Luận văn Pháp luật về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay

pdf 83 trang vuhoa 25/08/2022 8260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfphap_luat_ve_nuoc_thai_cong_nghiep_o_viet_nam_hien_nay.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM . KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỤC THỊ THU PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2017
  2. VIỆN HÀN. LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỤC THỊ THU PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY Hà Nội, 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do tôi tự thực hiện. Các số liệu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn từ nguồn thông tin chính thống của Bộ Tài Nguyên Môi Trường và các Sở Tài Nguyên Môi Trường các tỉnh, Ủy ban nhân dân các tỉnh. Các kết quả trong luận văn do tôi tự tìm hiểu phân tích, chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Ngƣời cam đoan Lục Thị Thu
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP 9 1.1. Những vấn đề lý luận về nước thải công nghiệp 9 1.2. Những vấn đề lý luận về Pháp luật nước thải công nghiệp 20 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 29 2.1. Thực trạng quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong lĩnh vực nước thải công nghiệp 29 2.2 Thực trạng các quy định về định mức kinh tế - kĩ thuật điều tra, đánh giá hiện trạng xả nước thải và khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước 38 2.3. Thực trạng các quy định pháp luật về việc cấp phép xả thải đối với nước thải công nghiệp vào nguồn nước 40 2.4. Thực trạng quy định pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp 43 2.5. Thực trạng các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực nước thải công nghiệp 47 2.6. Xử lý vi phạm pháp luật về nước thải công nghiệp 51 2.7. Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong lĩnh vực nước thải công nghiệp 59 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ CƠ CHẾ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 62 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về nước thải công nghiệp 62 3.2. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay 68 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Từ viết tắt BVMT : Bảo vệ môi trường CCN : Cụm công nghiệp ĐTM : Đánh giá tác động môi trường KCN : Khu công nghiệp KCNC : Khu công nghiệp cao KCX : Khu chế xuất KKT : Khu kinh tế NTCN : Nước thải công nghiệp QCVN : Quy chuẩn Việt Nam TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam XLNT : Xử lý nước thải TNMT : Tài Nguyên và Môi Trường
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế toàn cầu. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là kêu gọi đầu tư nước ngoài, chú trọng phát triển công nghiệp đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, những năm gần đây, các KCN, KCX, KKT, KCNC, CCN (sau đây gọi chung là KCN) đươc hình thành nhiều về số lượng, lớn về quy mô. Việc xây dựng và phát triển các KCN là một hướng đi đúng đắn không những tạo ra các khu kinh tế phát triển đều khắp trên cả nước, mà còn tạo nên động lực đưa Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sự phát triển các KCN đã góp phần đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, phát huy được tiềm năng kinh tế của các vùng, miền, tạo sự phát triển cân đối giữa các khu vực. Hơn nữa, nhiều dự án trong các KCN (kể cả dự án có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước) có công nghệ sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh ngày càng cao. Tuy vậy, tốc độ phát triển khá nóng của nền kinh tế đã kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường. Tại các KCN công tác bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đồng bộ, nhiều nơi chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng