Luận văn Pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam

pdf 127 trang vuhoa 25/08/2022 7600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_kinh_doanh_thuoc_tan_duoc_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH TÂM Ph¸p luËt vÒ kinh doanh thuèc t©n d•îc ë ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH TÂM Ph¸p luËt vÒ kinh doanh thuèc t©n d•îc ë ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. MAI HẢI ĐĂNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Minh Tâm
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KINH DOANH THUỐC TÂN DƢỢC Ở VIỆT NAM 8 1.1. Một số khái niệm cơ bản 8 1.1.1. Thuốc và phân loại thuốc 8 1.1.2. Thuốc tân dược và cách phân loại 12 1.1.3. Vấn đề kinh doanh thuốc tân dược 15 1.2. Tổng quan pháp luật kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 18 1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam 18 1.2.2. Vai trò của pháp luật đối với kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam 22 1.3. Một số quy định về pháp luật kinh doanh thuốc tân dƣợc của các quốc gia tiêu biểu trên thế giới 25 1.3.1. Pháp luật kinh doanh thuốc tân dược tại Ấn Độ 25 1.3.2. Pháp luật kinh doanh thuốc tân dược tại Pháp 28 1.3.3. Pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược tại một số quốc gia Châu Phi 28 1.3.4. Pháp luật kinh doanh thuốc tân dược tại Trung Quốc 29 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH THUỐC TÂN DƢỢC Ở VIỆT NAM 32 2.1. Sự ra đời và phát triển của pháp luật kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 32
  5. 2.2. Quy định của pháp luật về kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 35 2.2.1. Điều kiện kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam 36 2.2.2. Sản xuất thuốc tân dược ở Việt Nam 40 2.2.3. Xuất khẩu, nhập khẩu thuốc tân dược ở Việt Nam 46 2.2.4. Phân phối thuốc tân dược ở Việt Nam 51 2.2.5. Dịch vụ bảo quản thuốc tân dược ở Việt Nam 57 2.2.6. Dịch vụ kiểm nghiệm thuốc tân dược ở Việt Nam 59 2.3. Đánh giá quy định pháp luật về kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 62 2.3.1. Một số ưu điểm 62 2.3.2. Một số tồn tại 66 2.4. Những thành tựu và một số tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 70 2.4.1. Những thành tựu 70 2.4.2. Một số khó khăn, vướng mắc, tồn tại 76 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KINH DOANH THUỐC TÂN DƢỢC Ở VIỆT NAM 83 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật kinh doanh thuốc tân dƣợc ở Việt Nam 83 3.2. Một số kiến nghị 91 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Dược hiện hành 91 3.2.2. Sửa đổi quy định của pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược 99 3.2.3. Vấn đề đạo đức kinh doanh 106 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Ý nghĩa ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CPP Giấy chứng nhận sản phẩm dược phẩm CPSEs Các doanh nghiệp dược phẩm Nhà nước ECOWAS Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Tây Phi EU Liên minh châu Âu EU-GMP Tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc của các nước Liên minh châu Âu FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FIPB Hội đồng Xúc tiến Đầu tư nước ngoài FSC Giấy chứng nhận lưu hành tự do GDP Thực hành tốt phân phối thuốc GLP Thực hành tốt phòng kiểm nghiệm thuốc GMP Thực hành tốt sản xuất thuốc GPP Thực hành tốt nhà thuốc GPs Các tiêu chuẩn Thực hành tốt GSP Thực hành tốt bảo quản thuốc Hiệp định TRIPS Hiệp định Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại của Tổ chức Thương mại thế giới ICH Hội nghị quốc tế về hài hòa hóa các thủ tục đăng ký dược phẩm cho người NAFDAC Cục Kiểm tra và Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Quốc gia Nhóm các nước ICH Bao gồm các nước thuộc EU, Nhật Bản, Mỹ, các nước là quan sát viên của ICH và thành viên liên kết