất thải y tế. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý chất thải y tế và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải y tế tại Việt Nam qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội 5
  10. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ 1.1. Những vấn đề chung về quản lý chất thải y tế 1.1.1.Khái niệm, phân loại chất thải y tế Khái niệm chất thải y tế Chất thải y tế (CTYT) là một loại chất thải. Vì vậy để làm rõ khái niệm CTYT trước hết chúng ta phải tìm hiểu khái niệm chất thải. Với việc phát triển đất nước theo định hướng của nền kinh tế thị trường, tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nền kinh tế phát triển, đời sống con người được cải thiện, nhưng đi cùng với đó là nhiều hệ lụy phía sau. Vấn đề chất thải đang trở thành một nỗi lo lớn không chỉ với riêng nước ta mà cũng là vấn nạn lớn với toàn cầu. Dưới góc độ ngữ nghĩa chất thải được hiểu là những chất không còn sử dụng được nữa, bị con người thải ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải tồn tại trong thực tế rất đa dạng và phong phú, việc phân loại chất thải có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp, biện pháp quản lý cũng như trách nhiệm của các chủ thể quản lý chất thải. Căn cứ vào mức độ nguy hại chất thải được phân thành 02 loại: chất thải nguy hại và chất thải thông thường Căn cứ vào thành phần chất thải, chất thải được phân thành 02 loại: chất thải vô cơ và chất thải hữu cơ Căn cứ vào trạng thái tồn tại, chất thải được phân thành 03 loại: chất thải rắn, khí thải và nước thải Căn cứ vào nguồn phát sinh chất thải được phân thành: chất thải sinh hoạt – phát sinh từ các sinh hoạt hàng ngày của dân cư và các hoạt động phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ; chất thải công nghiệp –phát sinh từ hoạt động sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp; chất thải nông nghiệp – phát sinh từ hoạt động nông nghiệp như phân gia súc, gia cầm, xác thực vật và CTYT – phát sinh từ các hoạt động khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của các cơ sở y tế. 6
  11. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WH0) : “Chất thải y tế bao gồm toàn bộ chất thải từ các cơ sở y tế, các trung tâm nghiên cứu và các phòng thí nghiệm. Ngoài ra nó bao gồm cả các nguồn rác thải nhỏ và rải rác từ các hoạt động y tế diễn ra tại nhà như lọc máu, tiêm insulin vv” [37] Theo như định nghĩa trên ta thấy theo quan điểm của WHO thì chất thải y tế không chỉ phát sinh từ các cơ sở khám chữa bệnh mà còn từ các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm có liên quan đến hoạt động y tế, chăm sóc sức khỏe. Không những thế các chất thải phát sinh từ hoạt động y tế diễn ra tại nhà cũng được coi là CTYT. Như vậy theo WHO để xác định chất thải đó có phải là CTYT hay không chúng ta dựa vào tiêu chí nguồn phát sinh chất thải. Nếu chất thải đó từ những hoạt động y tế nhằm duy trì và khôi phục sức khỏe thì được gọi là CTYT. Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế (ICRC) lại nêu định nghĩa đơn giản về CTYT: “ Chất thải y tế bao gồm toàn bộ chất thải thải ra trong các hoạt động y tế và hoạt động chẩn đoán [38] Cũng như định nghĩa của WHO, định nghĩa của ICRC cũng chỉ ra tiêu chí để xác định chất thải y tế. CTYT được phát sinh trong các hoạt động y tế và chẩn đoán bệnh. Có thể nói nếu như WHO nêu ra cụ thể về các nguồn phát sinh chất thải y tế thì định nghĩa của ICRC chỉ nêu một cách khái quát. Theo như định nghĩa này tất cả các chất thải thải ra từ các hoạt động y tế và chẩn đoán bệnh không phân biệt địa điểm phát sinh đều được coi là chất thải y tế. Định