Luận văn Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam

pdf 105 trang vuhoa 25/08/2022 9001
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_kiem_soat_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_tr.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG CÔNG HIẾN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG CÔNG HIẾN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN CẢNH QUÝ Hà nội – 2012
  3. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1 Mục lục . 2 Danh mục các chữ viết tắt 3 MỞ ĐẦU . 5 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 10 1.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong 10 hoạt động thương mại 1.2. Vai trò và các tiêu chí đánh giá pháp luật kiểm soát VSATTP trong 25 hoạt động thương mại . 1.3. Pháp luật kiểm soát VSATTP một số nước trên thế giới và những kinh 34 nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG 49 THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Quá trình phát triển của pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại Việt Nam . 49 2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam 61 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT VSATTP TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM . 79 3.1. Những yêu cầu đặt ra và quan điểm hoàn thiện pháp luật kiểm soát 79 VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam . 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt 85 động thương mại . KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 100 2
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. Danh mục cụm từ viết tắt Tiếng Việt: ATTP An toàn thực phẩm BVMT Bảo vệ môi trường BVTV Bảo vệ thực vật KH&CN Khoa học và Công nghệ NN&PTNN Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn QPPL Quy phạm pháp luật TC-CL-ĐL Tiêu chuẩn - Chất Lượng - Đo lường TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TW Trung ương VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm 2. Danh mục cụm từ viết tắt Tiếng Anh: Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt ASEAN Association of South East Hiệp hội các quốc gia Đông Asian Nations Nam Á EC European Commission Uỷ ban Châu Âu EU European Union Liên minh châu Âu FDA Food and Drug Cơ quan quản lý thực phẩm và Administration dược phẩm Hoa Kỳ GMP Good Manufacturing Pratice Quy phạm sản xuất tốt 3
  5. HACCP Hazard Analysis and Critical Hệ thống phân tích mối nguy và Control Point điểm kiểm soát tới hạn IPPC International Plant Protection Công ước bảo vệ thực vật quốc Convention tế ISO International Standard Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế Organization ISPM International Standard for Tiêu chuẩn quốc tế về biện pháp Phytosanitary Measures kiểm dịch thực vật OIE World Organisation for Tổ chức sức khoẻ động vật thế Animal Health giới SPS Sanitary and Phytosanitary Biện pháp kiểm dịch động thực Measures vật TBT Technical Barriers to Trade Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại TRIPs Trade related aspects of the Các khía cạnh của quyền sở hữu intellectual and property trí tuệ liên quan đến thương mại rights WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới 4
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là vấn đề liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng con người, duy trì và phát triển nòi giống cũng như quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, vấn đề VSATTP đang được quan tâm cả trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp cần được xử lý, trong đó đảm bảo VSATTP là một trong những vấn đề hết sức cấp bách, được toàn xã hội rất quan tâm. Hàng loạt các yêu cầu đang được đặt ra và cần phải thực hiện một cách nghiêm túc, khẩn trương nhằm kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong cộng đồng. Việc kiểm soát nhập khẩu thực phẩm không đảm bảo yêu cầu vệ sinh và an toàn, các chất phụ gia thực phẩm độc hại, các loại hoá chất bảo vệ thực vật, các giống cây trồng vật nuôi, di nhập các loài sinh vật lạ, nhập khẩu các sản phẩm biến đổi gen đang là thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, quản lý lưu thông thực phẩm, các cơ sở giết mổ, hệ thống kinh doanh ăn uống, quy trình trồng trọt, chăn nuôi, phòng chống và triệt tiêu dịch bệnh đang gặp nhiều khó khăn. Những bất cập trong hoạt động kiểm soát VSATTP là nguyên nhân của các vụ ngộ độc thức ăn và lây lan dịch bệnh từ thực phẩm. Chất lượng thực phẩm không đảm bảo các yêu cầu vệ sinh còn làm giảm khả năng thâm nhập thị trường và cạnh tranh hàng thực phẩm của ta trên thị trường thế giới. Thực tiễn cho thấy, vai trò của các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại nhằm quản lý vấn đề VSATTP là hết sức quan trọng. Nó là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại. 5
