Luận văn Pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam

pdf 103 trang vuhoa 25/08/2022 8160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_ngan_hang_lien_doanh_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỒNG THỊ NHÂN PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội ­ 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Đồng Thị Nhân PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn Hà Nội ­ 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN 5 DOANH 1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và 5 mô hình ngân hàng liên doanh 1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước 10 1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó 12 trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.4. Khái niệm quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh 16 Chương 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở 19 VIỆT NAM 2.1. Mô hình ngân hàng liên doanh theo pháp luật Việt Nam 19 2.2. Một số nội dung cơ bản về Quy chế tổ chức và hoạt động 24 của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Chương 3. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN 58 DOANH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 3.1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam 58 3.2. Kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng liên doanh tại một 78 số nước 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến 81 hoạt động của ngân hàng liên doanh KẾT LUẬN 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 01. ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á 02. BLDS: Bộ luật dân sự 03. BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam ­ Hoa Kỳ 04. IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế 05. IVB: Ngân hàng liên doanh Indovina (Việt ­ Đài) 06. LVB: Ngân hàng liên doanh Việt Lào 07. NHNN: Ngân hàng nhà nước 08. TCTD: Tổ chức tín dụng 09. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn 10. VCCI: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 11. VPD: Ngân hàng liên doanh Vidpulic 12. VRB: Ngân hàng liên doanh Việt Nga 13. VSB: Ngân hàng liên doanh Việt Thái 14. XHCN: Xã hội chủ nghĩa 15. WB: Ngân hàng thế giới 16. WTO: Tổ chức thương mại thế giới
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ năm 1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở đường cho công cuộc đổi mới một cách toàn diện theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký Hiệp định Thương mại Việt Nam ­ Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư khác. Đáng chú ý là từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, bắt đầu quá trình hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Thực tế cho thấy, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài, NHNN đã cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tài chính và ngân hàng của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động. Với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là về các hoạt động nghiệp vụ mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh nghiệm như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ,
  7. quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, khi các ngân hàng nước ngoài đầu tư mua cổ phần của ngân hàng trong nước, các ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng với sự tham gia của các đối tác chiến lược là các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng trung ương khác. Dưới tác động của xu hướng “toàn cầu hoá” và nhu cầu phát triển nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện nền kinh tế mở cửa tại Việt Nam; các ngân hàng liên doanh đã từng bước được thiết lập và phát triển. Các ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế. Đồng thời, các ngân hàng liên doanh cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các ngân hàng thương mại trong nước sẽ được tiếp cận, học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến từ đó cải tiến, nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ ngân hàng và kinh doanh tiền tệ. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh để có giải pháp hoàn thiện là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu: Pháp luật về Ngân hàng liên doanh là một đề tài mới và phức tạp ở nước ta, chưa được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu nhiều, mà chủ yếu được đề cập nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành về kinh tế và được thể hiện trong một số giáo trình đại học chuyên ngành luật, chuyên ngành kinh tế, các bài viết, sách tham khảo, một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này, như: 1) "Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài" của Đào Minh Phúc, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2009; 2) "Các giao dịch thương mại chủ yếu của Ngân hàng
  8. thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam" của Nguyễn Văn Tuyến, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2004; 3) "Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" của Ngô Quốc Kỳ, Nxb. Tư pháp, năm 2005; 4) "Địa vị pháp lý của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam" của Nguyễn Thanh Tú, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000; 5) "Quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam" của Nguyễn Thị Hoa, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010 Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam dưới góc độ là một luận văn thạc sỹ luật học. Vì thế, Luận văn hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm công tác nghiên cứu, học tập, thực thi pháp luật, những người muốn tìm hiểu về pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, tôi xin phép nghiên cứu những quy định cơ bản nhất về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của ngân hàng liên doanh đối với sự phát triển kinh tế, quy định của pháp luật về hoạt động của ngân hàng liên doanh ; trên cơ sở xem xét hệ thống pháp luật thực định về ngân hàng liên doanh và thực tiễn hoạt động của nó từ đó chỉ ra các thiếu sót, hạn chế để có thể khắc phục, đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khái niệm “liên doanh” hiện nay được hiểu ở hai góc độ: “liên doanh cũ” và “liên doanh mới”. “Liên doanh cũ” đơn thuần là sự liên doanh giữa một (hoặc các bên) Việt Nam với một (các bên) nước ngoài. “ Liên doanh
  9. mới” là sự hợp tác liên doanh theo cách thức doanh nghiệp liên doanh ­ doanh nghiệp Việt Nam; doanh nghiệp liên doanh ­ doanh nghiệp liên doanh Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về ngân hàng liên doanh theo các quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật đầu tư năm 2005 và các văn bản dưới luật có liên quan. Với mục đích như đã đặt ra ở trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn là những lý luận khái quát và quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác­ Lênin là phép biện chứng duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp Tác giả luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn, lấy Luật đầu tư năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 làm cơ sở pháp lý cơ bản cho việc nghiên cứu. 6. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1. Những vấn đề khái quát về ngân hàng liên doanh Chương 2. Quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Chương 3. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam.
