Luận văn Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 5600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hop_dong_van_chuyen_hang_hoa_quoc_te_b.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU NAM PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỮU NAM PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hữu Nam
  4. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 6 1.1. Khái quát về hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 6 1.1.1. Khái lược tình hình Việt Nam về vận tải bằng đường biển 6 1.1.2. Khái niệm vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 7 1.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 9 1.1.4. Vai trò của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển đối với thương mại quốc tế 12 1.2. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 14 1.2.1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 14 1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 17 1.2.3. Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 18 1.2.4. Nội dung hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 20 1.3. Người vận chuyển và người vận chuyển thực tế 29 1.4. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển trong vận tải đa phương thức 31 1.4.1. Khái niệm vận tải đa phương thức 31 1.4.2. Đặc điểm của vận tải đa phương thức quốc tế 32 1.4.3. Mô hình vận tải đa phương thức 33
  5. 1.4.4. Trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh vận tải đa phương thức 34 1.5. Điều kiện cơ sở giao hàng với hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 35 1.6. Vận đơn sử dụng trong giao nhận vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 36 1.6.1. Khái niệm và chức năng của vận đơn 36 1.6.2. Các loại vận đơn 38 1.6.3. Nội dung của vận đơn 40 1.7. Trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm và miễn trách của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển 43 1.7.1. Trách nhiệm của bên thuê vận chuyển 43 1.7.2. Trách nhiệm của người vận chuyển 44 1.8. Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 51 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN 55 2.1. Nguồn pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển được áp dụng tại Việt Nam 55 2.1.1. Điều ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển mà Việt Nam là thành viên 55 2.1.2. Các văn bản pháp luật Việt Nam 56 2.1.3. Tập quán, thói quen trong hoạt động hàng hải 63 2.1.4. Hợp đồng mẫu 65 2.2. Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 67
  6. 2.3. Đánh giá chung về hệ thống văn bản pháp luật điều tiết quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 68 2.4. Một số kiến nghị cụ thể liên quan tới pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế 72 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
  7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Bộ luật ISM : Bộ luật Quản lý an toàn quốc tế CIF : Cost, Insurance and Freight ( tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí ) CFR : Cost and Freight ( tiền hàng và cước phí ) DES : Delivered Ex Ship ( giao tại tàu ) DEQ : Delivered Ex Quay ( giao tại cầu cảng ) FAS : Free Alongside Ship ( giao dọc mạn tàu ) FO : free out FOB : free on board FI : free in FIO : free in and out IMO : International Maritime Organization ( Tổ chức Hàng hải Quốc tế ) MTO : Multimodal Transport Operator ( Vận tải đa phương thức ) 1
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài Trong lịch sử giao thương thế giới, việc buôn bán của các thương nhân giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa các vùng lãnh thổ bị chia cắt bởi đại dương được tiến hành qua đường hàng hải. Lịch sử phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với lịch sử hàng hải. Khi thế giới càng mở rộng giao thương, mở rộng cửa tiếp nhận các thành quả kinh tế từ các nước khác, thì cũng chính là lúc vận tải biển trở nên phổ biến và cần thiết hơn bao giờ hết đối với hoạt động thương mại nói chung và đối với mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng. Việc vận chuyển đường biển không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia, mà còn liên quan đến chủ quyền trên biển, đảo và lợi ích của các quốc gia khác. Với tầm quan trọng như vậy, cộng thêm với chính tính chất riêng biệt của hoạt động hàng hải do đó các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực vận chuyển hàng hải có những đặc thù riêng cần tìm hiểu. Mặc dù pháp luật về hàng hải của Việt Nam hiện nay đã tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên vẫn còn có những điểm chưa thật sự phù hợp và chưa thúc đẩy mạnh cho phát triển thương mại. Mặt khác các thương nhân trong thực tiễn kinh doanh ngoại thương chưa tìm hiểu sâu một cách có lợi các qui định của pháp luật quốc gia và quốc tế liên quan để khi xảy ra các tranh chấp có nhiều lúng túng. Hiện nay Việt Nam có một khối lượng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng phương thức vận tải đường biển chiếm tới 90% tổng khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu quốc gia. Như vậy có nghĩa rằng, trong vận chuyển hàng hóa quốc tế, thì vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các phương thức vận tải. Do đó việc tìm hiểu sâu các qui 2