  7. An toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội, về an toàn xã hội, sức khoẻ cộng động, về bảo vệ môi trường và cũng là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến tiến trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, Đảng ta và Nhà nước ta thường xuyên chỉ đạo và đưa ra các giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 25 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp để phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân nói chung và lĩnh vực ATTP nói riêng, một trong những nhiệm vụ đó là "Triển khai mạnh mẽ các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm". Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật nhằm kiểm soát VSATTP nói chung và trong hoạt động thương mại nói riêng. Các văn bản đó đã góp phần không nhỏ vào việc quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo sức khỏe nhân nhân. Tuy nhiên cần có những rà soát, đánh giá lại các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề VSATTP trong hoạt động thương mại để thấy được những ưu điểm, tồn tại cũng như đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam” là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, hiện nay đã có một số công trình đề cập đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm như: Nguyễn Văn Thung (2010), “Hỏi đáp về Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm và các văn bản hướng dẫn thi hành”, NXB Chính 6
  8. trị quốc gia; Nguyễn Văn Nam (2010), “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm”, NXB Lao động; Trần Đáng (2005), “Vệ sinh an toàn thực phẩm’’, NXB Y học; Trần Đáng (2008) “An toàn thực phẩm’’, NXB Hà Nội. Ngoài ra, còn có những bài viết trên các tạp chí, báo như: “Vệ sinh an toàn thực phẩm - trách nhiệm của cả cộng đồng” của tác giả Văn Đông trên báo Hậu Giang số ra ngày 10/05/2010; “Vệ sinh an toàn thực phẩm, một vấn đề xã hội bức xúc cần phải giải quyết sớm và hiệu quả” của GS. Chu Phạm Ngọc Sơn được đăng tải trên Website của Hội các phòng thử nghiệm Việt Nam; Những công trình này đã đề cập đến vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu thực trạng những quy định pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện nó. Ở nước ngoài, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại và đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại của Việt Nam * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại như: khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như tiêu chí đánh giá pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại. Đông thời tìm hiểu pháp luật ATTP của một số nước trên thế giới. 7
  9. - Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Qua đó, nhận xét, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại hiện hành, rút ra nguyên nhân của những hạn chế. - Nêu những yêu cầu đặt ra, quan điểm cũng như giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thươn mại ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn chủ yếu nghiên cứu những vấn đề về pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Ngoài ra còn nghiên cứu pháp luật an toàn thực phẩm của một số nước điển hình trên thế giới. - Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2003 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau để làm rõ những vấn đề của đề tài: - Thu thập, tập hợp số liệu, tài liệu liên quan đến đề tài; - Phân tích so sánh hệ thống quy định tiêu chuẩn của Việt Nam về an toàn thực phẩm với các quy định quốc tế để đánh giá sự phù hợp. 6. Những đóng góp của luận văn * Đóng góp mới trong khoa học: Luận giải và đưa ra hệ thông khái niệm liên quan đến pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương 8