của thành viên ICH được Bộ Y tế (Cục Quản lý dược) công bố theo danh sách cập nhật của ICH Patents Act Luật Bằng sáng chế PIC/S Hệ thống hợp tác thanh tra về dược PPP Chính sách mua bán Dược phẩm SEZ Khu kinh tế đặc biệt chuyên dụng Thuốc ETC Thuốc kê đơn Thuốc generic Thuốc sản xuất sau khi hết bản quyền sở hữu thuốc gốc Thuốc patent Thuốc có bản quyền sở hữu thuốc gốc UNCTAD Hội nghị Thương mại và phát triển của Liên hợp quốc UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc WHO Tổ chức Y tế thế giới WHO-GMP Tiêu chuẩn kỹ thuật về sản xuất thuốc theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới WTO Tổ chức Thương mại thế giới
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực dược, giai đoạn 2006-2012 63 Bảng 2.2: Danh sách 10 nước sản xuất xuất khẩu thuốc tân dược vào Việt Nam dẫn đầu về số đăng ký 73
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thế giới ngày nay, bệnh dịch, thiên tai diễn biến ngày càng phức tạp, đặt con người trước sự đe dọa từng ngày từng giờ. Để đối phó với những tình huống trên, các nhà y học, dược học đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo ra những loại thuốc điều trị tương ứng với từng loại bệnh. Các quốc gia cũng vì thế mà xích lại gần nhau hơn, tăng cường giao lưu, chia sẻ học hỏi, một mặt đẩy mạnh các hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu, mặt khác đẩy mạnh ngành công nghiệp dược nội địa, trong đó trọng tâm là thuốc tân dược. Kinh doanh thuốc tân dược đã xuất hiện và dần phát triển từ khoảng giữa thế kỷ 20, nhưng đến những năm cuối của thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 thì đặc biệt phát triển. Cùng với đó là hệ thống pháp luật, các văn bản quản lý cũng dần được hình thành và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của ngành công nghiệp này. Việt Nam là nước nằm ở phương đông, chịu ảnh hưởng nhiều của Y, dược học Trung Quốc, các loại thuốc có nguồn gốc từ dược liệu, thuốc đông y sử dụng phổ biến. Tuy nhiên các loại thuốc này không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của xã hội. Do đó thuốc tân dược được quan tâm với mục đích ban đầu là phục vụ chiến tranh vệ quốc, về sau nhu cầu của nhân dân ngày càng tăng thì ngành công nghiệp sản xuất thuốc tân dược cũng ngày càng lớn mạnh và được chú trọng phát triển. Đảng và nhà nước đã dành sự quan tâm bằng việc chỉ đạo ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân 1990, Nghị định 221/HĐBT, Thông tư hướng dẫn 03/TT-BYT tạo sự chuyển biến trong ngành công nghiệp dược, trải qua quá trình phát triển, các văn bản pháp luật đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn. Năm 2005, Luật Dược được ban hành cùng các văn bản hướng dẫn 1
  9. quy định các nội dung chủ yếu về kinh doanh thuốc, trọng tâm là thuốc tân dược. Văn bản này đánh dấu bước ngoặt lớn, tạo hành lang pháp lý vững chắc, đảm bảo quyền lợi cho hoạt động kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Tuy nhiên quá trình thực hiện, các hạn chế của quy định pháp luật đã dần nảy sinh và gây cản trở, khó khăn cho các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu cho thấy việc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam trong bối cảnh Luật Dược 2005 đã được thực thi gần 10 năm và đang trong quá trình lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung là rất cần thiết. Trước yêu cầu thực tiễn đòi hỏi, tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam” cho Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả không có tham vọng nghiên cứu tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam mà tập trung nghiên cứu các quy định về kinh doanh thuốc tân dược, đặc biệt chú trọng ba lĩnh vực sản xuất, xuất, nhập khẩu và phân phối thuốc tân dược ở Việt Nam nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật trong ngắn hạn cũng như trung và dài hạn. Về thời gian: Luận văn chú trọng nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam từ năm 2005 đến nay (từ khi Luật Dược 2005 ra đời). Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc, tập trung chủ yếu vào các đối tượng có hoạt động kinh doanh thuốc tân dược, bao 2