nghĩa này cũng phù hợp với tiêu chí hoạt động của ICRC - hoạt động trên toàn thế giới để cung cấp trợ giúp nhân đạo cho những người bị ảnh hưởng bởi xung đột và bạo lực vũ trang và thúc đẩy pháp luật bảo vệ nạn nhân của chiến tranh. Cả WHO và ICRC đều chung nhận định trong từ 75 đến 90% CTYT thu gom được đều không chứa nguy cơ gây hại nào, được gọi là CTYT thông thường, tương đương như chất thải sinh hoạt.Từ 10% đến 25% chất thải còn lại chứa nguy cơ cao gây hại cho sức khỏe con người và môi trường gọi chung là CTYT nguy hại. Với loại chất thải nguy hại này cần có quy chế quản lý chặt chẽ nhằm đảm bảo giảm thiểu mọi nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường và con người. 7
  12. Theo định nghĩa của Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (USEPA) thì “chất thải y tế là tổng hợp các chất thải phát sinh từ các cơ sở y tế như bệnh viện, phòng khám bệnh, phòng khám nha khoa, ngân hàng máu, và phòng khám thú y, trạm y tế cũng như các trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm. Nói chung, những chất thải có khả năng chứa máu, dịch cơ thể hoặc các vật liệu có khả năng truyền nhiễm được quy định là chất thải y tế”[48] Như vậy về cơ bản theo quan điểm của Hoa Kỳ, CTYT cũng tương đồng với định nghĩa của WHO và ICRC, bên cạnh đó bổ sung chi tiết hơn về các nguồn phát sinh chất thải y tế. Ở Việt Nam, dưới góc độ pháp lý, định nghĩa về chất thải y tế đã chính thức được quy định lần đầu tiên tại Quy chế công tác xử lý chất thải, ban hành bởi Bộ Y tế theo quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT theo đó: “Chất thải bệnh viện bao gồm chất rắn, lỏng, khí; là những chất được thải ra trong quá trình điều trị, chẩn đoán, chăm sóc và sinh hoạt. Chất thải bệnh viện có đặc tính lý học, hóa học và sinh học vừa là nguồn gây ô nhiễm môi trường vừa là nguồn gây bệnh; vì vậy xử lý và kiểm soát nghiêm ngặt chất thải là nhiệm vụ quan trọng của bệnh viện”. Có thể nói cách tiếp cận này gần như đồng nhất với quan điểm của WHO tuy nhiên lại chỉ ra rõ CTYT có thể tồn tại ở các dạng rắn, lỏng, khí. Các dạng tồn tại của CTYT đều không được quy định rõ trong định nghĩa của WHO, ICRC hay USEPA. Cách hiểu này lại một lần nữa được khẳng định lại trong Quy chế quản lý chất thải y tế (Ban hành kèm theo Quyết định số 2575/1999/QĐ-BYT ngày 27 tháng 8 năm 1999 Của Bộ trưởng Bộ Y tế) . Tại khoản 2, điều 1 Quy chế này có quy định “Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế từ hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên cứu, đào tạo. Chất thải y tế có thể ở dạng Rắn, Lỏng, Khí”. Cùng với những đòi hỏi ngày càng cao của quản lý CTYT bằng pháp luật, đến năm 2007, định nghĩa này một lần nữa được chỉnh sửa và quy định tại Quy chế Quản lý chất thải y tế - Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế (sau đây gọi tắt là quy chế 43). Tại khoản 1, điều 3 Quy chế này quy định “Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải 8
  13. ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.” Điều khác biệt so với định nghĩa năm 1999 có thể dễ dàng nhận ra khi pháp luật quy định CTYT là “vật chất” chứ không khẳng định là “chất thải” như trước đây. Từ định nghĩa này CTYT tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể được coi là chất thải. Và định nghĩa mới nhất về chất thải y tế được quy định tại khoản 1 điều 3 thông tư liên tịch 58/2015/ TTLT-BYT-BTNMT( sau đây gọi tắt là thông tư 58 ) thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên – Môi trường theo đó “Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động của các cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế thông thường và nước thải y tế.”