  10. mại; Chỉ ra những thành tựu và hạn chế của pháp luật hiện hành về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. * Đóng góp mới trong thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại, luận văn đã gởi mở những hướng mới cho công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật này. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại. Chương 2: Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. 9
  11. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI 1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm vệ sinh an toàn và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại 1.1.1.1. Khái niệm vệ sinh an toàn và kiểm soát VSATTP - Khái niệm về thực phẩm và VSATTP Có thể hiểu thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Thực phẩm cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì và phát triển sức khoẻ của mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội. Việc bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng liên quan đến hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội, song nhu cầu về dinh dưỡng vẫn là nhu cầu thiết yếu mà thực phẩm là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đáp ứng nhu cầu đó. Dó đó, chất lượng của thực phẩm có vai trò quyết định đối với phát triển thể chất của con người, bảo tồn và phát triển nòi giống của con người. Phần lớn thức ăn của con người là những sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên như rau, quả, các loại hạt, thịt gia súc, gia cầm, hải sản Cùng với sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhiều loại thực phẩm chức năng được sản xuất và phổ biến rộng rãi. Cùng với việc đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng, thực phẩm cũng có nguyên nhân gây nên những tác hại đến sức khoẻ của con người và cộng đồng nếu thực phẩm không đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn. Do điều kiện về môi trường cũng như các tác nhân khác, trong thành phần của thực phẩm có thể chứa các độc tố cũng như các vi khuẩn gây bệnh. Nếu lượng độc tố và vi khuẩn có trong thực phẩm vượt qua ngưỡng cho phép thì có thể gây nên các nạn 10
  12. dịch, các vụ ngộ độc, đồng thời cũng là nguồn gốc của nhiều bệnh tật ảnh hưởng đến sức khỏe con người trong các thế hệ tương lai. Thực phẩm gây nguy hiểm đối với sức khoẻ và tính mạng con người là do: Thứ nhất, thực phẩm bị nhiễm các chất vi sinh độc hại như nấm, vi khuẩn, ký sinh trùng (dư lượng vi sinh). Các chất vi sinh này có thể bị nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, bảo quản thực phẩm, cũng có thể là mầm bệnh có trong động, thực vật. Những vi sinh vật chủ yếu gây ngộ độc và dịch bệnh tương đối phổ biến hiện nay là Salmonella, Ecoli, cryptospora Những bệnh có ở động vật có hại cho con người thường thấy như là bệnh lở mồm long móng ở lợn, bệnh bò điên, bệnh cúm gia cầm (H5N1). Thứ hai, thực phẩm bị nhiễm các chất độc hại trong quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu thông, (dư lượng độc tố). Đó là những hoá chất được thêm vào một cách vô tình trong quá trình sản xuất, chế biến, lưu thông như phân bón, thuốc trừ sâu, kháng sinh, chất kích thích tăng trưởng; hoặc kim loại nặng, hoá chất làm sạch, bôi trơn máy móc thiết bị trong quá trình chế biến. Việc sử dụng các chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm tùy tiện cũng có thể gây nên nguy hiểm đối với con người. Thứ ba, những ảnh hưởng tác động từ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ mới như công nghệ sinh học, áp dụng phương pháp chiếu xạ thực phẩm trong bảo quản, đóng gói bao bì. Việc sử dụng các quy trình công nghệ này nếu không có được sự phân tích và đánh giá mối nguy tiềm ẩn của nó có thể gây nên những đột biến trong quá trình sinh trưởng và tồn tại của thực phẩm. Những hậu quả thường là các loại thực phẩm bị biến đổi gen, chứa các chất phóng xạ nguy hại Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về “vệ sinh an toàn thực phẩm”. Tuy nhiên, theo tác giả, khái niệm sau có tính khái quát hơn cả. “Vệ sinh an toàn thực phẩm là các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức khoẻ và tính mạng con người”. Có nghĩa là những hành động 11