  10. gồm cả các chủ thể là cá nhân và tổ chức, các chủ thể kinh doanh là người Việt Nam hay người nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam còn khá mới, các chế định đang trong quá trình hoàn thiện, việc thực thi pháp luật còn chưa chặt chẽ, việc nghiên cứu về kinh doanh thuốc tân dược và pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam chưa được quan tâm một cách thoả đáng. Có thể thấy, gần đây để phục vụ cho quá trình hoàn thiện các chế định về kinh doanh thuốc tân dược nhằm hoàn thiện pháp luật dược ở Việt Nam thì các vấn đề này mới được xã hội và các nhà khoa học quan tâm. Tuy vậy để hướng tới chương trình mục tiêu quốc gia 2030 về Dược, từng bước đưa công nghiệp dược nội địa đi lên, phục vụ nhu cầu thuốc trong nước, dần thay thế ngoại nhập thì việc nghiên cứu các chế định về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Mục tiêu tổng quát của đề tài là: chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận, thực trạng-nguyên nhân, làm cơ sở hoàn thiện pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tác giả tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nghiên cứu những vấn đề lí luận làm cơ sở xây dựng pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam; - Nêu và đánh giá được nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển của các chế định về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam; - Nghiên cứu quy định pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam và các vấn đề liên quan; 3
  11. - Nghiên cứu pháp luật kinh doanh thuốc tân dược của một số nước trong khu vực và trên thế giới. - Đánh giá những ưu điểm, tiến bộ và những hạn chế, tồn tại của pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại; - Đưa ra hướng hoàn thiện trong ngắn hạn đồng thời đưa ra giải pháp trung và dài hạn nhằm hoàn thiện pháp luật kinh doanh thuốc tân dược trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật và những kinh nghiệm có thể áp dụng cho quá trình hoàn thiện pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Luận văn đưa ra được cái nhìn tổng quan về pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam, chỉ ra được những ưu điểm, thành tựu cũng như những tồn tại, hạn chế nhằm hướng tới những giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật có hiệu quả. 4. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, pháp luật dược nói chung và pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam nói riêng không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan nhà nước, các nhà làm luật mà đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Liên quan đến lĩnh vực này có nhiều công trình nghiên cứu ở các phạm vi khác nhau đã ra đời bao gồm cả sách báo, tạp chí và khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ. Trong chuyên ngành nghiên cứu về dược chuyên sâu, có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của công nghiệp dược, đồng thời chỉ ra phương hướng và giải pháp để phát triển hơn nữa, hướng tới mục tiêu quốc gia về phát triển công nghiệp dược. Đề tài nghiên cứu khá phong phú và đa dạng. Dưới góc độ kinh tế như “Dược phẩm Việt Nam - Thực trạng phát triển và giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh với Dược phẩm ngoại 4