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH 1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và mô hình ngân hàng liên doanh Hiện nay, các nhà khoa học và các nhà kinh tế đều cho rằng: “Hoạt động ngân hàng hình thành và phát triển cùng với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội của loài người”. Ngân hàng đã bước đi từng bước cực kỳ thô sơ (như hình thức bancus) và dưới những tác động của nhu cầu phát triển xã hội, nền kinh tế, đã thúc đẩy ngân hàng không ngừng được hoàn thiện. Xã hội càng phát triển thì hoạt động của ngân hàng càng trở nên đa dạng hơn. Giai đoạn lịch sử phát triển đầu tiên của hoạt động ngân hàng được gọi là “giai đoạn sơ khai của các ngân hàng” xuất hiện vào thời Hy Lạp, đế quốc La Mã Điển hình là hoạt động của các nhà đổi tiền Hy Lạp (Iraperita) nhận tiền của giai cấp quý tộc, người giàu có và cho các thương gia vay. Đây là hoạt động mua bán, trao đổi vay tiền sơ khai đầu tiên. Đồng thời, nó cũng dẫn đến sự ra đời của thuật ngữ “ ngân hàng” (xuất phát từ chữ Latinh Bancus). Giai đoạn phát triển thứ hai của lịch sử ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XVII với nhiều hoạt động mới được áp dụng. Hoạt động ngân hàng tiến bộ rất nhiều so với ngân hàng sơ khai như sự xuất hiện của nghiệp vụ áp dụng phương pháp bù trừ trong thanh toán, nghiệp vụ chuyển ngân Thế kỷ XVII ngân hàng bước vào giai đoạn ba với việc mạnh dạn cho vay tạo ra những khoản tiền mới và lưu thông, nghĩa là ngân hàng đã “tham gia vào hoạt động cung ứng tiền”. Đồng thời là sự ra đời của một loạt các ngân hàng như ngân hàng Anh ở Luân Đôn ­ Ngân hàng lớn nhất thế giới cuối thế kỷ XVII, ngân hàng Đông Phương của Anh ở Trung Quốc, ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập tại Việt Nam (Thế kỷ XIX)
  11. Trong thời đại ngày nay, hoạt động ngân hàng rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ ngân hàng lại rất phức tạp và luôn biến động theo sự phát triển chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau nên đến nay vẫn chưa có sự đồng nhất trong khái niệm ngân hàng. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm ngân hàng được hiểu là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng (Khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD). Từ quy định này có thể thấy, ngân hàng tại Việt Nam có các đặc điểm sau: là loại hình tổ chức tín dụng tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận; nội dung hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi có hoàn trả và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng; ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định. Như vậy, khái niệm ngân hàng được sử dụng như một thuật ngữ để nói đến các tổ chức làm chức năng thu nhận tiền gửi của công chúng và đem số tiền đó cho người khác vay nhằm thu lợi nhuận. Nền kinh tế của một nước càng phát triển thì vai trò của hệ thống ngân hàng càng có tầm quan trọng đặc biệt. Vai trò của ngân hàng được xác định trên cơ sở các chức năng và các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn. Qua việc nghiên cứu các chức năng của ngân hàng như chức năng trung gian tín dụng, chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán. Ta thấy vai trò của ngân hàng được thực hiện ở hai mặt là thực thi chính sách tiền tệ đã được hoạch định bởi Ngân hàng Trung ương và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính và dịch vụ ngân hàng; thực hiện trung gian thanh toán các nguồn vốn cho nền kinh tế thị trường; thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển; góp phần hình thành và phát triển thị trường chứng khoán; phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.