quanh khu vực bị xả thải. Ô nhiễm môi trường gây ra rất nhiều hệ quả xấu cho kinh tế xã hội đất nước. Khối lượng chất thải công nghiệp gia tăng cùng sự phát triển kinh tế đất nước đang ngày càng trở thành vấn đề nghiêm trọng đe dọa đến chất lượng sống, ảnh hường đến quá trình phát triển kinh tế, đe dọa đến phát triển bền vững của con người. Chất thải đặc biệt là nước thải công nghiệp chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường đang gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng ở ven các KCN.Tình trang ô nhiễm này đang trở thành vấn đề nhức nhối lớn của toàn 1
  7. xã hội khi mà hệ lụy của nó không chỉ dừng lại ở việc làm bẩn nguồn nước sinh hoạt của người dân ven sông. Ô nhiễm nguồn nước tác động tiêu cực nên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, cả về mặt kinh tế, xã hội và chính trị. Về kinh tế, ô nhiễm môi trường làm mất kế sinh nhai của hàng loạt hộ dân ven lưu vực các con sông đặc biệt là những người làm nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, sản xuất nông lâm nghiệp. Hơn nữa, xả nước thải chưa qua xử lý còn tác động đến các ngành sản xuất khác, ảnh hưởng đến ngành du lịch quốc gia – một trong những ngành kinh tế mũi nhọn được ưu tiên phát triển, làm xấu đi hình ảnh của quốc gia và khiến cho nền kinh tế của Việt Nam kém hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Về mặt xã hội, nguồn nước ô nhiễm này còn làm ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng sống của người dân, hình thành các “làng ung thư” (nơi có nhiều người mắc bệnh ung thư do ô nhiễm nguồn nước) [46]. Hơn nữa khi người dân mất công ăn việc làm thì tất yếu có sự bất ổn xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng. Ngoài ra, một số vụ việc gần đây cho thấy việc doanh nghiệp xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện để các đối tượng chống phá nhà nước nhân cơ hội bôi nhọ uy tín danh dự của Đảng và Nhà nước tạo ra những bất ổn về chính trị. NTCN không được xử lý tác động tiêu cực đến toàn bộ đời sống xã hội của con người. Do đó, vấn đề quản lý NTCN và xử lý NTCN nhằm BVMT hiện nay cần được đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cũng dành sự quan tâm lớn cho môi trường, đặc biệt chú trọng đến công tác quản lý và xử lý NTCN. Từ năm 2004, Bộ chính trị ban hành Nghị Quyết số 41– NQTW năm 2004 về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo đó, Nghị Quyết chỉ ra việc “chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh” để từ đó đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, giải pháp và công tác tổ chức thực hiện quản lý, giám sát, xử lý nguồn NTCN. Theo 2
  8. sau Nghị Quyết số 41-NQTW, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 được ban hành kèm các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó đến nay, tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động, để đảm bảo chính sách pháp luật luôn theo sát, phù hợp với thực tiễn, Nhà nước ban hành Luật BVMT 2014 điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường. Hệ thống pháp luật môi trường ở Việt Nam nhìn chung là tiếp thu có chọn lọc từ hệ thống pháp luật những nước có nền khoa học kỹ thuật và khoa học pháp lý tiên tiến trên thế giới nên các quy định pháp luật đi trước và có sức ảnh hưởng tích cực đến xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng không tránh khỏi những bất cập, những quy định chồng chéo và những lỗ hổng chưa đươc quy định. Hệ thống văn bản pháp luật lĩnh vực môi trường khá nhiều nhưng văn bản điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực quản lý, xử lý nước thải công nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, những quy định Quy chuẩn, tiêu chuẩn về NTCN chưa được doanh nghiệp quan tâm, nghiêm túc thực hiện một phần bởi nền kinh tế Việt Nam đi theo xu hướng tập trung phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ - những doanh nghiệp có vốn ít, kinh nghiệm hoạt động, quản lý chưa nhiều. Chính vì vậy họ không quan tâm nhiều và đôi khi chính bản hân họ không có đủ năng lực (về mặt kinh tế và nhân sự) để thực hiện nghiêm các quy định của nhà nước về NTCN. Vì những tồn tại trên và mong muốn được đóng góp vào công cuộc bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo phát triển bền vững cho các thế hệ sau, người viết quyết định chọn đề tài: Pháp luật về nƣớc thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua tìm hiểu các thông tin dữ liệu hiện có tại các cơ sở đào tạo chuyên nghành luật học hiện nay (Học viện Khoa Học Xã Hội, Trường đại học Luật Hà Nôi, Trường đại học Luật TPHCM ) cho thấy một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực môi trường sau đây: 3
  9. - Trần Minh Đức (2006): “Pháp luật về quản lý chất thải ở Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hôi. - Phạm Thị Tường Vi (2006), “Pháp luật môi trường Việt Nam trong xu hướng thương mại hóa những vấn đề môi trường” Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh. - Võ Trung Tín (2008) Pháp luật về đánh giá tác động môi trường Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện” Luận văn Thạc sỹ Luật học Trường đại học Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh. - Bùi Kim HIếu (2010) “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam hiện nay” Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội. - Nguyễn Thanh Tú (2010) “Pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội. - Lê Thị Thu Hằng (2011) “Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh. - Nguyễn Minh Đường (2013) “Pháp luật về quản lý nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học Viện Khoa Học Xã Hội. Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay có một số các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý liên quan đến quy định pháp luật về NTCN. Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên là tập trung đề cập đến vấn đề môi trường từ khía cạnh pháp lý, trong đó ở nhiều góc độ khác nhau, người nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn đề pháp luật về NTCN. Đặc biệt, năm 2013, tác giả Nguyễn Minh Đường cũng đã thực hiện đề tài “Pháp luật về quản lý nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, công trình này chủ yếu nghiên cứu NTCN dược góc độ quản lý hành chính nhà nước, nghiên cứu các quy định, các cơ chế, chế tài xử phạt vi phạm hành chính mà không đề cập nhiều và đi sâu tìm hiểu nghĩa vụ của các doanh nghiệp như nghĩa vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường 4
  10. (ĐTM), Quy chuẩn, tiêu chuẩn về NTCN Các luận vă trên cũng không xuất phát từ những vướng mắc pháp lý của các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành xử lý nguồn NTCN mà hầu hết đều xuất phát từ vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp. Do đó, các đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cũng chỉ xuất phát từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào tìm hiểu sâu và toàn diện các quy định pháp luật về NTCN bao gồm đầy đủ các vấn đề về hoạt động doanh nghiệp liên quan đến NTCN (quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm doanh nghiệp) song song với đó là quản lý của cơ quan nhà nước. Bởi vậy, có thể khẳng đinh: Đề tài: “Pháp luật về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay” là đề tài còn mới cần được đi sâu tìm hiểu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các quy định pháp luật về NTCN ở Việt Nam hiện nay. Tìm hiểu các nội dung cơ bản của pháp luật về NTCN ở VIệt Nam: quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động liên quan đến NTCN; Các Quy chuẩn, tiêu chuẩn về NTCN; Tìm hiểu những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật NTCN; Tìm hiểu những vấn đề cơ bản nhất của quy định pháp luật về quản lý nước thải công nghiệp. Sau quá trình nghiên cứu quy định pháp luật và thực tế, tổng kết vấn để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thực thi, tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đảm bảo đạt được những mục đích nghiên cứu như trên, luận văn cần nghiên cứu các vấn đề sau: 5