. Tại thông tư cũng quy định rõ thế nào được gọi là cơ sở y tế tại khoản 7, điều 1: “Cơ sở y tế bao gồm: cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (trừ phòng khám bác sĩ gia đình; phòng chẩn trị y học cổ truyền; cơ sở dịch vụ đếm mạch, đo nhiệt độ, đo huyết áp; chăm sóc sức khỏe tại nhà; cơ sở dịch vụ hỗ trợ vận chuyển người bệnh trong nước và ra nước ngoài; cơ sở dịch vụ kính thuốc; cơ sở dịch vụ làm răng giả; bệnh xá; y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức); cơ sở y tế dự phòng; cơ sở đào tạo và cơ sở nghiên cứu có thực hiện các xét nghiệm về y học.” Với quy định về cơ sở y tế như trên thì nguồn phát sinh CTYT được phân định có phần thu hẹp hơn so với quy định trước đây cũng như so với quy định của quốc tế. Theo quy định của Việt Nam, CTYT được phân chia thành 03 loại: chất thải y tế thông thường, chất thải y tế nguy hại và nước thải y tế. Việc phân chia này là cơ sở để có những quy chế quản lý phù hợp với từng loại CTYT. Tóm lại, cho đến nay, trên thế giới đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa về CTYT. Mặc dù có những khác biệt nhất định về ngôn từ và cách diễn đạt, song tổng hợp các định nghĩa nêu trên về CTYT cho thấy những dấu hiệu đặc trưng sau để nhận biết CTYT: i) CTYT mang toàn bộ đặc điểm chung của chất thải, tồn tại tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật 9
  14. chất không thể được coi là chất thải. Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ hoặc bị buộc phải thải bỏ; ii) Nguồn gốc phát sinh CTYT đó là từ hoạt động y tế. Đây là tiêu chí chính để phân biệt chất thải y tế với các chất thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt khác. Phân loại chất thải y tế Trong hoạt động hàng ngày chữa trị cho bệnh nhân, các bệnh viện, cơ sở y tế thải ra một lượng khá lớn chất thải. Tùy theo quan điểm khác nhau mà người ta có thể chia CTYT thành những loại khác nhau. Theo nguồn gốc phát sinh CTYT được chia thành 03 loại: chất thải sinh ra từ các hoạt động chuyên môn của bệnh viện, chất thải sinh hoạt từ bệnh nhân và chất thải sinh hoạt chung. Căn cứ vào các đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính chất nguy hại chất thải trong các cơ sở y tế được phân thành các nhóm sau đây: i) Chất thải lây nhiễm, được chia thành 4 loại: - Chất thải lây nhiễm sắc nhọn: là chất thải lây nhiễm có thể gây ra các vết cắt hoặc xuyên thủng bao gồm: kim tiêm; bơm liền kim tiêm; đầu sắc nhọn của dây truyền; kim chọc dò; kim châm cứu; lưỡi dao mổ; đinh, cưa dùng trong phẫu thuật và các vật sắc nhọn khác; - Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn: bao gồm: Chất thải thấm, dính, chứa máu hoặc dịch sinh học của cơ thể; các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly; - Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao: là chất thải phát sinh trong các phòng xét nghiệm như mẫu bệnh phẩm; dụng cụ đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm - Chất thải giải phẫu: bao gồm mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác động vật thí nghiệm ii) Chất thải nguy hại không lây nhiễm bao gồm: Hóa chất thải bỏ bao gồm hoặc có các thành phần nguy hại; Dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất; Thiết bị y tế vỡ, hỏng, đã qua sử dụng 10
