Luận văn Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

pdf 105 trang vuhoa 25/08/2022 7580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_huy_dong_von_bang_hinh_thuc_nhan_tien.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY VÂN PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY VÂN PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS.LÊ THỊ THU THỦY Hà Nội – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thúy Vân
  4. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả đó, tôi vô cùng cảm ơn PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình xác định hướng nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, các cán bộ nhân viên Trung tâm thông tin –thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội và Thư viện Quốc gia Việt Nam cùng bạn bè, gia đình đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, khoa học của bản thân, nhưng do khả năng có hạn nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tôi rất mong sự đóng góp nhiệt tình của các thầy, cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! 1
  5. MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 7 1.1 Khái niệm, đặc điểm, phân loại tiền gửi 7 1.1.1 Khái niệm tiền gửi 7 1.1.2 Đặc điểm của tiền gửi 9 1.1.3 Phân loại tiền gửi 10 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại 15 1.2.1 Khái niệm hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại 15 1.2.2 Đặc điểm hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại 20 1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại 22 1.3 Bản chất pháp lý của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại 24 1.4 Những nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại 29 1.4.1 Nhân tố khách quan 30 1.4.2 Nhân tố chủ quan 32 1.5 Nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại 35 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 40 2
  6. 2.1 Chủ thể tham gia hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của Ngân hàng thƣơng mại 40 2.1.1 Chủ thể 40 2.1.2 Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi 53 2.2 Hình thức pháp lý của quan hệ huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của Ngân hàng thƣơng mại 57 2.2.1 Hợp đồng tiền gửi 59 2.2.1.1 Quy định pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tiền gửi 60 2.3 Quy định pháp luật về hình thức nhận tiền gửi của Ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 66 2.4 Bảo hiểm tiền gửi 69 2.5 Các hành vi vi phạm pháp luật và chế tài trong hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của Ngân hàng thƣơng mại 74 2.5.1 Hành vi vi phạm pháp luật 74 2.5.2 Chế tài xử lí 78 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 83 3.1 Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của Ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 83 3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 86 KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 3
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với xu hướng “toàn cầu hoá” hiện nay, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế đã không còn là vấn đề riêng của bất kỳ một quốc gia nào. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì một điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần một thị trường tài chính hiện đại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh tế khác. Trong quá trình phát triển kinh tế, không một doanh nghiệp nào hoạt động mà không cần có vốn. Vốn là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nên nhu cầu về vốn lại càng trở nên cấp thiết. Các tổ chức tín dụng là một loại hình doanh nghiệp đặc thù với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên vô cùng nhạy cảm với nền kinh tế. Với tư cách là “trung gian tài chính”, ngân hàng thương mại- một tổ chức tín dụng (TCTD) điển hình ở Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng đối với việc huy động mọi nguồn vốn trong dân cư để cung ứng cho nền kinh tế với những điều kiện nhất định. Vốn là yếu tố cần thiết để ngân hàng thương mại (NHTM) tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh không chỉ bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu là nguồn vốn huy động được. Do đó có thể nói hoạt động huy động vốn có tác động rất lớn đến các tổ chức tín dụng cũng 4