  11. - Nghiên cứu những quan điểm luận điểm khoa học về NTCN, hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực NTCN, các phương thức quản lý NTCN, quy định pháp luật Việt Nam về NTCN; - Nghiên cứu đánh giá toàn diện quy định pháp luật về NTCN cũng như thực tiễn áp dụng chúng để tìm ra những tồn tại, vướng mắc của hệ thống pháp luật; - Nghiên cứu tình hình NTCN, nguyên nhân, hậu quả của tình trạng xả nước thải công nghiệp không đúng quy định của nhà nước; - Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực NTCN. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Hệ thống pháp luật Việt Nam về NTCN - Thực tiễn triển khai, thực hiện áp dụng pháp luật về NTCN ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu NTCN là vẫn đề tương đối phúc tạp, để đảm bảo hoạt động xử lý và quản lý NTCN đúng quy định của pháp luật đòi hỏi phải có sự tham gia góp sức của nhiều ngành, nhiều cơ quan, nhiều tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Quá trình thực hiện công tác xử lý NTCN của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do thiếu trang thiết bị máy móc, thiếu nguồn lực về tài chính, nguồn lực về nhân sự để vận hành hệ thống máy móc cũng như am hiểu về hệ thống tiêu chuẩn, Quy chuẩn về NTCN. Việc vi phạm pháp luật trong lĩnh vực NTCN diễn biến ngày càng tinh vi, phức tạp với số lượng vụ việc vi phạm, mức độ nghiêm trọng của hành vi ngày càng gia đáng kể. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, muốn khắc phục cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp bao gồm cả các vấn đề về khoa học công nghệ, quan điểm và ý thức cộng đồng, tâm lý, trình độ nhận thức chung của xã hội Tuy nhiên, theo phạm vi của ngành luật học, trong luận văn này 6
  12. tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu nghiên cứu khía cạnh pháp lý về NTCN ở Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; Trên cơ sở đường lối và chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước kết hợp BVMT và phát triển bền vững. [Tr9,11] Nội dung luận văn ngoài phần mở đầu và phần lý luận chung ra thì còn lại chủ yếu được nêu và phân tích trên các văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn thống kê tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về NTCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tắc giả đã sử dụng biện pháp duy vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử, phương pháp phân tích (sử dụng cho toàn luận văn), phương pháp so sánh và phương pháp thống kê. [Tr9;11]. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Với phương hướng nghiên cứu và nội dung như trên, luận văn sẽ góp phần vào hoàn thiện hệ thống lý luận về NTCN và pháp luật về NTCN. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Là một đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về lĩnh vực NTCN, tác giả hy vọng luận văn có giá trị tham khảo nhất định, trước hết với những người quan tâm về NTCN dưới góc độ pháp lý và là tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học Luật Môi trường. Bên cạnh đó, luận văn còn có giá trị tham khảo, hỗ trợ chuyện ngành đối với những cá nhân tổ chức, doanh nghiệp muốn tìm hiểu sâu và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về NTCN. [Tr10;11]. 7