  13. của con người nhằm ngăn chặn các mối nguy, hạn chế và xử lý hậu quả do thực phẩm gây ra đối với con người động thực vật. Cụ thể: + Phòng ngừa các mối nguy về an toàn và vệ sinh thực phẩm; + Kiểm tra, kiểm soát, xử lý các trường hợp vi phạm VSATTP; + Can thiệp để loại trừ hậu quả do thực phẩm gây nên đối với con người, môi trường và phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, mục đích trực tiếp của việc đảm bảo VSATTP là bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Tuy nhiên, vấn đề VSATTP còn có ý nghĩa to lớn hơn đó là vấn đề phát triển con người, vấn đề chất lượng cuộc sống, vấn đề công bằng xã hội, vấn đề hội nhập quốc tế và văn hoá. Trước hết, xét về bình diện xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm liên quan đến chất lượng lao động của cả nền kinh tế hiện tại và tương lai, duy trì và phát triển nòi giống của dân tộc. Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, an toàn vệ sinh thực phẩm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là những nước đang phát triển mà nguồn tích luỹ ban đầu dựa chủ yếu vào các nguồn lực tự nhiên. Các sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là lợi thế cạnh tranh của các nước này trong thương mại quốc tế, làm tăng khả năng tiếp cận thị trường. Thứ ba, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm còn có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi thu hút ngoại lực như đầu tư trực tiếp nước ngoài, du lịch, nâng cao hình ảnh quốc gia trong con mắt của người nước ngoài. Cuối cùng, vệ sinh an toàn thực phẩm còn liên quan đến các yếu tố văn hoá - xã hội. Văn hoá ẩm thực của một vùng, một nước là di sản vô cùng quý giá góp phần cho phát triển. Để hiểu rõ thêm về vệ sinh an toàn thực phẩm cần phân biệt một số khái niệm sau đây: + An toàn thực phẩm: là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.[26] 12
  14. + Vệ sinh thực phẩm: tất cả các điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và tính phù hợp của thực phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm, trong đó tính phù hợp của thực phẩm là việc đảm bảo rằng thực phẩm được chấp nhận cho người tiêu dùng theo đúng mục đích sử dụng của chúng. + Tính phù hợp của thực phẩm: việc đảm bảo rằng thực phẩm được chấp nhận cho người tiêu dùng theo đúng mục đích sử dụng của chúng. + Người xử lý thực phẩm: là người tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm mà thực phẩm đó được đóng gói hay không được đóng gói, người đó có sử dụng trang bị và dụng cụ dùng để chế biến xử lý thực phẩm hay có các bề mặt vật dụng tiếp xúc với thực phẩm và vì vậy họ phải tuân theo các yêu cầu về vệ sinh thực phẩm. Tiêu chuẩn nguyên tắc chung này là nền móng vững chắc cho việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và cần được sử dụng liên kết với từng quy phạm riêng về thực hành vệ sinh một cách thích hợp, phối hợp với những hướng dẫn về chỉ tiêu vi sinh. Tuy nhiên, cần phải phân biệt rõ giữa hai khái niệm an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm. Nếu như an toàn thực phẩm được xem xét dưới góc độ các chất độc hại cấp hoặc mãn tính mà khi tồn tại trong thực phẩm có khả năng gây nguy hiểm cho sức khoẻ người tiêu dùng thì chất lượng thực phẩm bao gồm tất cả các thuộc tính có ảnh hưởng đến giá trị của sản phẩm. Những thuộc tính này tác động theo hai khía cạnh, đó là những thuộc tính tiêu cực như hư hỏng, thối rữa, nhiễm bẩn, đổi màu và các thuộc tính tích cực như nguồn gốc, màu sắc, hương vị, phương pháp chế biến thực phẩm An toàn thực phẩm là một trong yêu cầu về chất lượng thực phẩm nhưng chất lượng thực phẩm còn bao gồm các yếu tố khác. - Khái niệm về kiểm soát VSATTP Tại bất cứ một quốc gia nào, hệ thống kiểm soát thực phẩm luôn đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục, hạn chế và phòng ngừa những nguy cơ do 13