  12. nhập” [43], có đề tài lại chuyên sâu về một hoạt động kinh doanh tại một đơn vị cụ thể như “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty Vimedimex” [41], đề tài khác lại nghiên cứu “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam” [36] có công trình nghiên cứu chuyên sâu về quản lý kinh doanh thuốc tân dược dưới góc độ quản lý kinh tế như “Quản lý nhà nước đối với kinh doanh thuốc tân dược trên địa bàn thà nh phố Hà Nội” [34]. Song song với các công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế còn có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về công dụng, đặc điểm, dược lực học của các hoạt chất, các cây thuốc thuộc lĩnh vực Y, Dược học nhằm mục đích bảo tồn, phát triển các cây thuốc, nghiên cứu, thử nghiệm để tìm ra hoạt chất mới, thuốc mới. Một số đề tài lại nghiên cứu dưới góc nhìn sở hữu trí tuệ như “Bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Kiều Oanh [42]. Đồng nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Đặng Thị Vân Anh tìm hiểu về “Bảo hộ sáng chế dược phẩm ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [2]. Trong khi đó tác giả Lê Thị Bích Thủy đi sâu nghiên cứu về “Bảo hộ sáng chế liên quan đến dược phẩm theo quy định của Hiệp định TRIPS và pháp luật Việt Nam” [58]. Một số đề tài khác lại tiếp cận nghiên cứu quy định pháp luật dưới góc độ quảng cáo thuốc như “Pháp luật thương mại về quảng cáo thuốc ở Việt Nam”[1] và “Pháp luật thương mại về quảng cáo thuốc” [38]. Bên cạnh đó, có một số công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như “Quyền sở hữu trí tuệ và quyền tiếp cận dược phẩm dưới góc độ quyền con người” của tác giả Nguyễn Thanh Tú, Phan Huy Hồng đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp [61], “Thực hiện cam kết của 5
  13. Việt Nam trong WTO đối với nhập khẩu song song dược phẩm” của tác giả Hồ Thúy Ngọc đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật [40] hay “Vận dụng linh hoạt các quy định tại Điều 31 TRIPS về LI - XĂNG bắt buộc để đảm bảo vấn đề tiếp cận dược phẩm của cộng đồng - kinh nghiệm từ Ấn Độ và Thái Lan” của tác giả Lê Thấn Phát, Lê Thị Ngọc Hà đăng trên tạp trí Khoa học pháp lý [35]. Đồng thời tác giả Lê Thị Bích Thủy cũng có bài viết “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế liên quan đến dược phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam”, đăng trên tạp chí Nghề Luật [59]. Tác giả Nguyễn Thái Mai cũng nghiên cứu và viết về “Bảo hộ dữ liệu khoa học liên quan đến dược phẩm, sản phẩm hoá nông theo quy định của điều ước quốc tế và tác động tới Việt Nam”, đăng trên tạp chí Luật học [39]. Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu về quy định dược phẩm nước ngoài dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật dược trong nước như “Quy định về chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng đối với sáng chế và nhập khẩu song song dược phẩm theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ” của tác giả Nguyễn Hồ Bích Hằng, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số đặc san 3/2013 [37]. Về sách, năm 2005 tác giả Nguyễn Văn Thung đã dày công nghiên cứu và viết cuốn “Hỏi và đáp về Luật Dược năm 2005” [57]. Cuốn sách đã lý giải một cách cơ bản, dễ hiểu, dễ tiếp cận nhất về những quy định trong Luật Dược 2005, trên cơ sở sự nghiên cứu các văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu kể trên mới chỉ dừng ở mức độ nghiên cứu một khía cạnh của Luật Dược, hoặc đề cập đến các nguồn nguyên liệu, các hoạt chất, thuốc mới dưới góc độ dược học bước đầu cho người đọc hiểu về thực trạng của các quy định về dược phẩm, từ đó đề xuất giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật dược ở nước ta. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống các quy 6