  13. Ngoài ra, các giải pháp đề xuất trong đề tài còn có giá trị tham khảo đối với những cơ quan ban hành pháp luật, cơ quan quản lý, tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 03 chương với nội dung chính là: Chương 1: Những vấn đề lý luận về NTCN và pháp luật về NTCN; Chương 2: Thực trạng pháp luật về NTCN ở Việt Nam hiện nay; Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về NTCN ở Việt Nam và cơ chế thực hiện pháp luật về NTCN ở Việt Nam hiện nay. 8
  14. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ NƢỚC THẢI CÔNG NGHIỆP 1.1. Những vấn đề lý luận về nƣớc thải công nghiệp 1.1.1. Quan niệm về nước thải công nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm nước thải công nghiệp NTCN là một dạng của chất thải, vì vậy để hiểu rõ nội hàm của NTCN thì việc làm rõ khái niệm về chất thải, nước thải là rất cần thiết. * Chất thải Dưới những góc độ khác nhau, người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau về chất thải. Tuy nhiên, hiểu theo cách chung nhất thì chất thải là: “những vật và chất mà người dùng không còn muốn sử dụng và thải ra, tuy nhiên trong một số trường hợp nó có thể là không có ý nghĩa với người này nhưng lại là lợi ích của người khác” [47]. Như vậy, chất thải là những vật và chất được thải ra trong quá trình sử dụng của con người.Chất thải có thể là những vật và chất không còn sử dụng được, có thể vẫn còn sử dụng được nhưng chủ sở hữu không có nhu cầu sử dụng chúng. Luật BVMT 2005 giải thích tại khoản 10 Điều 3: “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác” Luật BVMT 2014 cũng đưa ra khái niệm về chất thải, theo đó “Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác” (Khoản 12 Điều 3 Luật BVMT2014). Dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta đưa ra các cách phân loại khác nhau. Nếu căn cứ vào đặc tính vật lý của chất thải người ta chia chất thải thành chất thải rắn, nước thải, khí thải. Nếu căn cứ vào nguồn phát sinh chất thải người ta chia chất thải thành chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế . 9
  15. Nếu căn cứ vào đặc tính hóa học của của chất thải người ta phân chất thải thành chất thải thông thường và chất thải nguy hại. * Nước thải Nước thải là một dạng của chất thải do đó nước thải là chất thải ở thể lỏng được tạo ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác. Từ lâu người ta đã đưa ra các khái niệm về nước thải. Cụ thể trong TCVN 5980-1995 và ISO 6107/1-1980 tại Mục 1.2 Điều 2, Phần 1 – Chất lượng nước, Thuật ngữ: “Nước thải là nước đã được thải ra sau khi sử dung hoặc được tạo ra trong một quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp với quá trình đó”.Đến năm 2009 trong bản Tiêu chuẩn Việt Nam 8184:2009 (theo mục 1.2.1 Chất lượng nước. Thuật ngữ - Phần 1) TCVN 8184:2009 nước thải được định nghĩa như sau: “Nước thải là nước đã được thải ra từ sau khi sử dụng hoặc được tạo ra trong quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó”.Tuy nhiên, phải đến năm 2014 khi Nghị định 80/2014 quy định về thoát nước và xử lý nước thải được ban hành thì khái niệm về nước thải mới được lần đầu tiên ghi nhận chính thức trong luật. Theo đó, nước thải là “nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do các hoạt động của con người xả vào hệ thống thoát nước hoặc ra môi trường” (Khoản 7 Điều 2 Nghị định 80/2014). Khái niệm về nước thải trong Nghị định 80/2014 xúc tích và dễ hiểu hơn cả.Theo đó, nước thải là nước đã bị thay đổi đặc điểm, tính chất do sử dụng hoặc do các hoạt động của con người xả vào hệ thống thoát nước hoặc ra môi trường. Người ta phân loại nước thành theo nhiều cách khác nhau. Cách phân loại phổ biến và được sử dụng rộng rãi nhất là dựa trên ngồn gốc phát sinh của nước thải. Theo đó, nước thải bao gồm: nước thải sinh hoạt, nnớc thải công nghiệp, nước thải tự nhiên, nước thải đô thị. Hiện nay, NTCN là nguồn nước thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất, phức tạp, khó xử lý và khó quản lý nhất. Thời gian gần đây, do do 10