  12. Xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế là một nhu cầu tất yếu đối với phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường, đặc biệt với các nước đang phát triển. Cách mạng công nghiệp đã cho ra đời một nền công nghiệp mới và dần thay thế công nghệ truyền thống. Các nước phát triển đang chuyển tỷ trọng từ công nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, dựa vào tri thức và thông tin. Nền kinh tế không hướng theo chiều rộng mà hướng tới phát triển theo chiều sâu. Tình hình đó làm phát sinh nhu cầu bức thiết là đòi hỏi các nước phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế ­ quốc tế để tiếp nhận công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy sản xuất, công nghiệp hoá đất nước. Hợp tác kinh tế ­ quốc tế được mở rộng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống trong đó có hợp tác kinh tế ­ quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, không một hoạt động kinh tế nào không liên quan tới hoạt động tài chính và tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ. Ngân hàng được coi là một bộ phận của hạ tầng cơ sở trong nền kinh tế. Thứ nhất, để ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường thì vị trí của tiền vốn và vai trò của ngân hàng hết sức to lớn. Tiền vốn với vai trò thúc đẩy sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá phải luôn ổn định, đủ tín nhiệm cả đối ngoại lẫn đối nội và ngân hàng cần được tổ chức thành một hệ thống, có mặt ở khắp nơi để kế toán, kiểm soát trên phạm vi toàn quốc, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng. Thứ hai, trong nền kinh tế hướng ngoại, giao lưu và hợp tác kinh tế phát triển thì mọi hoạt động kinh tế đối ngoại (xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài ) đều trực tiếp phụ thuộc và liên quan mật thiết vào hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là quan hệ đối ngoại của ngành ngân hàng. Ngân hàng là trung tâm thanh toán điều hoà và cho vay vốn bảo đảm khả năng chi trả cho các nhà xuất nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngân hàng cũng
  13. đóng vai trò là người tài trợ cùng tham gia hợp tác kinh doanh với các nhà xuất nhập khẩu, là trung tâm tư vấn cho các nhà xuất nhập khẩu trong quá trình hoạt động, ngân hàng là cầu nối quan trọng giữa các nhà xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp, ngân hàng tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư từ khâu hình thành dự án đầu tư (thực hiện nghĩa vụ môi giới, tham gia thẩm định các dự án đầu tư), đến khi dự án được triển khai (như mở tài khoản, chuyển vốn đầu tư ), xí nghiệp đi vào hoạt động (hoạt động thanh toán, chuyển tiền ), xí nghiệp hết thời hạn hoạt động hoặc giải thể (chuyển vốn, thanh lý tài sản xí nghiệp ). Ngân hàng tham gia vào hoạt động đầu tư gián tiếp thông qua việc tham gia vào thị trường chứng khoán hoặc cung cấp vốn, hùn vốn đầu tư Từ xu thế phát triển của thế giới, vai trò quan trọng đặc biệt của ngân hàng trong nền kinh tế; ta nhận thấy phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa, giao lưu hợp tác kinh tế ­ quốc tế thì trước hết phải phát triển hệ thống ngân hàng, mở rộng hoạt động của ngành ngân hàng trong đó có các hoạt động đối ngoại và sự hợp tác kinh tế ­ quốc tế của ngành ngân hàng. Sự phát triển và vận động này của ngân hàng đã dẫn đến những hình thức ngân hàng mới như chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh Vấn đề quan tâm đầu tiên của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một nước cụ thể là hệ thống ngân hàng nước đó có đủ uy tín hay không? Ngân hàng nước họ đã xuất hiện chưa và họ sẽ được hỗ trợ gì? Chính vì vậy, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài dưới hình thức chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, trong giai đoạn đầu của quá trình mở cửa, là một xu hướng phổ biến, giải quyết được những khúc mắc của các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó thu hút đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển khi bước vào thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hệ