  8. như toàn bộ nền kinh tế. Với tầm quan trọng đó của hoạt động huy động vốn, Nhà nước cần phải xây dựng một hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng, tạo điều kiện cho NHTM thực hiện hoạt động này một cách dễ dàng và hiệu quả. Vậy pháp luật Việt Nam đã quy định như thế nào về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại? Hình thức huy động vốn chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại là gì ? Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, thực tiễn áp dụng các quy định đó tại NHTM để chỉ ra những ưu điểm cũng như những tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi và nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá các quy định hiện hành về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Ngân hàng thương mại có nhiều cách thức huy động vốn khác nhau, nhưng hình thức chủ yếu nhất vẫn là nhận tiền gửi của khách hàng. Luận văn đi sâu vào phân tích các quy định liên quan đến huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại, các chính sách lãi suất, các loại tiền gửi cùng với các quy chế liên quan đến việc gửi tiền của khách hàng. Thực tiễn áp dụng các quy định về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi, những hạn chế từ thực tiễn áp dụng pháp 5
  9. luật, trên cơ sở đó nêu ra hướng hoàn thiện pháp luật về huy động vốn dưới hình thức tiền gửi của NHTM ở Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lê Nin, dựa trên đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế. Phương pháp phân tích hệ thống được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện luận văn kết hợp với việc sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, chứng minh để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu này nhằm kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn để góp phần đánh giá, nhận xét chính xác về các quy định hiện hành về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng, những thành quả cũng như hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định này. 5. Những đóng góp của đề tài Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học ở cấp thạc sĩ đề cập đến các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng chủ yếu là của ngân hàng thương mại, mà hình thức huy động vốn chủ đạo là nhận tiền gửi của khách hàng. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đặc thù, cũng như bao đơn vị kinh doanh khác cũng cần có vốn để hoạt động kinh doanh cho nên huy động vốn là hoạt động đầu tiên cốt lõi trước khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán. Vì vậy, cần thiết ban hành cơ sở pháp lý an toàn để điều chỉnh nghiệp vụ huy động vốn này của ngân hàng thương mại . Luận văn được nghiên cứu trong bối cảnh đã có nhiều văn bản luật về ngân hàng được ban hành. Cụ thể là Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và cùng với các chính sách tiền tệ được thay đổi liên tục. Luận văn đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể 6
  10. tham gia quan hệ huy động vốn này, cũng như chính sách lãi suất huy động liên tục thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội. Cụ thể: Thứ nhất làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại, thế nào là tiền gửi tại NHTM, tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi, hình thức nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ đạo của NHTM. Nhận tiền gửi làm nên đặc trưng của NHTM so với các loại hình doanh nghiệp khác. Bởi vì đây là hoạt động quan trọng ảnh hưởng đến sự an toàn của ngân hàng thương mại. Từ đó mà xây dựng nên các quy định pháp luật tương ứng nhằm điều chỉnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại đi đúng hướng với chính sách phát triển kinh tế xã hội mà Đảng, Nhà nước đã đề cập sao cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Thứ hai là phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở các khía cạnh chủ thể tham gia quan hệ huy động vốn này, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, hình thức pháp lý của quan hệ, hoạt động quản lý nhà nước trong việc kiểm tra giám sát hoạt động cũng như ban hành mức lãi suất huy động vốn phù hợp với từng thời kỳ quá trình áp dụng các quy định này trong thực tiễn có phù hợp hay không. Những thành quả huy động vốn đã đạt được khi áp dụng các quy định của pháp luật, cũng như các quy định này có bất cập gì khi thực hiện trên thực tế không đem lại hiệu quả như mong muốn. Thứ ba là sau khi đã nghiên cứu về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng, kết hợp với thực tế các tổ chức tín dụng đã huy động vốn bằng hình thức này như thế nào, để có thể tìm ra cơ sở định hướng cho việc khắc phục những bất cập của các quy định này đồng thời tiếp tục xây dựng pháp luật về huy động 7