  14. định pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam, nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực này. Vì vậy đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh Luật Dược 2005 đã ban hành và thực thi được 10 năm thì việc nghiên cứu về pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam là cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu các quy định về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam, trong khi thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng cơ sở phương phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích các quy định của pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược, tìm hiểu và phân tích nguyên nhân của những ưu điểm cũng như tồn tại, vướng mắc; so sánh các quy định của pháp luật cũng như so sánh với chế định kinh doanh thuốc tân dược với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; tổng hợp những tài liệu đã thu thập được, từ đó tổng hợp lại để hoàn thiện luận văn. Đồng thời tác giả cũng sử dụng phương pháp sưu tầm, thống kê, hệ thống hoá các số liệu cũng như văn bản có liên quan để Luận văn có sức thuyết phục, mang lại ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Chương 2: Quy định của pháp luật về kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. Chương 3: Hướng hoàn thiện pháp luật kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam. 7
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KINH DOANH THUỐC TÂN DƢỢC Ở VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Thuốc và phân loại thuốc Trong cuộc sống thường ngày cũng như y dược học, thuốc đã trở thành một phần không thể thiếu. Dù yếu hay khoẻ, già hay trẻ, lớn hay nhỏ chúng ta đều phải ít nhất một lần dùng thuốc. Từ ngàn xưa, danh y Tuệ Tĩnh và sau này là Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã đúc rút và viết nên những cuốn sách tâm huyết về thuốc với tư tưởng Nam dược trị Nam nhân. Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, cùng với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nền y dược học phương Bắc đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền y dược học nước nhà. Bên cạnh thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc tự sản xuất trong nước, chúng ta còn có thêm nhiều loại thuốc nhập ngoại để phục vụ nhu cầu chữa trị bệnh cho nhân dân. Tuy vậy ngày nay bên cạnh thuốc có nhiều sản phẩm với tác dụng khác nhau, có mục đích sử dụng giống thuốc như: thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, mỹ phẩm có tác dụng giống thuốc, thiết bị y tế. Để xác định đâu là thuốc, đâu là các sản phẩm còn lại chúng ta chỉ có thể dựa vào thông tin do nhà sản xuất đưa ra, các cơ quan chức năng phân loại. Theo Từ điển bách khoa toàn thư: “Thuốc là những chất dưới dạng đơn chất hay hỗn hợp có nguồn gốc rõ ràng, được dùng cho người hoặc sinh vật để chẩn đoán, phòng và chữa bệnh, hạn chế hoặc thay đổi điều kiện bệnh lý hay sinh lý” [77]. Theo đó, thuốc được dùng cho đối tượng là người hoặc sinh vật, bao gồm cả thực phẩm và động vật. Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa một cách đơn giản: “Thuốc là chất được chế biến dùng để phòng hoặc chữa bệnh” [75]. Điều này nghĩa là thuốc 8
  16. chỉ đơn thuần là chất được chế biến nhằm mục đích phòng hoặc chữa bệnh và được hiểu là bao gồm tất cả các đối tượng có bệnh. Nguồn gốc xuất sứ, các dạng tồn tại hay nguồn gốc hình thành của các loại thuốc chưa được đề cập trong định nghĩa này. Theo tổ chức y tế Thế giới (WHO) thì thuốc được hiểu chung như sau: Thuốc hay còn được gọi là dược phẩm bao gồm hai thành phần cơ bản là thuốc Tân dược và thuốc Y học cổ truyền. Thuốc phải đảm bảo được độ an toàn, hiệu quả và có chất lượng tốt được quy định thời hạn sử dụng và sử dụng theo liều lượng hợp lý [78]. Tại Việt Nam, trước khi Luật Dược năm 2005 ra đời vào tháng 6/2005 thì khái niệm về thuốc cũng được đưa ra trong nhiều văn bản của Bộ Y tế. Cụ thể: Theo quy định của “Quy chế đăng ký thuốc” ban hành kèm theo Quyết định 3121/QĐ-BYT ngày 18/07/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế thì: “Thuốc là những sản phẩm dùng cho người nhằm phòng bệnh, chữa bệnh, làm giảm triệu chứng