  16. tình trạng NTCN ngày càng gia tăng, diễn biến rất phức tạp để lại hậu quả nghiêm trọng nên vấn đề xử lý NTCN của doanh nghiệp và quản lý NTCN của cơ quan nhà nước được đặc biệt chú ý. * Nước thải công nghiêp Khái niệm về NTCN được đưa ra trong các TCVN từ khá lâu. Từ năm 1995, theo TCVN 5980-1995 và ISO 6107/1-1980 thì: “Nước thải công nghiệp là nước được thải ra từ một nhà máy xử lí, nhà máy chế biến công nghiệp hoặc từ một bể dùng để làm sạch nước”( Mục 1.2.4 Điều 2, Phần 1 – Chất lượng nước). Theo QCVN40-2011-BTNMT thì: “Nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ quá trình công nghệ của cơ sở sản xuất, dịch vụ công nghiệp (sau đây gọi chung là cơ sở công nghiệp), từ nhà máy xử lý nước thải tập trung có đấu nối nước thải của cơ sở công nghiệp”. Hai khái niệm trên đều đưa ra cái nhìn tương đồng về NTCN.Theo đó, NTCN là nước được thải ra từ cơ sở công nghiệp, từ nhà máy xử lý nước thải tập trung có đấu nối nước thải của cơ sở công nghiệp. Phân loại NTCN: Dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta chia NTCN thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến nhất là phân loại theo ngành nghề sản sinh ra NTCN. Theo đó, NTCN gồm rất nhiều loại: NTCN ngành dệt, NTCN sao su, NTCN cà phê Cách phân loại khác ít được sử dụng hơn là căn cứ vào thành phần, nồng độ NTCN người ta chia thành 2 loại: NTCN không bẩn và NTCN bẩn. NTCN không bẩn là nước được thải ra từ quá trình làm mát động cơ, làm nguội thiết bị, ngưng tụ hơi nước.NTCN bẩn là các loại nước sinh ra trong quá trình sản xuất, vệ sinh máy móc thiết bị nên nước có lẫn nhiều tạp chất, chất hóa học độc hại. 1.1.1.2. Tác động tiêu cực của NTCN đến môi trường và con người NTCN chưa xử lý hoặc đã xử lý nhưng chưa đảm bảo quy định gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của con người. Không như chất thải rắn, NTCN nói riêng và nước thải nói chung khi được thải 11
  17. ra môi trường sẽ nhanh chóng lan truyền đi một vùng rộng lớn. NTCN chưa đươc xỷ lý xả thẳng ra sông ngòi, biển sẽ theo dòng chảy của nước mang các chất độc hại lan truyền dọc con sông hoặc một vùng nước lớn trên biển làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài trong và quanh vùng nước hoặc lượng nước thải này ngấm xuống đất, hòa vào mạch nước ngầm dưới lòng đất và trở thành nguồn nước cung cấp cho sinh hoạt của con người, phục vụ tưới tiêu, chăn nuôi trồng trọt. Không giống như chất thải rắn, NTCN có đặc trưng là lan truyền nhanh trên một vùng rộng lớn. Chính vì vậy hậu quả của việc xả thải trực tiếp NTCN ra môi trường cực kỳ nguy hiểm, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và con người.Việc xả NTCN chưa qua xử lý ra môi trường không chỉ tác động lên nguồn nước trong tự nhiên mà còn ảnh hưởng lên toàn bộ hệ sinh thái, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, môi trường đất, môi trường không khi. NTCN làm ô nhiễm nguồn không khi khi màlượng nước này chưa qua xử lý đổ ra các con sông, làm cho nước sông đổi màu và gây ra mùi khó chịu trong không khí. “Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí làm cho mật độ bụi bẩn trong không khí tăng lên. Không những vậy, các hơi nước này còn là giá bám cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp độc hại khác. Một số chất khí được hình thành do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ trong NTCN như SO2, CO2, CO, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường khí quyển và con người”[37, tr.36]. Trường hợp sông Tô Lịch, sông Nhuệ ở Hà Nôi là minh chứng cụ thể và rõ ràng nhất về việc NTCN ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường không khí khi mà nước của các dòng sông này đen sóng sánh như được nhuộm đen và bốc mùi nồng nặc, đặc biệt là vào những buổi trưa hè nắng gắt hoặc sau những cơn mưa rào mùi bốc lên càng dữ dội. Việc này làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống 12