  11. vốn bằng hình thức nhận tiền gửi cho phù hợp với thời kỳ phát triển của đất nước. 6. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến hoạt động huy động vốn của NHTM đã có các công trình nghiên cứu cơ bản được công bố sau: 1) Luận án “Các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, năm 2004, Nguyễn Văn Tuyến, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 2) Luận văn tốt nghiệp “Pháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, năm 2007, Vũ Mạnh- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 3) Luận văn tốt nghiệp “Một số vấn đề pháp lý về hoạt động huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”, năm 2002, Bùi Thị Thu- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Như vậy, các công trình nghiên cứu về Pháp luật huy động vốn của NHTM chỉ ở góc độ chung chung, không cụ thể, chưa đi sâu vào việc phân tích các quy định pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi. Ngoài ra, cùng với việc ban hành Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các chính sách về tiền tệ thay đổi liên tục, có những đổi mới đáng kể. Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích sự thay đổi về chính sách pháp luật của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi, phân tích các quy chế liên quan đến các loại tiền gửi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi cũng như các quy định của Ngân hàng nhà nước quy định về mức lãi suất huy động vốn . 7. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương với bố cục như sau: 8
  12. Chương 1 - Những vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại. Chương 2 - Thực trạng pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Chương 3 - Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 9
  13. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC NHẬN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1 Khái niệm, đặc điểm, phân loại tiền gửi 1.1.1 Khái niệm tiền gửi Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, thực hiện kinh doanh tiền tệ, tức là lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh trực tiếp không giống các doanh nghiệp khác lấy tiền tệ là phương tiện thanh toán trong quá trình kinh doanh. Hoạt động chính của NHTM là hoạt động ngân hàng. Với tư cách là một trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, các NHTM đã trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Nguồn vốn mà NHTM cung ứng chủ yếu là nguồn vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Cách thức mà các NHTM huy động vốn như thế nào? Đó là hoạt động huy động vốn từ dân chúng, từ các chủ thể trong nền kinh tế. Trong nhiều hình thức huy động vốn của NHTM, hình thức huy động vốn mang tính chủ đạo, hình thành nên đặc trưng của NHTM là huy động vốn bằng nhận tiền gửi. Nhờ có hoạt động này mà đã hình thành nên nguồn vốn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Đây là nguồn vốn mang tính chủ đạo, quan trọng nhất bên cạnh vốn chủ sở hữu của NHTM. Tiền gửi chính là yếu tố làm nên điểm khác biệt của NHTM, một điểm đặc biệt khi người ta nghĩ đến ngân hàng là nghĩ đến “nơi chứa tiền” theo cách hiểu đơn giản nhất. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM không ngoài yếu tố nào khác đó chính là tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. 10
  14. Theo nghĩa thông thường, tiền gửi là số tiền mà các khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Tuy nhiên, đối với người gửi tiền thì mục đích họ gửi tiền vào ngân hàng có hai loại: một là gửi tiền để hưởng các tiện ích từ các công cụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp cho họ, hai là khách hàng gửi tiền để hưởng lãi như gửi vào tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản tiền gửi định kỳ. Nhưng đổi lại họ sẽ không được sử dụng các công cụ thanh toán của ngân hàng. Còn đối với ngân hàng thì bởi nghiệp vụ chính là cấp tín dụng, mục tiêu là kiếm lợi nhuận nên các ngân hàng tìm mọi cách huy động vốn để cho vay. Một trong nguồn vốn quan trọng là tiền gửi của khách hàng mà chủ yếu là các khoản tiền gửi tiết kiệm, bởi đây là nguồn tiền được gửi tại ngân hàng trong thời gian khác nhau được ngân hàng lấy đó làm nguồn vốn cho vay. Vì thế khách hàng gửi tiền ở loại hình tiết kiệm sẽ được hưởng lãi suất cao. Chính nguồn tiền gửi tại ngân hàng là cơ sở thực hiện các nghiệp vụ khác của ngân hàng, ví dụ nghiệp vụ cấp tín dụng. Vậy tiền gửi là gì? Khái niệm tiền gửi là một khái niệm rất rộng. Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) 1997 tại điều 20 khoản 9 quy định “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”. Luật các TCTD 2004 sửa đổi bổ sung Luật các TCTD 1997 tại điều 20 khoản 9 đưa ra định nghĩa về tiền gửi: “Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”. Về cơ bản định nghĩa tiền gửi của Luật các TCTD 2004 không có gì thay đổi so với Luật các TCTD 1997, bản chất vẫn giống nhau chỉ sửa đổi về mặt câu chữ. Ngoài định nghĩa tại Luật các TCTD nói trên, tại Nghị 11
  15. định số 70/2000/NĐ-CP của Chính phủ về giữ bí mật thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách hàng gửi tại các TCTD cũng đưa ra một quy định về tiền gửi như sau: “Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền Đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn (kể cả tiền gửi tiết kiệm) và các hình thức tiền gửi khác”.Như vậy, cả hai định nghĩa trên đây đều chưa rõ ràng, không nói lên được bản chất thế nào là tiền gửi mà chỉ là một cách định nghĩa theo phương pháp liệt kê. Đến Luật các TCTD năm 2010 cũng chưa đưa ra một định nghĩa về tiền gửi. Song có thể hiểu tiền gửi một cách khái quát nhất đó là tiền gửi trong hoạt động ngân hàng là các khoản tiền được gửi ở ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau của nhiều chủ thể nhằm mục đích kiếm lãi. Như vâỵ , các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu trên có mối liên quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Người gửi tiền có thể lựa chọn các loại hình tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp , đươc̣ hưở ng laĩ suất . Đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng sử duṇ g các số tiền gử i đó cho hoaṭ đôṇ g kinh doanh của ngân hàng vớ i cam kết thưc̣ hiêṇ viêc̣ hoàn trả vào ngày đáo haṇ (đối vớ i tài khoả n có kì hạn) hoăc̣ theo yêu cầu của khách hàng (đối vớ i tài khoản không kì haṇ ). Ngày nay, khách hàng có nhiều cách gửi tiền và có thể làm cho tài sản bằng tiền sinh ra laĩ theo các dư ̣ đoán và tính toán của chính ho.̣ 1.1.2 Đặc điểm của tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NHTM. Thông thường chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. Chủ thể gửi tiền là cá nhân, tổ chức có nhu cầu gửi tiền với mong muốn đầu tư có lãi. Ngân hàng thương mại là chủ thể nhận tiền gửi, từ số 12
  16. tiền gửi đó mà tiến hành các hoạt động kinh doanh cũng với mục đích thu lợi nhuận. Cả hai chủ thể tiến hành giao dịch thương mại với mục tiêu đều muốn kiếm lời. Khi có sự yêu cầu của người gửi tiền, NHTM thanh toán ngay số tiền mà khách hàng đã gửi kể cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Tiền gửi được chia nhiều loại tùy thuộc căn cứ theo tiêu chí nào. Căn cứ vào thời hạn gửi tiền thì tiền gửi chia làm hai loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn, hoặc dựa vào tiêu chí mục đích thì có tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm Mục đích của tiền gửi: do nhu cầu của người gửi tiền, họ gửi tiền vào NHTM với mục đích có thể sử dụng nghiệp vụ của ngân hàng để thực hiện chức năng thanh toán hoặc là với mục đích hưởng lãi suất tiền gửi. Như vậy, số tiền gửi vào NHTM là để thanh toán theo yêu cầu của khách hàng gửi tiền hoặc nhằm mục tiêu cất giữ kiếm lời. Ngân hàng thương mại và khách hàng thỏa thuận với cam kết để cho NHTM sử dụng số tiền đó vào mục đích của mình và khách hàng vẫn nhận lại được khoản tiền sau một thời gian nào đó kèm theo tiền lãi. Tiền gửi phải được bảo hiểm bởi chính NHTM- chủ thể nhận tiền gửi. Ngân hàng thương mại sẽ mua bảo hiểm cho khoản tiền gửi tại chính ngân hàng của mình tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi với mục đích vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng và đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Việc mua bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo tâm lý an tâm cho khách hàng, niềm tin cho người gửi tiền. Pháp luật đã quy định cụ thể về vấn đề bảo hiểm tiền gửi tại các NHTM nhằm ổn định hệ thống NHTM, tránh xảy ra sự thiếu an toàn gây ảnh hưởng lớn đến dân chúng gửi tiền và rộng hơn là ảnh hưởng nền kinh tế. 1.1.3 Phân loại tiền gửi Khi tham gia quan hệ gửi tiền, người gửi tiền luôn hướng tới một mục đích nhất định. Nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng đó của khách hàng, 13