bệnh, chuẩn đoán bệnh và/hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý của cơ thể” [6]. Theo quy định của “Nguyên tắc thực hành tốt bảo quản thuốc” ban hành kèm theo Quyết định 2701/2001/QĐ-BYT ngày 29/6/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế thì: Thuốc là những sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, thực vật, khoáng vật, hóa dược hay sinh học được bào chế để dùng cho người, nhằm: - Phòng bệnh, chữa bệnh. - Phục hồi, điều chỉnh chức năng cơ thể. - Làm giảm triệu chứng bệnh. - Chẩn đoán bệnh. - Phục hồi hoặc nâng cao sức khoẻ. 9
  17. - Làm mất cảm giác một bộ phận hay toàn thân. - Làm ảnh hưởng quá trình sinh sản. - Làm thay đổi hình dáng cơ thể [5]. Khi Luật Dược năm 2005 có hiệu lực thì định nghĩa về thuốc được đề cập tới tại Điều 2 như sau: “Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng ” [47, Điều 2]. Dựa trên quá trình nghiên cứu và xây dựng, lấy ý kiến của các nhà chuyên môn, Luật Dược 2005 (văn bản pháp lý cao nhất trong lĩnh vực Dược) đã đưa ra khái niệm về thuốc một cách hoàn chỉnh. Trong đó, các yếu tố cấu thành thuốc gồm: - Thuốc thành phẩm là dạng thuốc đã qua tất cả các giai đoạn sản xuất, kể cả đóng gói trong bao bì cuối cùng và dán nhãn; - Nguyên liệu làm thuốc là chất tham gia vào thành phần cấu tạo sản phẩm trong quá trình sản xuất thuốc - Vắc xin là chế phẩm chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch, được dùng với mục đích phòng bệnh. - Sinh phẩm y tế là sản phẩm có nguồn gốc sinh học được dùng để phòng bệnh, chữa bệnh và chẩn đoán bệnh cho người [47, Điều 2]. Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các định nghĩa về thuốc như trên, ta thấy Thuốc có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, phải là một chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người. Đặc điểm này là đặc trưng của thuốc, phân loại với các loại thuốc dùng cho động vật mà chúng ta còn gọi là thuốc thú ý, thuốc dành cho thực vật bao gồm các loại thuốc trị sâu, trị bệnh, thuốc bảo quản. Thứ hai, mục đích sử dụng là để phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể. Nghĩa là các sản phẩm sử dụng ngoài các mục đích trên thì không được coi là thuốc. 10
  18. Thứ ba, thuốc chỉ bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng. Chỉ những sản phẩm dược phẩm được liệt kê ở trên mới là thuốc, các sản phẩm còn lại như thực phẩm chức năng, thực phẩm bổ sung, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bảo vệ sức khỏe và mỹ phẩm không phải là thuốc. Từ các khái niệm và đặc điểm của thuốc, dựa trên cách tiêu trí như theo tính chất hoá học, cơ chế, ảnh hưởng đến hệ sinh học, hoặc hiệu quả điều trị, thuốc có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Cụ thể như sau: Theo mục đích sử dụng thuốc có thể phân thành 3 loại: Thuốc phòng bệnh, Thuốc chẩn đoán bệnh và Thuốc chữa bệnh; Theo tây y hay y học cổ truyền thuốc có thể phân thành: Thuốc tân dược, Thuốc cổ truyền (đông dược); Theo nguồn gốc thuốc có thể chia thành: Thuốc sơ chế với nguồn gốc tự nhiên, Thuốc tổng hợp; Theo dạng bào chế thuốc có thể chia thành: Thuốc tiêm, Thuốc viên, cao, đơn, hoàn, tán, Thuốc xoa; Theo tác dụng với các cơ quan cơ thể, các chức năng cơ thể hay theo loại bệnh thuốc có thể được phân thành: Thuốc tác dụng trên hệ thần kinh thực vật (thuốc tác dụng trên hệ giao cảm, thuốc tác dụng trên hệ phó giao cảm); Thuốc tác dụng trên hệ thần kinh trung ương (thuốc mê, thuốc tê, thuốc ngủ, thuốc giảm đau gây ngủ, thuốc giảm đau chống viêm, thuốc chữa động kinh, thuốc chữa Parkinson, dược lý tâm thần); Thuốc tác dụng trên cơ quan và hệ máu (Thuốc trợ tim, thuốc chữa loạn nhịp tim); Thuốc chữa cơn đau thắt ngực; Thuốc điều trị tăng huyết áp; Thuốc lợi tiểu, các chất điện giải, các dịch thay thế huyết tương, các dịch điều chỉnh thăng bằng kiềm toan; Thuốc điều chỉnh rối loạn tiêu hoá; Thuốc điều chỉnh rối loạn hô hấp; Thuốc chữa thiếu máu. 11