  15. thực phẩm gây ra đối với sức khoẻ con người. Kiểm soát thực phẩm tập trung vào hai nhóm hành động đó là: đảm bảo về an toàn vệ sinh thực phẩm chủ yếu là kiểm soát các dư lượng độc tố và dư lượng vi sinh trong thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật, hạn chế bệnh dịch hại và lây lan mầm bệnh từ thực phẩm. Phạm vi kiểm soát: Hệ thống kiểm soát thực phẩm cần bao hàm tất cả các hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm trên thị trường không chỉ đối với nguồn thực phẩm trong nước mà còn tính đến hàng thực phẩm nhập khẩu. Hệ thống này cần phải có cơ sở được pháp luật quy định cụ thể. + Những yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát thực phẩm: Thứ nhất, các quy định và luật thực phẩm: Đây là một thành phần cốt yếu của hệ thống kiểm soát thực phẩm hiện đại. Nhiều quốc gia hiện nay không có một hệ thống pháp luật thực phẩm tương xứng và do đó đã ảnh hưởng đáng kể tới hiệu quả của các hoạt động kiểm soát thực phẩm. Theo truyền thống, luật thực phẩm bao gồm các quy định pháp lý về thực phẩm không an toàn, các công cụ pháp lý có tính chất bắt buộc để loại bỏ nguồn thực phẩm không đảm bảo an toàn ra khỏi quá trình thương mại cũng như để xử phạt các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống các cơ quan kiểm soát thực phẩm không được uỷ nhiệm một cách rõ ràng về quyền hạn để xử lý những vấn đề an toàn thực phẩm. Do vậy phần lớn các chương trình VSATTP đều phản ứng lại, mang chiều hướng ép buộc hơn là chủ động phòng ngừa.Theo quan điểm hiện nay, luật thực phẩm không chỉ chứa đựng những quy định pháp lý cần thiết đủ mạnh mà còn có những điều khoản cho phép các nhà quản lý thực phẩm có thẩm quyền xây dựng các kế hoạch phòng ngừa. Bên cạnh các quy định pháp luật, chính phủ cần phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực phẩm. Các tiêu chuẩn này có thể được chia ra làm hai loại: (a) căn cứ vào mức độ rủi ro đối với nhà sản xuất theo dạng thiệt hại tiềm năng hoặc giảm sút năng lực sản xuất, (b) rủi ro đối với người tiêu dùng từ việc sử dụng các sản phẩm bị nhiễm độc hoặc hư hỏng. Cụ thể: 14
  16. Trong những năm gần đây, nhiều tiêu chuẩn pháp lý với mức độ cao đã được thay thế bằng nhiều tiêu chuẩn mang tính chất theo chiều rộng. Trong khi các tiêu chuẩn này được coi là cách thức để thực hiện các mục tiêu an toàn thực phẩm thì chúng lại đòi hỏi chu trình thực phẩm cần được kiểm soát ở mức cao và các nguồn dữ liệu cần được cung cấp đầy đủ về những mối nguy an toàn thực phẩm cũng như chiến lược quản lý mối nguy hiện nay. Tương tự, nhiều tiêu chuẩn về chất lượng thực phẩm đã được xoá bỏ và thay thế bằng các yêu cầu dán nhãn. Thứ hai, hoạt động quản lý kiểm soát thực phẩm: Hệ thống kiểm soát thực phẩm có hiệu quả đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa hành động và chính sách ở cấp độ quốc gia. Trong khi các chức năng cụ thể chi tiết của hệ thống kiểm soát được xác định bởi pháp luật của mỗi nước thì hoạt động quản lý kiểm soát bao hàm việc thiết lập các nhiệm vụ trọng tâm, cơ cấu hành chính với việc giải trình một cách rõ ràng về các vấn đề như: Việc phát triển và thực hiện một chiến lược kiểm soát thực phẩm quốc gia thống nhất; Sự hoạt động của chương trình kiểm soát thực phẩm quốc gia, các nguồn lực phân phối; Việc thiết lập các tiêu chuẩn và quy định; Việc tham gia vào các hoạt động có liên quan tới kiểm soát thực phẩm quốc tế, thực hiện phân tích rủi ro Nhiệm vụ trọng tâm của việc quản lý kiểm soát thực phẩm là hình thành các biện pháp điều tiết cũng như một hệ thống quan trắc mang tính cải thiện liên tục và việc cung cấp tổng thể về các hướng dẫn chính sách. Thứ ba, lực lượng thanh tra: Việc thiết lập và thi hành luật thực phẩm đòi hỏi một lực lượng thanh tra thực phẩm chất lượng, được đào tạo, hoạt động có hiệu quả. Thanh tra thực phẩm là lực lượng quan trọng có mối liên hệ hàng ngày với các ngành công nghiệp thực phẩm, thương mại và cộng đồng. Một hệ thống kiểm soát thực phẩm hoạt động hiệu quả phụ thuộc nhiều vào kỹ năng, trình độ và tính trung thực của đội ngũ thanh tra. Do hệ thống thực phẩm hiện nay khá phức tạp nên thanh tra thực phẩm cần được đào tạo đầy đủ về khoa học thực phẩm và kỹ thuật để hiểu rõ về các 15