  15. thải bỏ có chứa thủy nhân và các kim loại nặng; chất hàn răng amalgam thải bỏ và chất thải nguy hại khác theo quy định pháp luật iii) Chất thải y tế thông thường : là chất thải không thuộc danh mục CTYT nguy hại hoặc thuộc danh mục CTYT nguy hại nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại bao gồm: Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh ( trừ các buồng bệnh cách ly); chất thải phát sinh từ các hoạt độn chuyên môn y tế như trong các chai lọ thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các bột bó trong gãy xương kín, những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại; chất thải phát sinh từ các công việc hành chính như giấy, báo, tài liệu, vật liệu đóng gói, thùng cacton, túi nilon, túi đựng phim; chất thải ngoại cảnh như lá cây và rác trong các cơ sở y tế. Trong cách phân loại này chưa đề cập nhiều đến nước thải và khí thải y tế. Nước thải y tế bao gồm: nước thải sinh hoạt là loại nước thải có thành phần, tính chất như nước thải đô thị; nước thải từ các khu vực xét nghiệm, chuẩn và điều trị, nước thải từ khoa ngoại, nước thải từ khu xét nghiệm và chụp X quang, nước thải từ khu khám và điều trị, nước thải từ khu bào chế dược, nước thải từ khu giải phẫu tử thi – đây là nhóm nước thải có lưu lượng không lớn, thành phần chủ yếu gồm các hợp chất hữu cơ, các chất lơ lửng và các hóa chất mang tính dược liệu và có các vi trùng gây bệnh đặc trưng; nước thải bị nhiễm phóng xạ phát sinh từ khoa chụp X quang, đặc tính của nước này là nhiễm phóng xạ hoạt tính thấp, các loại dung dịch có chứa phóng xạ phát sinh trong quá trình chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu của bệnh nhân, chất bài tiết, nước xúc rửa dụng cụ có chứa phóng xạ; nước thải từ khoa lây có chứa các hợp chất hữu cơ, chất lơ lửng, các hóa chất dược liệu, vi trùng gây bệnh; nước thải nhà giặt và nước vệ sinh lau rửa sàn nhà có chứa các hợp chất hữu cơ, chất lơ lửng và các chất tẩy rửa. [27] 1.1.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với môi trường: Ở Việt Nam, mỗi ngày có 120 nghìn m3 nước thải y tế được thải ra, 350 - 400 tấn chất thải y tế, trong đó, 42 tấn chất thải y tế độc hại cần được xử lý [40]. Điều 11
  16. đó cho thấy nếu không khống chế được lượng rác thải cùng với cách xử lý thì rác thải y tế chính là 1 hiểm họa lớn đối với môi trường. Ảnh hưởng rõ nhất của CTYT tới môi trường thể hiễn rõ nhất ở việc gây ô nhiễm nguồn nước mặt – nguồn nước sinh hoạt của nhân dân, thậm chí nhiều nơi còn ứ đọng thẩm thấu ảnh hưởng vào nguồn nước ngầm. Nước thải bệnh viện chứa lượng lớn vi khuẩn trung bình trong một lít nước thải bệnh viện có từ 5000 đến 10.000 virus gây bệnh , 10-15 trứng đũa giun đặc biệt là nước thải từ khoa lây nhiễm. Nước thải y tế chính là nguồn nguy cơ lây nhiễm khuẩn như e.coli, phẩy khuẩn, liên cầu, tụ cầu ; nguy cơ nhiễm virus chủ yếu là virus đường tiêu hóa, rotavirus, viêm gan A ; nguy cơ nhiễm ký sinh trùng như amip, lambli, trứng giun sán Nguy cơ chất thải độc hại có trong chất thải thải bệnh viện có thể làm cho nguồn nước của môi trường sống bị nhiễm bẩn. Chúng có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh, kim loại nặng, chủ yếu là chất thủy ngân từ nhiệt kế bị vỡ và chất bạc từ quá trình tráng rửa phim X quang. Ngoài ra một số loại dược phẩm được thải ra mà không qua xử lý cũng có thể gây nhiễm độc nguồn nước cung cấp. Đồng thời việc xả nước thải bừa bãi các chất thải lâm sàng như xả chung nước thải lây nhiễm vào hệ thống nước thải thông thường có thể tiềm ẩn yếu tố nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước do làm tăng chất hữu cơ BOD (biochemical oxygen demand). [40] Xử lý chất thải rắn y tế (CTRYT) là một vấn đề hết sức phức tạp, không phải bệnh viện nào cũng có đủ điều kiện để xử lý. Nơi lưu giữ CTRYT sau khi được phân loại, thu gom nếu không đảm bảo điều kiện vệ sinh nhiều loại côn trùng, gặm nhấm xâm nhập thì đây chính là những tác nhân trung gian mang mầm bệnh phát tán ra bên ngoài. Các CTYT nguy hại như bông băng, gạc nhiễm khuẩn, hóa chất độc hại không được tiêu hủy đảm bảo an toàn như chất tro trong lò đốt chất thải hay chất bùn của hệ thống xử lý nước thải sẽ là yếu tố làm ảnh hưởng đến môi trường. Các chất ô nhiễm từ các bãi rác có khả năng rò rỉ, thoát ra bên ngoài gây ô nhiễm nguồn nước và đất. Từ đây chúng tác động, ảnh hưởng đến sức sức khỏe cộng đồng người dân về lâu về dài. 12