  17. các NHTM đưa ra nhiều loại tiền gửi khác nhau để người gửi tiền lựa chọn hình thức gửi thích hợp nhất tùy thuộc vào mục đích, tính chất và khả năng nguồn vốn của họ. Dựa theo từng tiêu chí cụ thể người ta có thể phân chia thành nhiều loại tiền gửi khác nhau. Cụ thể là:  Căn cứ vào thời hạn gửi tiền, tiền gửi được chia thành : - Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gửi với thời gian không xác định. Thông thường, tiền gửi loại này để thực hiện các khoản chi trả (cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vì mục đích tiêu dùng). Tiền gửi không kỳ hạn là khoản tiền đang chờ thanh toán, không phải là tiền mà khách hàng để dành nên khách hàng có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu. Khách hàng gửi loại tiền này sẽ không được trả lãi hoặc trả lãi với mức lãi suất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn được quản lý ở các NHTM trên tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản vãng lai. Đối với tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, ủy nhiệm chi và các lệnh chi khác Ngoài ra, khách hàng có thể gửi tiền vào NHTM với thời gian không xác định với mục đích bảo toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể rút ra để sử dụng. Tiền gửi không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn có thể huy động. Do tính chất không ổn định của nó nên NHTM chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó. - Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào NHTM trên cơ sở có sự thỏa thuận với NHTM về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc người gửi tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế để thu hút khách hàng gửi loại tiền gửi này, các NHTM có thể cho phép khách hàng được rút tiền trước thời hạn (nếu số tiền rút ra lớn hơn thì phải có sự thông báo trước cho NHTM một vài ngày) trong trường hợp này người gửi chỉ được hưởng mức lãi suất thấp. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn 14
  18. vốn tín dụng mang tính chất ổn định, nên các NHTM thường chú trọng áp dụng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này bằng việc đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đối với mỗi loại kỳ hạn, NHTM áp dụng một mức lãi suất tương ứng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Các thời hạn cho loại hình tiền gửi này được chia ra ba loại: Ngắn hạn (dưới 12 tháng), trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng), dài hạn (từ 60 tháng trở lên); trong mỗi loại NHTM lại quy định những mức khác nhau.  Căn cứ vào mục đích sử dụng, tiền gửi được chia thành: - Tiền gửi thanh toán: là khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân gửi vào NHTM với mục đích sử dụng thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên an toàn và thuận tiện. Họ gửi tiền để hưởng các dịch vụ của ngân hàng thương mại. Thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa sử dụng thì ngân hàng có thể sử dụng vào trong kinh doanh. - Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân, nó là khoản tiền để dành cho các cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó được gửi ở các NHTM nhằm quản lí cất giữ hộ hoặc để hưởng lãi theo định kỳ. Theo pháp luật hiện hành quy định: “Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của các nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi” [11, Điều 6]. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần thông báo trước vào bất kỳ một ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm [11, Điều 6]. 15