  18. sinh hoạt của người dân cũng như sức khỏe, tinh thần của các hộ gia đình sinh sống dọc hai bên bờ dòng sông. Không chỉ làm ô nhiễm không khí,NTCN đặc biệt chứa nhiều chất gây ô nhiễm nên khi thấm vào đất làm sẽ làm “liên kết giữa các hạt keo đất bị bẻ gãy, cấu trúc đất bị phá vỡ; Thay đổi đặc tính lý học, hóa học của đất; Vai trò đệm, tính oxy hóa, tính dẫn điện, dẫn nhiệt của môi trường đất thay đổi mạnh; Thành phần chất hữu cơ giảm nhanh làm khả năng giữ nước và thoát nước của đất bị thay đổi. Một số chất hay ion có trong nước thải ảnh hưởng đến đất; Quá trình oxy hóa các ion Fe2+ và Mn2+ có nồng độ cao tạo thành các axit không tan Fe2O3 và MnO2 gây ra hiện tượng “nước phèn” dẫn đến đóng thành váng trên mặt đất (đóng phèn); Canxi, magie và các ion kim loại khác trong đất bị nước chứa axit cacbonic rửa trôi thì đất sẽ bị chua hóa”[37, tr.41]. Theo các công trình nghiên cứu gần đây cho biết, ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, NTCN thường “có độ pH trung bình từ 9-11, chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu ôxy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1, hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép” [36, tr.38]. Do đó, khi ngấm vào đất sẽ làm thay đổi chất lượng đất, ảnh hưởng nguy hại tới các vi sinh vật sống trong đất, giảm năng suất cây lương thực, ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng hoa màu của ngành nông nghiệp cũng như sản lượng nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, ảnh hưởng của việc không xử lý NTCN lên môi trường nước cũng rất rõ ràng. Với nguồn nước ngầm, các cặn lơ lửng trong nước mặt, các chất thải nặng lắng xuống đáy sông, sau khi phân huỷ, 1 phần lượng chất được các sinh vật tiêu thụ, 1 phần thấm xuống mạch nước bên dưới (nước ngầm) qua đất, làm biến đổi tính chất của loại nước này theo chiều hướng xấu (do các chất chứa nhiều chất hữu cơ, kim loại nặng Đối với nước bề mặt các chất hữu cơ, 13
  19. chất rắn lơ lửng, không được phân huỷ, vẫn còn lưu lại trong nước với khối lượng lớn, dẫn đến việc nước dần mất đi sự tinh khiết ban đầu, làm chất lượng nguồn nước bị suy giảm nghiêm trọng). Đối với đa dạng sinh học, NTCN đặc biệt là nước được thải ra từ các ngành sản xuất kim loại, dệt, làm giấy, chế biến thực phẩm, hóa chất khai thác mỏ, dầu khí có chứa kim loại có độc tố cao như Asen, Chì, Thủy Ngân. Các chất này khi vào môi trường nước làm tuyệt chủng hoặc làm thoái hóa, đột biến gen đối với các loài sinh vật. Những năm trở lại đây, do các hoạt động phát triển kinh tế- xã hội mạnh mẽ làm tăng các chất gây độc như dầu, lượng trầm tích, nước thải thu hẹp diện tích hoặc làm suy thoái các hệ sinh thái nhạy cảm ven biển ở đây như hệ sinh thái rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển. Mặt khác, sự ô nhiễm còn làm giảm chất lượng cúa các nhóm sinh vật có giá trị kinh tế. NTCN không được xử lý còn để lại những tác động trực tiếp, rõ rệt lên mọi mặt đời sống con người.Cụ thể: - Đối với sức khỏe: môi trường ô nhiễm sẽ dẫn đến hậu quả là tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mạn tính liên quan đến ô nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư gia tăng. Nhiều vùng đất ở Việt Nam đã trở nên nổi tiếng với cái tên làng ung thư. Theo khảo sát của dự án Điều tra, tìm kiếm nguồn nước hợp vệ sinh phục vụ cấp nước sinh hoạt cho một số “làng ung thư” của VN công bố vào đầu năm 2015 thì Việt Nam có trên 37 làng ung thư, trong đó đứng đầu danh sách “làng ung thư” với mực độ ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng nhất là làng Thống Nhất, xã Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Nội; làng Lũng Vỵ, xã Đông Phương Yên, Chương Mỹ, Hà Nội; làng Mẫn Xá, xã Văn Môn, Yên Phong, Bắc Ninh. Không những mang đến bệnh tật, ô nhiễm nguồn nước ven sông kéo theo ô nhiễm nguồn không khí ven sông khiến cho cuộc sống của các hộ gia đình gần đó ngột ngạt, tinh thần luôn lo lắng, bắt an, sợ hãi. 14