  19. 1.1.2. Thuốc tân dược và cách phân loại 1.1.2.1. Khái niệm thuốc tân dược Như đã đề cập ở trên, theo tổ chức y tế Thế giới (WHO) thì thuốc được hiểu chung như sau: Thuốc hay còn được gọi là dược phẩm bao gồm hai thành phần cơ bản là thuốc tân dược và thuốc y học cổ truyền. Vậy thuốc tân dược là gì? Theo quan điểm chung của các nhà chuyên môn thuốc tân dược được hiểu là loại thuốc được sản xuất từ hóa chất, các loại vi nấm, các loại cây cỏ bào chế dưới dạng tinh khiết hoặc một số chất bán tổng hợp thành [34, tr.10]. Khác với thuốc đông y, tân dược thường được sản xuất trong các nhà máy, đòi hỏi độ chính xác cao, trình độ công nghệ cao. Phần lớn các dây truyền sản xuất tân dược được tự động hóa Thuốc tân dược bao gồm hai thành phần: Nguyên liệu hóa dược và sinh học dùng làm thuốc; Thành phẩm hóa dược và sinh học. Thuốc nói chung có tầm quan trọng rất lớn đối với sức khỏe con người. Nó không chỉ có tác dụng chữa bệnh, ngừa bệnh, mà một số khác còn có tác dụng chăm sóc sức khỏe con người như bồi bổ dưỡng chất, tăng cường sinh lực giúp cho cơ thể trở nên khỏe khoắn hơn, dẻo dai hơn do đó con người không những sống khỏe mạnh mà còn kéo dài được tuổi thọ của mình. Với một số đặc điểm sau đây, sẽ thể hiện được vai trò của thuốc tân dược trong việc chăm sóc sức khỏe con người kỳ hiện nay [34, tr.12]: Thuốc tân dược thuận tiện cho người sử dụng. Khác với những loại thuốc mà dân gian vẫn thường sử dụng để chữa bệnh như thuốc đông y, thuốc nam, thuốc lá, thuốc tân dược là chất hóa học được điều chế thành thuốc dựa vào công nghệ hiện đại và các phát minh, sáng chế nhằm tác động đến một hay nhiều cơ quan trong cơ thể và làm thay đổi tiến trình một số bệnh. Thuốc tân dược được điều chế dưới nhiều dạng, vô cùng phong phú: dạng viên nén 12
  20. dùng để uống; dạng dung dịch để tiêm, truyền qua da; dạng mỡ, gel để bôi ngoài da. Tùy vào tính chất bệnh lý cũng như mục đích sử dụng mà người chọn thuốc dưới dạng nào sử dụng cho thích hợp. Nếu như các loại thuốc dân gian như thuốc đông y, thuốc nam phải mất thời gian để tìm kiếm nguyên liệu điều chế thuốc, bốc thuốc cho đúng liều lượng, sắc thuốc cho đúng thời gian quy định và phải uống ngay sau khi sắc thuốc xong, thì thuốc tân dược đã giảm được không ít công đoạn điều chế thuốc, tiết kiệm thời gian cho người sử dụng, thích hợp với các điều kiện khi bệnh nhân di chuyển, vô cùng tiện lợi. Mặt khác, các loại thuốc dân gian thường chỉ được sử dụng dưới hình thức uống nhưng một số loại bệnh lý hiện nay nếu chỉ dùng thuốc để uống thì công dụng của thuốc phát huy chậm, không đem lại hiệu quả như mong muốn. Thay vì sử dụng thuốc tân dược dưới dạng tiêm truyền qua tĩnh mạch máu, các thành phần trong thuốc lập tức đi vào máu và có tác dụng ngay lập tức, giúp cho việc điều trị bệnh trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn. Thuốc tân dược đa dạng hơn trong mục đích sử dụng. Ngày nay, khi xã hội càng ngày càng phát triển, công cuộc toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, khi môi trường sống không còn trong lành và sạch sẽ thì con người càng lúc càng phải đối mặt với các loại bệnh lạ, bệnh hiểm nghèo. Việc sử dụng công nghệ hiện đại cùng với những phát minh khoa học tiên tiến con người có thể tạo ra những loại thuốc hữu hiệu trong việc điều trị bệnh, điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với xã hội con người hiện nay, đó cũng là một điểm mạnh của thuốc tân dược mà bất kỳ loại thuốc dân gian nào cũng không có được. Con người trong xã hội phát triển, thường bận rộn với công việc của mình mà quên đi nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, thường thì con người gặp các triệu chứng của các bệnh văn phòng như đau lưng, mỏi mắt, thiếu máu não, hay thiếu các chất vi lượng, các loại vitamin, các loại khoáng chất. Thuốc tân dược rất linh hoạt trong vấn đề chăm sóc sức khỏe của con người, nó hơn hẳn 13