  14. thống ngân hàng còn chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế. Vì thế, cần phải thực hiện hiệu quả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngân hàng liên doanh được thành lập nhằm tạo ra một ngân hàng có sức mạnh tổng hợp trên cơ sở khắc phục những yếu kém của ngân hàng trong nước, phát huy thế mạnh của ngân hàng nước ngoài, góp phần cải thiện môi trường đầu tư và tạo điều kiện cho việc đổi mới hệ thống ngân hàng tại các nước này. Ngân hàng liên doanh là kết quả của sự hợp tác về mặt kinh tế giữa Chính phủ và Ngân hàng Trung ương của các nước với nhau, mở ra cơ hội hợp tác giữa hai cơ chế kinh tế, hai hệ thống tài chính. Ngân hàng liên doanh là một loại hình ngân hàng mà trong đó có sự tham gia hợp tác liên doanh giữa ngân hàng thương mại trong nước với ngân hàng nước ngoài trên cơ sở góp vốn để hình thành nên một ngân hàng thương mại mới, có tư cách pháp nhân và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. Qua khái niệm trên, ta thấy ngân hàng liên doanh có những đặc điểm như: ­ Ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, thuộc loại hình Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên. ­ Ngân hàng liên doanh được ra đời trên cơ sở hợp đồng liên doanh giữa bên ngân hàng trong nước và bên ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên doanh có tư cách pháp nhân và tồn tại độc lập với ngân hàng đã tham gia liên doanh thành lập ra nó. ­ Ngân hàng liên doanh có sự hợp tác kinh tế chặt chẽ giữa bên ngân hàng trong nước với bên ngân hàng nước ngoài nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Sự gắn bó chặt chẽ giữa các bên được thể hiện qua các nội dung kinh tế như vốn, quản trị điều hành, phân chia lợi nhuận
  15. ­ Ngân hàng liên doanh phần lớn là liên doanh hai bên trong đó một bên là ngân hàng nước ngoài có uy tín và tầm cỡ trên thế giới với một bên là ngân hàng thương mại trong nước có khả năng tài chính tốt nhằm tạo ra một ngân hàng có tiềm lực tài chính và hoạt động hiệu quả ngay sau khi ra đời. Ngay từ khi mới ra đời, ngân hàng liên doanh đã khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Trước hết, sự ra đời các ngân hàng liên doanh tạo điều kiện cho việc cải thiện môi trường đầu tư tại các nước đang phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường và mở rộng các quan hệ thương mại và dịch vụ với nước ngoài. Đồng thời, ngân hàng liên doanh cũng tạo ra khả năng tiếp cận, học tập và tranh thủ kỹ thuật nghiệp vụ, công nghệ tiên tiến của các ngân hàng nước ngoài, từ đó góp phần cải thiện môi trường dịch vụ ngân hàng trong nước. Bên cạnh đó, ngân hàng liên doanh còn đóng góp vai trò với tư cách là một loại hình liên doanh của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục đích của việc liên doanh nhằm giải quyết các nhu cầu đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế đất nước là vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến đều có thể đạt được trong ngân hàng liên doanh. Ngoài ra, ngân hàng liên doanh còn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tài chính tại các nước đang phát triển. Như vậy, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với tình hình lịch sử và điều kiện kinh tế của các nước đang phát triển. Ngân hàng liên doanh đã đóng góp những nhân tố tích cực cho sự phát triển kinh tế tại các nước này. 1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước Ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào những năm 50 tại khu vực Châu Á. Ở Inđônêxia, ngân hàng liên doanh với nước ngoài được thành lập đầu tiên
  16. vào những năm 1953 là ngân hàng PT Bank Perdania. Thời kỳ đầu, từ những năm 1953 khi bắt đầu cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh với nước ngoài cho đến cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Trong giai đoạn này, do mới giành được độc lập, hệ thống ngân hàng Inđônêxia còn yếu kém. Để thu hút vốn từ bên ngoài, Chính phủ Inđônêxia đã cho phép các ngân hàng nước ngoài vào hoạt động dưới một hình thức duy nhất là ngân hàng liên doanh trên cơ sở cùng góp vốn liên doanh giữa các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại trong nước với tỷ lệ góp vốn khá chênh lệch bên ngân hàng thương mại Inđônêxia 20% còn bên ngân hàng nước ngoài vào khoảng 80%. Do vậy, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Inđônêxia được thành lập hầu hết vào giai đoạn này. Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 cho đến cuối những năm 80 và đến nay, nền kinh tế đã phát triển, các ngân hàng thương mại nội địa Inđônênxia dần lớn mạnh, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế, Chính phủ Inđônêxia thực hiện chính sách hạn chế sự có mặt của các ngân hàng liên doanh. Nhìn chung, sự điều chỉnh pháp luật đối với ngân hàng liên doanh của Inđônêxia là điển hình của xu hướng “ thu hẹp dần”. Đây là xu hướng mà ban đầu, việc cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh rất rộng rãi với nhiều ưu đãi nhằm khuyến khích sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài tại nước sở tại, góp phần đẩy nhanh thu hút vốn tạo sức bật cho nền kinh tế. Khi hệ thống ngân hàng thương mại trong nước đã phát triển vững mạnh thì thắt chặt dần các quy định đối với ngân hàng liên doanh. Ngược lại với xu hướng “thu hẹp dần” là xu hướng “ mở rộng dần”. Điển hình của xu hướng này là Trung Quốc. Ngân hàng liên doanh với nước ngoài xuất hiện tại Trung Quốc cùng với công cuộc mở cửa và được đánh dấu bằng Bộ luật đầu tư và hợp tác giữa Trung Quốc và nước ngoài ngày 1/7/1979. Để khuyến khích sự có mặt các ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc, ngay từ đầu Chính phủ Trung Quốc cho phép các ngân hàng nước ngoài được hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, ngân hàng nước ngoài
  17. độc lập 100% vốn; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh Dưới những hình thức này, đến nay tại Trung Quốc đã có mặt nhiều ngân hàng lớn có tầm cỡ của các nước như: Mỹ, Anh Ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Trung Quốc được thành lập là liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Trung Quốc có khả năng tài chính tốt và một bên là các ngân hàng có uy tín và tầm cỡ quốc tế. Khác với Inđônêxia, Trung Quốc luôn đề cao vai trò ngân hàng thương mại nội địa trong việc liên doanh. Trung Quốc mở rộng dần mạng lưới và địa bàn hoạt động của các ngân hàng liên doanh tương ứng với sự lớn mạnh của các ngân hàng thương mại trong nước và sự hoàn thiện của chính sách tiền tệ. Tóm lại, sự hiện diện của ngân hàng liên doanh đã đóng góp nhiều nhân tố tích cực cho sự phát triển nền kinh tế thị trường. Và xuất phát từ những hoàn cảnh kinh tế ­ xã hội khác nhau mà sự ra đời, phát triển và sự điều chỉnh của pháp luật đối với ngân hàng liên doanh mỗi nước là khác nhau. 1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.3.1. Sự hình thành ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta bắt đầu đổi mới cơ chế kinh tế, trong đó quan hệ thị trường dần được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đổi mới trong quan hệ kinh tế đối ngoại, cuối năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của đời sống kinh tế đất nước. Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng đất nước (về tài nguyên và lao động) để tăng tích luỹ, tăng nguồn hàng về xuất khẩu, giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc làm và phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác quốc tế qua đó phát triển nền kinh tế cho theo kịp thời đại. Nó đã tạo ra một kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tài chính do vậy, lĩnh vực tài chính ­ ngân hàng không nằm ngoài dòng thu hút đầu tư đó.
  18. Trong báo cáo của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) 1990 đã nhận xét: “Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần giải quyết tốt khâu ngân hàng vì không một dự án nào không liên quan đến việc giải quyết vốn và tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ, những nhược điểm hiện nay của ngân hàng nước ta cũng như sự vắng mặt của các ngân hàng nước ngoài đã trở thành cản trở đối với nhiều dự án”. Trước yêu cầu đó, Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính tháng 5 năm 1990. Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính 1990 (sau đây gọi là Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990) đã đưa ra mục tiêu cải cách hệ thống ngân hàng, định hướng rõ chính sách và cơ chế nghiệp vụ cũng như về cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng, tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Một trong những mục tiêu của cải cách hệ thống ngân hàng là làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng hơn để các tổ chức tín dụng đáp ứng được tốt hơn với môi trường và hoàn cảnh kinh tế mới. Đây là cơ sở pháp lý và điều kiện nền tảng cho sự ra đời của ngân hàng liên doanh. Lần đầu tiên khái niệm “ngân hàng nước ngoài” và “ngân hàng liên doanh” được đưa ra trong Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990. Pháp lệnh này cũng dành toàn bộ chương V để điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất đối với ngân hàng liên doanh với nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, phù hợp với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong Luật đầu tư. Sau khi ban hành Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, ngày 15 tháng 6 năm 1991 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quy chế về chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định số 189/HĐBT ngày 15/6/1991) đã quy định chi tiết về việc cấp phép, khai trương nội dung và phạm vi hoạt động, tài chính và hoạch toán, thay đổi, gia hạn, chấm dứt hoạt động và thanh lý. Để chi tiết hoá hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 178/NH­TT ngày