  17. Nguy cơ chất thải y tế còn ảnh hưởng đến môi trường không khí vì sự ô nhiễm không khí được tăng lên do phần lớn chất thải nguy hại đều được thiêu đốt ở trong điều kiện không lý tưởng, không đạt yêu cầu. Việc thiêu đốt chất thải y tế không đủ nhiệt độ trong khi rác thải đưa vào quá nhiều trong lò đốt sẽ gây ra nhiều khói đen. Nếu đốt chất thải y tế đựng trong các túi nhựa nylon PCV cùng với các lại dược phẩm nhất định có thể tạo ra khí axít, thường là khí HCl và SO2. Trong quá trình đốt, các dẫn xuất halogen như F, Ch, Br, I ở nhiệt độ thấp thường tạo ra axít như hydrochloride. Điều này dẫn đến nguy cơ tạo nên chất doxin va furan, một loại hóa chất vô cùng độc hại ngay cả ở nồng độ thấp. Ngoài ra, các kim loại nặng như thủy ngân cũng có thể phát tán, thải ra theo khí thoát của lò đốt. Nguy cơ ảnh hưởng của môi trường có thể tác động đến hệ sinh thái và sức khỏe của con người trong thời gian dài. Ảnh hưởng của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng Việc tiếp xúc với CTYT có thể gây ra những tổn thương và bệnh tật. Nhóm đối tượng có nguy cơ cao bao gồm các cán bộ, nhân viên y tế như bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên; bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và khách đến thăm nuôi người bệnh. Ngoài ra, công nhân làm việc trong bộ phận hỗ trợ thu gom chất thải, vận chuyển rác, giặt là; công nhân trong cơ sở xử lý và tiêu hủy chất thải như bãi rác hoặc lò đốt, kể cả những những người lượm nhặt rác đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi CTYT. Với số lượng lớn vi sinh vật có trong CTYT, chúng có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua nhiều đường khác nhau như vết thương, vết cắt trên da, niêm mạc; hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hóa Sự xuất hiện các loại vi khuẩn kháng kháng sinh và kháng hóa chất khử khuẩn có thể liên quan đến thực trạng quản lý, xử lý chất thải y tế không an toàn. Vật sắc nhọn không chỉ gây ra vết thương trên da mà chúng còn gây nhiễm trùng vết thương nếu chúng bị nhiễm bẩn. Thương tích do vật sắc nhọn gây nên là một loại tai nạn thương tích thường gặp trong các cơ sở y tế, bệnh viện. Trước đây, một khảo sát của Viện Y học lao động và môi trường ghi nhận 35% số cán bộ, nhân viên y tế bị thương tích do vật sắc nhọn gây nên và 70% 13
  18. trong số đó bị tổn thương do vật sắc nhọn trong sự nghiệp y tế. Sự tổn thương do vật sắc nhọn sử dụng trong y tế có khả năng lây truyền các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm như HIV, HBV và HCV. Theo thống kê có khoảng 80% nhiễm trùng HIV, HBV, HCV nghề nghiệp là do thương tích vì vật sắc nhọn và kim tiêm. Ngoài ra, việc tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý không an toàn chất thải y tế lây nhiễm bao gồm cả chất nhựa và các vật sắc nhọn có thể có tác động lâu dài đến sức khỏe của cộng đồng người dân. [27] Trong quá trình thu gom, vận chuyển và lưu giữ; chất thải y tế nguy hại có thể bị rò rỉ, giải thoát, đổ tràn ra môi trường chung quanh. Việc rơi vãi các chất thải y tế lây nhiễm, đặc biệt là loại chất thải lây nhiễm có nguy cơ cao có thể làm lây lan mầm