  20. - Về mặt kinh tế: NTCN không được xử lý còn tác động không nhỏ đến kinh tế của người dân và kinh tế của cả đất nước khi mà ô nhiễm nguồn nước tác động đến toàn bộ hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tác động đến các ngành sản xuất công nghiệp trong nước và cả ngành du lịch quốc gia. Đối với ngành nông lâm ngư nghiệp, ô nhiễm nguồn nước làm mất đi kế sinh nhai của các hộ dân làm nghề nuôi trồng thủy hải trên sông, trên biển, tác động trực tiếp đến đất canh tác của nông dân làm giảm thu hoạch mùa vụ, gây bệnh cho vật nuôi và cây trồng. Hơn thế nữa, những dòng sông, vùng biển ô nhiễm biến đổi màu và có mùi gây khó chịu làm ảnh hưởng đến cảnh quan khu vực, mất thẩm mỹ, làm khách thăm quan du lịch (nhất là những du khách đến từ các nước phát triển, nơi luôn quan tâm đến BVMT) có ấn tượng xấu về hình ảnh đất nước. Việc này có tác động không nhỏ đến ngành du lịch quốc gia - ngành kinh tế mũi nhọn được quan tâm và ưu tiên phát triển. hàng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng trăm nghìn tỷ. Cụ thể, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam, bao gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP). Dự báo trong 09 năm tới, đến năm 2026, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam lên đến 1,232,640 tỷ đồng chiếm (15.2% of GDP) trong đó đóng góp trực tiếp cho GDP là 587,593 tỷ đồng tương đương với 7.2% GDP [45, pg.3]. Đồng thời các chuyên gia cũng nhận định mỗi năm Việt Nam sẽ mất đi vài chục ttriệu USD thu nhập từ ngành du lịch do hệ thống xử lý vệ sinh kém. Ô nhiễm môi trường cũng làm giảm đi sức thu hút khách của ngành du lịch Ảnh hưởng của NTCN không được xử lý lên môi trường và con người là rất rõ rệt. Vì vậy, công tác xử lý NTCN từ phía các doanh nghiệp cần được triển 15
  21. khai, thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình chất lượng.Song song với đó là công tác quản lý nhà nước cần được chú trọng, tăng cường hơn nữa. 1.1.2. Thực trạng nước thải công nghiệp tại Việt Nam Trong thời gia gần đây, do nhiều trường hợp doanh nghiệp xả thải trái phép gây hậu quả nghiêm trọng làm thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng lớn đến uy tín cho cơ quan nhà nước nên công tác quản lý nhà nước ngày càng thắt chặt đồng thời ý thức doanh nghiệp cũng dần dần thay đổi. Doanh nghiệp ngày càng chú trọng nhiều hơn đến công tác BVMT và xử lý nước thải.Tuy nhiên, vì mục đích lợi nhuận hoặc vì không đủ năng lực tài chính, nhân sự nhiều doanh nghiệp vẫn bất chấp hậu quả, xả thải trái phép ra môi trường. NTCN của các ngành sản xuất có hàm lượng chất độc hại rất cao. Theo các nghiên cứu tác động môi trường của cơ quan Tổng cục Môi trường báo cáo vào tháng 10/2016 và Báo cáo khoa học môi trường về Ô nhiễm nước và hậu quả của nó của trường đại học Nông Lâm Hồ Chí Minh cho thấy: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD: Biochemical oxygen Demand - là lượng oxy cần thiết cung cấp cho vi sinh vật để oxi hóa các chất hữu cơ), nhu cầu ôxy hoá học (COD: Chemical oxygen Demand - là khối lượng oxy cần tiêu hao trên 1 lít nước thải) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Nước thải của các ngành này có chứa hàm lượng xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt [37, tr.28]. Theo số liệu tính toán của cơ quan môi trường cho thấy tính đến tháng 10/2016, vùng Đông Nam bộ với toàn bộ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi tập trung các KCN lớn, là vùng có lượng phát NTCN lớn nhất cả nước. Số lượng KCN có hệ thống xử lý nước thải vẫn đang ở mức trung bình (50-60%), hơn nữa 50% trong số đó vẫn chưa hoạt động hiệu quả [8]. 16