  21. các loại thuốc cổ truyền trước đây con người vẫn hay sử dụng. Tùy vào các mục đích khác nhau mà thuốc tân dược điều chế các loại khác nhau, không chỉ bổ sung chất cần thiết cho cơ thể mà nó còn tiện lợi trong guồng quay của xã hội hiện nay. Thuốc tân dược an toàn trong điều chế, bảo quản. Thuốc tân dược được sản xuất theo quy trình nghiêm ngặt, có đăng ký bản quyền nhãn hiệu, có giấy chứng nhận xuất xứ, tiêu chuẩn chất lượng, được quy định sử dụng trong thời gian cụ thể và được nghiên cứu chống chỉ định đối với những đối tượng không phù hợp. Những mặt tích cực của thuốc tân dược hơn hẳn các loại thuốc dân gian thông thường, khi mà thuốc dân gian thường được điều chế dưới hình thức kinh nghiệm truyền thống, không có nghiên cứu cụ thể, quy trình sản xuất, bảo quản không được lưu ý chú trọng, rất dễ gây ra hiện tượng thuốc mốc, thuốc quá thời hạn sử dụng, thuốc không phù hợp với bệnh nhân gây hiện tượng kháng thuốc, dị ứng thuốc. Thuốc luôn là con dao 2 lưỡi, nếu như sử dụng nó đúng liều lượng, đúng mục đích, đúng đối tượng thì hiệu quả của nó thực sự rất cao nhưng ngược lại nếu nó không được sử dụng đúng liều lượng, đúng mục đích, đúng đối tượng thì nó vô cùng nguy hiểm đến tính mạng con người. Mặc dù vậy, qua việc so sánh thuốc tân dược với các loại thuốc dân gian xưa dựa trên những tiêu chí trên, chúng ta có thể khẳng định được vai trò của thuốc tân dược đối với con người nói riêng, đối với xã hội loài người nói chung là vô cùng quan trọng và thực sự có ý nghĩa rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đồng thời thuốc tân dược cũng có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của loài người, là một yếu tố đắc lực để con người bước đến những thành tựu mới, kỷ nguyên mới 1.1.2.2. Phân loại thuốc tân dược Do thị trường tân dược hiện nay quá rộng lớn ta không thể nào nhớ hết 14
  22. từng loại thuốc cho nên việc phân loại thuốc tân dược là rất quan trọng. Phân loại thuốc tân dược giúp người tiêu dùng đặc biệt là các bác sĩ, y tá biết được một thuốc nằm trong nhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó, từ đó có thể suy ra tính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Dưới đây là 3 cách phân loại thuốc tân dược Việt Nam cơ bản nhất. Theo cách thức sử dụng, thuốc tân dược có thể chia thành hai loại: Thuốc OTC (hàng không kê toa, chủ yếu bán ở các nhà thuốc bán lẻ) và thuốc ETC điều trị (thuốc có kê toa, sử dụng trong bệnh viện và các trung tâm y tế). Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, thống kê thuốc kê toa và thuốc không kê toa chỉ mang ý nghĩa tương đối do các loại thuốc điều trị vẫn được bán tự do trên thị trường. Theo kênh phân phối, thuốc tân dược có thể được chia thành hai loại là thuốc tân dược phân phối vào hệ thống bệnh viện và thuốc tân dược phân phối ra thị trường. Đối với cách phân loại này, ta có thể chia thuốc tân dược được phân phối trong hệ thống bệnh viện thành 2 nhóm nhỏ bao gồm: thuốc được bảo hiểm y tế chi trả và thuốc không nằm trong danh mục được bảo hiểm y tế chi trả. Theo bản quyền chế tác, thuốc tân dược có thể được chia thành: thuốc generic (thuốc thay thế thuốc phát minh, được đưa ra thị trường sau khi bằng bảo hộ sáng chế hoặc các độc quyền đối với thuốc phát minh đã hết hạn hiệu lực) và thuốc patent (có bản quyền sở hữu thuốc gốc). Cách phân loại này cho ta thấy lượng thuốc được sản xuất trong thời gian bằng phát minh, sáng chế vẫn còn hiệu lực, qua đó nhận định được về khả năng tiếp cận thuốc của người bệnh. 1.1.3. Vấn đề kinh doanh thuốc tân dược Dựa trên khái niệm về kinh doanh thuốc được quy định tại Luật Dược năm 2005, ta có thể định nghĩa: Kinh doanh thuốc tân dược là việc thực hiện 15