bệnh trong cơ sở y tế và bệnh viện gây nên đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện đối với cán bộ, nhân viên y tế; bệnh nhân, người nhà bệnh nhân; kể cả việc gây ô nhiễm môi trường đất và nước tại chỗ. Nguy cơ chất thải y tế gây độc tế bào gồm nhiều loại thuốc điều trị chống ung thư. Chúng có thể kích thích hay gây tổn thương cục bộ trên da và mắt; cũng có thể gây chóng mặt, buồn nôn, đau đầu và viêm da. Nhân viên bệnh viện, đặc biệt là những người chịu trách nhiệm thu gom chất thải loại này có thể bị phơi nhiễm các thuốc điều trị chống ung thư do hít thở hoặc hấp thu các hạt lơ lửng trong không khí qua đường hô hấp. Ngoài ra, các thuốc gây độc tế bào như thuốc chống ung thư cũng có thể hấp thu qua da, qua đường tiêu hóa do thực phẩm vô tình bị nhiễm bẩn. Nguy cơ chất thải phóng xạ dùng trong y tế cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiếp xúc. Cách thức tiếp xúc và thời gian tiếp xúc với chất thải phóng xạ là các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đối với sức khỏe được biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn cho đến các vấn đề bị đột biến về gen sau này.[40] Không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, CTYT cũng là một nguyên nhân gây ảnh hưởng tới nền kinh tế. Việc lỏng lẻo trong quy chế quản lý CTYT cũng dẫn đến nhà nước ta phải chi một khoản kinh phí lớn nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường do CTYT gây ra. Bên cạnh đó, nếu không quản lý chặt chẽ mầm bệnh, 14
  19. có thể gây nên đại dịch bùng phát khắp địa phương cũng như cả nước, ảnh hưởng đến ngành du lịch và dịch vụ do e ngại nhiễm bệnh gây nên. Tóm lại, CTYT đã và đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và đời sống con người. Việc làm cho người dân đặc biệt là các cơ quan y tế ý thức được trách nhiệm phải bảo vệ môi trường nói chung và quản lý CTYT nói riêng được coi là một yêu cầu cấp bách hiện nay. 1.1.3. Khái niệm quản lý chất thải y tế Khái niệm quản lý chất thải y tế: Xét về phương diện pháp lý, hoạt động quản lý CTYT được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, quản lý CTYT là quá trình Nhà nước bằng các cách thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác động đến hoạt động của các cơ sở y tế nói chung nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và khắc phục ô nhiễm môi trường do CTYT gây ra Theo nghĩa hẹp, quản lý CTYT là toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý CTYT của nhà nước bao gồm các hoạt động ban hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm nhằm kiểm soát, khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường do CTYT gây ra. Tại Việt Nam, trong quy chế quản lý CTYT 1999, có nêu khái niệm về quản lý CTYT nguy hại. Theo đó: “Quản lý chất thải y tế nguy hại là các hoạt động kiểm soát chất thải trong suốt quá trình từ khi chất thải phát sinh đến xử lý ban đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ và tiêu hủy chất thải y tế nguy hại.” Với cách quản lý này, CTYT sẽ được kiểm soát từ khi nó được phát sinh tại nguồn thải, đến việc thu gom, vận chuyển và xử lý, tiêu hủy cuối cùng. Cách quản lý này thực chất chưa thực sự hiệu quả, nhưng hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta thời điểm đó. Đó là khi trình độ quản lý và trình độ phát triển về khoa học kỹ thuật của Việt Nam trong bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế; khả năng đầu tư tài chính cho bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn thấp; và đặc biệt mức sống và nhận thức về bảo vệ môi trường của đại bộ phận người tiêu dùng Việt Nam còn ở mức thấp. 15