  19. 5/10/1991 hướng dẫn thực hiện quy chế về chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam. Có thể nói, Luật đầu tư và Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 là hai văn bản pháp quy quan trọng nhất chi phối sự thành lập và hoạt động của ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài tại Việt Nam. Tháng 1 năm 1991, ngân hàng liên doanh đầu tiên được thành lập tại Việt Nam là ngân hàng liên doanh IndoVina (viết tắt là IVB). Ngân hàng IVB ra đời trên cơ sở liên doanh giữa ngân hàng Công thương Việt Nam và ngân hàng Summa Handel Bank Inđônêxia với giấy phép đầu tư số 135/GPĐT của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) cấp ngày 21/11/1990 và đã khai trương hoạt động từ ngày 21/01/1991. Tuy nhiên, sau khi ban hành Nghị định 189/HĐBT ngày 15/6/1991 và thực hiện theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 thì ngân hàng liên doanh IVB đã được Ngân hàng Nhà nước cấp lại giấy phép hoạt động số 08/NH­GP ngày 29/10/1992. Đây là ngân hàng liên doanh giữa hai bên trong đó phần vốn góp của mỗi bên ngân hàng là 50% trong tổng số 10 triệu USD vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Các đối tác tham gia ngân hàng liên doanh: ­ Bên ngân hàng Việt Nam là ngân hàng Công thương Việt Nam ­ một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất và giữ vị trí quan trọng trơng hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam. ­ Bên đối tác nước ngoài là ngân hàng Summa của Inđônêxia, là ngân hàng thuộc tập đoàn Soeryadjaya đăng ký kinh doanh tại Đức, có trung tâm quản lý tại Inđônêxia và văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Hồng Kông. Sau nhiều biến động của tình hình kinh doanh tháng 8/1993, ngân hàng IVB thay đổi đối tác mới là ngân hàng Dagang Natinonal. Đến ngày 14/6/2000 Ngân hàng thương mại Thế Hoa, một trong ba ngân hàng thương mại lớn nhất Đài Loan đã tham gia liên doanh trong ngân hàng IVB thay thế ngân hàng Dagang Natinonal.
  20. Từ đó đến nay, ở nước ta đã có 5 ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài được thành lập: ngân hàng liên doanh Shinhanvinabank (đầu tiên là ngân hàng liên doanh First Vina); ngân hàng liên doanh Indovinabank, ngân hàng liên doanh Vidpublicbank, ngân hàng liên doanh Vinasiam (Việt ­ Thái), ngân hàng liên doanh Việt ­ Nga. Ngân hàng liên doanh Việt ­ Nga là ngân hàng liên doanh được thành lập mới nhất trong gần 10 năm trở lại đây. Ngân hàng liên doanh Việt ­ Nga là ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và ngân hàng Ngoại thương của Nga với số vốn điều lệ là 10 triệu USD, trong đó ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đóng góp 51% số vốn. Số vốn điều lệ đến nay được tăng lên 62.5 triệu USD. Ngân hàng liên doanh Việt ­ Nga đã khai trương hoạt động vào ngày 19/11/2006, trụ sở chính được đặt tại Hà Nội. Nhìn chung, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mô hình ngân hàng góp phần thực hiện mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng dần hoà nhập vào thị trường thế giới và thị trường tài chính quốc tế. 1.3.2. Vai trò của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam Sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh có ảnh hưởng quan trọng đến việc phát triển kinh tế hàng hoá, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế, quốc tế. Trước hết, sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh đã góp phần tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngày nay, khi đầu tư vào một nước cụ thể các nhà đầu tư quan tâm đầu tiên là ở nước đó hệ thống ngân hàng có đủ mạnh không? hỗ trợ gì cho họ? ngân hàng của nước họ đã có mặt chưa? Môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ thu hút được nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài, đáp ứng một phần nhu cầu vốn phát triển kinh tế trong nước. Sự có mặt ngân hàng liên doanh với nước ngoài là đánh dấu một bước khởi