  19. Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) ở chỗ: Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả cho người khác, trừ trường hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của người cư trú được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó, hoặc chuyển sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó. + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm trong đó người gửi tiền thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm về kỳ hạn gửi nhất định [ 12, Điều 6]. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương tự như tiền gửi có kỳ hạn chỉ khác ở chỗ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì người gửi tiền chỉ là cá nhân.  Căn cứ vào người gửi tiền, tiền gửi có thể chia thành: - Tiền gửi của tổ chức - Tiền gửi của cá nhân  Căn cứ dấu hiệu quốc tịch hoặc nơi cư trú, tiền gửi có thể chia thành - Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân trong nước - Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân nước ngoài  Căn cứ đồng tiền mà khách hàng gửi, tiền gửi có thể chia thành: - Tiền gửi bằng đồng Việt Nam: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng lượng tiền gửi. - Tiền gửi bằng ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP, DEM những ngoại tệ này cũng rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế 16
  20. * Việc phân chia thành các loại tiền gửi khác nhau có ý nghĩa hết sức to lớn: - Đối với tổ chức nhận tiền gửi Việc phân chia thành nhiều loại tiền gửi khác nhau, mỗi loại có một ưu thế riêng giúp cho các tổ chức nhận tiền gửi thu hút được nhiều khách hàng tới gửi tiền. Bởi lẽ, mục đích của người gửi tiền rất đa dạng, việc đưa ra nhiều loại tiền gửi sẽ đáp ứng được các nhu cầu đó. Đồng thời tạo điều kiện cho NHTM sử dụng nguồn vốn huy động bằng nhận tiền gửi có hiệu quả, vừa phù hợp với mục đích, kế hoạch kinh doanh vừa đảm bảo khả năng thanh toán, dù trả cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút tiền. Chẳng hạn, NHTM khi huy động vốn bằng nhận tiền gửi không kỳ hạn thì không thể sử dụng toàn bộ số vốn này để cho vay trung và dài hạn mà chỉ sử dụng theo một tỷ lệ nhất định do Ngân hàng Nhà nước quy định, hoặc căn cứ vào loại tiền gửi để xác định mức dự trữ bắt buộc, duy trì khả năng thanh toán - Đối với người gửi tiền Việc đa dạng hoá các loại tiền gửi với những đặc trưng riêng của mỗi loại tiền gửi sẽ giúp cho người gửi tiền có thể lựa chọn hình thức gửi tiền thích hợp tuỳ thuộc vào mục đích gửi tiền của mình. Ví dụ: Tiền gửi không kỳ hạn có thể rút bất cứ lúc nào, tạo cho người gửi tiền sử dụng số tiền gửi một cách linh hoạt hơn nhưng lại không được hưởng lãi hoặc lãi suất rất thấp. Do đó khi tham gia quan hệ tiền gửi dưới hình thức này, khách hàng thường đến sử dụng những dịch vụ mà tổ chức nhận tiền gửi cung cấp, đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền linh hoạt của mình. Tiền gửi có kỳ hạn thì phải tuân thủ theo kỳ hạn gửi tiền nhưng lại có mức lãi suất cao hơn - Đối với nhà nước Do tính chất của từng loại tiền gửi khác nhau, mức độ rủi ro về bảo đảm khả năng thanh toán là khác nhau, đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế quản lý một cách thích hợp nhằm kiểm soát có hiệu quả hoạt động ngân 17
  21. hàng, hạn chế được các rủi ro trong hoạt động ngân hàng; bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan hệ tiền gửi cũng như sự an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng; bảo đảm sự ổn định tiền tệ quốc gia và ổn định phát triển kinh tế. Do đó, việc phân chia thành các loại tiền gửi khác nhau giúp cho Nhà nước có chính sách quản lý thích hợp đối với hoạt động huy động vốn vủa các TCTD. 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1 Khái niệm hoạt động huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng thƣơng mại Vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh thường xuyên đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung một số lượng vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự trữ, phát sinh ở mọi thời điểm. Trong cơ chế thị trường, lượng vốn kinh doanh biểu hiện “thế lực” và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy mà thị trường tài chính, trong đó đóng vai trò chủ chốt là ngân hàng thương mại luôn có mối quan hệ khăng khít với hoạt động sản xuất kinh doanh, là nguồn huyết mạch cung cấp cho doanh nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển. Đây là căn nguyên làm cho NHTM trở thành một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Nguồn vốn đối với NTHM đóng vai trò hết sức quan trọng. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn không chỉ phục vụ cho nhu cầu mua nguyên vật liệu hay thực hiện các thanh toán chi trả mà nó là đối tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng, nó là “hàng hóa”, là phương tiện hoạt động của các ngân hàng. Chính vì thế, khác với các loại hình doanh nghiệp khác, nhu cầu về vốn của NHTM là rất lớn và có thể nói là không hạn chế về số lượng. 18