  17. quá trình chế biến công nghiệp, kỹ năng và kinh nghiệm để thanh tra pháp lý, thu thập mẫu thực phẩm và đánh giá tổng thể. Hiện nay, tại các quốc gia đang phát triển nguồn lực thanh tra thực phẩm trong các tổ chức kiểm soát thực phẩm còn nhiều yếu kém, thông thường các thanh tra sức khoẻ môi trường làm việc như là một thanh tra thực phẩm. Thứ tư, hệ thống kiểm định - nguồn dữ liệu dịch tễ học, quan trắc an toàn thực phẩm: đây là thành phần chủ yếu của hệ thống kiểm soát thực phẩm. Những kết quả phân tích từ các phòng thí nghiệm, phân tích thực phẩm là cơ sở khoa học vững chắc để chúng ta nhìn nhận về thực trạng đảm bảo các yêu cầu VSATTP hiện nay. Việc xây dựng một hệ thống kiểm nghiệm hiện đại, chính xác đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư lớn để xây dựng, duy trì và hoạt động. Để đảm bảo tính công khai minh bạch, các phòng phân tích thực phẩm có thể không nằm dưới sự kiểm soát của một cơ quan hoặc bộ nào tuy nhiên hệ thống quản lý kiểm soát thực phẩm nên đưa ra các quy phạm, tiêu chuẩn của các phòng kiểm soát thực phẩm và giám sát hoạt động của chúng. Thứ năm, thông tin, giáo dục, truyền thông và đào tạo: đây là một nguyên tắc ngày càng đóng vai trò quan trọng đảm bảo cho hệ thống kiểm soát thực phẩm quốc gia hoạt động một cách hiệu quả và liên tục. Tại bất kỳ một quốc gia nào, uỷ ban kiểm soát thực phẩm phải là một tổ chức độc lập, tồn tại riêng rẽ với những mục tiêu, phương thức rõ ràng, hoạt động dựa trên việc hài hoà giữa mục đích của Chính phủ với các thành phần khác nhau tham gia vào chuỗi thực phẩm. Cơ quan kiểm soát thực phẩm nhất thiết phải được nhìn nhận như là một đơn vị độc lập và riêng rẽ với những mục tiêu cụ thể, hoạt động phối hợp giữa Chính phủ với các thành viên có liên quan trong chuỗi thực phẩm. Tổ chức cần được xây dựng trên nền tảng đội ngũ chuyên gia quản lý được đào tạo, một yếu tố được xem như là chìa khoá của chương trình, và cung cấp các biện pháp kỹ thuật chính xác cho việc kiểm soát toàn bộ chu trình thực phẩm để bảo vệ người 16
  18. tiêu dùng, đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp và thương mại thực phẩm an toàn và chất lượng, ngăn chặn những hành vi gian lận. Cơ cấu tổ chức của cơ quan kiểm soát thực phẩm quốc gia đôi khi có thể thay đổi giữa các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc gia đó nhưng nhất thiết phải đảm bảo những quy tắc, thành phần và các hoạt động như độc lập, các quyết định đưa ra phải rõ ràng và là quá trình mở, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động. Hoạt động kiểm soát thực phẩm là các hoạt động điều tiết có tính chất bắt buộc ở phạm vi địa phương, quốc gia hay quốc tế để bảo vệ người tiêu dùng, đảm bảo rằng thực phẩm trong quá trình chế biến, sản xuất, lưu trữ, đóng gói, phân phối là an toàn và phù hợp cho sự tiêu dùng của con người; thích hợp với các yêu cầu về an toàn và chất lượng; đảm bảo hàng hoá được dán nhãn theo các quy định của pháp luật Như vậy, kiểm soát VSATTP là các biện pháp được tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu trong chu trình vận động của thực phẩm: từ dịch vụ đầu vào bao gồm giống, thức ăn, điều kiện nuôi trồng, khâu sản xuất bao gồm quy trình chăn nuôi, các điều kiện về chuồng trại, kỹ thuật nuôi trồng, đến khâu chế biến, vận chuyển, bảo quản, phân phối và sử dụng. 1.1.1.2. Khái niệm về kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại Thương mại, tiếng Anh là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có ý nghĩa là trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ nữa là Business hoặc Commerece với nghĩa là buôn bán hàng hoá, kinh doanh hàng hoá hay là mậu dịch. Tiếng Pháp cũng có từ ngữ tương đương Commerce (tương đương với Business, Trade của tiếng Anh) là sự buôn bán, mậu dịch hàng hoá, dịch vụ. Tiếng La tinh, thương mại là Commercium vừa có ý nghĩa là mua bán hàng hoá, vừa có ý nghĩa là hoạt động kinh doanh. Như vậy khái niệm thương mại cần được hiểu cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. 17
  19. Theo nghĩa rộng, Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường, Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại ngày 25 tháng năm năm 2003, thì hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính ngân hàng; bảo hiểm; thăm do khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Theo nghĩa hẹp, Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá. Nếu hoạt động trao đổi hàng hoá (kinh doanh hàng hoá) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi đó là ngoại thương (hoạt động xuất, nhập khẩu) Trên thực tế, thương mại có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau: - Theo phạm vi hoạt động, có thương mại nội địa (nội thương), thương mại quốc tế (ngoại thương), thương mại khu vực, thương mại thành phố, nông thôn, thương mại nội bộ ngành - Theo đặc điểm và tính chất của sản phẩm trong quá trình tái sản xuất xã hội, có thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại hàng sản xuất, thương mại hàng tiêu dùng - Theo các khâu trong quá trình lưu thông, có thương mại bán buôn, thương mại bán lẻ. - Theo mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình thương mại, có thương mại tự do và thương mại có sự bảo hộ. - Theo kỹ thuật giao dịch có thương mại truyền thống và thương mại điện tử.[17] 18
  20. Việc xem xét thương mại theo nhiều góc độ trên tuy mang tính tương đối nhưng có ý nghĩa trong việc xây dựng các chính sách trong thương mại. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả hiểu khái niệm thương mại theo nghĩa hẹp, đó là quá trình mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Hoạt động thương mại xảy ra trên thị trường nội địa và hoạt động xuất nhập khẩu. Như vậy, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại được hiểu là hoạt động kiểm soát VSATTP trong các khâu liên quan đến việc buôn bán, vận chuyển, lưu thông thực phẩm và các loại vật tư, hàng hoá liên quan đến thực phẩm, bao gồm: - Quản lý nhập khẩu thực phẩm và các loại vật tư hàng hoá liên quan đến thực phẩm như thuốc BVTV, phụ gia thực phẩm, thiết bị bảo quản thực phẩm, các giống cây trồng và vật nuôi, di nhập các loài sinh vật lạ, các sản phẩm biến đổi gen - Quản lý xuất khẩu thực phẩm: đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của hàng hoá xuất khẩu theo các quy định của các nước nhập khẩu như tiêu chuẩn CODEX, HACCP, SPS - Quản lý kinh doanh thực phẩm trên thị trường nội địa: điều kiện kinh doanh, điều kiện vận chuyển, bảo quản, quản lý chất lượng thực phẩm (hàng giả, hàng buôn bán trái phép, nhãn mác thực phẩm ) 1.1.2. Khái niệm pháp luật kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại Để khái quát hoá thành khái niệm về pháp luật kiểm soát VSATTP trong hoạt động thương mại, trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về pháp luật. Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan đặc biệt quan trọng nhưng cũng vô cùng phức tạp, chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có không ít những cách quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản 19
  21. và vận dụng và điều kiện xã hội đương đại, có thể nêu định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử xử có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.[16] Khác với các quy phạm xã hội khác như đạo đức, điều lệ của các tổ chức xã hội, giáo lý của các giáo hội, pháp luật có những thuộc tính cơ bản sau: - Tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung. Pháp luật trước hết được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi, có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn kiểm tra, đánh giá hành vi của cá nhân, các quá trình xã hội. Tuy nhiên, khác với các quy phạm của đạo đức, tập quán, tôn giao, quy phạm pháp luật có tính phổ biến và bắt buộc chung. Quy phạm pháp luật được áp dụng đối với tất cả cá nhân, mọi tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật tương ứng. - Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. Nội dung của pháp luật được xác định rõ ràng, chặt chẽ, khái quát trong các điều khoản của các điều luật trong một văn bản quy phạm pháp luật cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành. Ngôn ngữ sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ pháp luật, lời văn trong sáng, đơn nghĩa. Trong pháp luật không sử dụng những từ “vân vân” hoặc sử dụng các dấu ( ), một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu thế này cũng được mà hiểu thế khác cũng được. - Tính được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Để thực hiện, nhà nước đưa vào quy phạm pháp luật tính quyền lực áp đặt đối với mọi chủ thể, bằng cách gắn cho pháp luật tính bắt buộc chung. Nhà nước sử dụng các phương iện khác nhau để thực hiện pháp luật: phương pháp hành chính,, kinh tế, tổ chức tư 20