  9. tắc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là vô cùng hữu ích cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong vòng mấy năm nay, tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn. Khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới chưa được phục hồi. Nhiều người mất việc làm. Các doanh nghiệp cắt giảm nhân công và sản lượng. Cũng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chung, các chủ tàu khó tìm kiếm nguồn hàng. Giá cước vận tải giảm liên tục thậm chí với mức giảm đến 70%, nhiều doanh nghiệp vận tải hàng hải đã phải ngừng khai thác để tránh lỗ. Nhiều doanh nghiệp hàng hải khác bị ép giá, và phải chấp nhận mức giá rẻ để đổi lấy việc vận chuyển thường xuyên. Do vậy, quyền và lợi ích của các doanh nghiệp vận chuyển hàng hải bị đe dọa. Với mục đích giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và vận tải Việt Nam hiểu sâu hơn, đúng hơn các quy định của pháp luật về lĩnh vực này, trên cơ sở đó, bảo vệ các quyền và lợi ích của mình, tôi xin chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam ” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. Nhận thức rằng, kiến thức pháp lý của doanh nghiệp vừa để đối phó với khủng hoảng kinh tế, vừa tạo tiền đề để hoạt động vận chuyển phát triển mạnh sau thời khủng hoảng. Suy cho cùng, khủng hoảng cũng chính là thời cơ, là thách thức để ngành vận chuyển hàng hải thay đổi phù hợp với tình hình mới. Đây cũng chính là cơ hội để khảo nghiệm, kiểm tra tính khả thi của hệ thống pháp luật về vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Đề tài cũng mong muốn qua đó góp phần vào việc hiểu thêm về lý luận pháp luật liên quan, và đánh giá thêm về sự phù hợp của các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu của Luận văn nhằm các mục đích sau: 3
  10. + Nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trong sự so sánh. + Tìm hiểu các tranh chấp phát sinh trong hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế và đưa đến một vài giải pháp để hạn chế tình trạng này cả về phía các bên trong việc ký kết hợp đồng cũng như các quy định pháp luật có liên quan. + Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Luận văn không nghiên cứu các vấn đề kinh tế hay các vấn đề thuộc các lĩnh vực khác liên quan tới hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Luận văn tập trung vào phạm vi những nội dung cơ bản nhất của một hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, về những quy định pháp luật thực định điều chỉnh lĩnh vực này trong sự tương quan so sánh với lịch sử pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. 3. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong Luận dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin. Các phương pháp đó bao gồm: phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đối chiếu các số liệu và tình tiết thực tiễn; phương pháp phân tích qui phạm và phân tích vụ việc; phương pháp so sánh pháp luật; phương pháp điển hình hóa các quan hệ xã hội Các phương pháp này được Luận văn sử dụng đan xen để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra. Đặc biệt Luận văn nhấn mạnh tới phương pháp phân tích qui phạm bởi mục đích quan trọng của Luận văn là 4
  11. thông qua việc tìm hiểu các qui định của pháp luật thực định tìm các bất cập của chúng và tìm kiếm các giải pháp cho hiện tại và tương lai khắc phục các bất cập này trong công tác lập pháp cũng như thực hành. 4. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận văn bao gồm 2 chương sau đây: Chương 1: Tổng quan về pháp luật hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và một số kiến nghị liên quan. 5
  12. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 1.1. Khái quát về hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 1.1.1. Khái lược tình hình Việt Nam về vận tải bằng đường biển Từ 3200 năm trước công nguyên con người đã biết sử dụng đường biển để giao lưu giữa các vùng đất với nhau. Những người Ai Cập cổ đại đã bắt đầu những chuyến thám hiểm đầu tiên trên biển vào khoảng thời gian 2750 năm về trước. Phát hiện vĩ đại nhất của thám hiểm hàng hải là việc Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ vào Thế kỷ XV. Con người vì thế ngày càng ham muốn khám phá thế giới rộng lớn, ham muốn chinh phục những miền đất lạ. Những thương nhân của vùng đất Phoenica cũng bắt đầu những chuyến giao lưu với vùng đất mới từ thế kỷ VII trước Công Nguyên. Người Trung Quốc phát minh ra chiếc la bàn đầu tiên mở màn cho việc phát triển ngành khoa học hàng hải. Theo thời gian, nhu cầu giao thương hàng hóa đã thúc đẩy việc sử dụng phương tiện tàu biển vào mục đích kinh tế. Vậy là vận chuyển hàng hóa bằng đường biển ra đời và càng ngày càng phát triển theo sự phát triển của giao lưu kinh tế quốc tế. Ngành vận tải biển phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. Việt Nam có tổng chiều dài đường bờ biển khoảng 3260 km, và nằm trên con đường hàng hải nối liền Đông - Tây qua Biển Đông, có nhiều cảng nước sâu. Đây là một lợi thế rất lớn không chỉ về kinh tế biển, vận tải biển, văn hóa biển, mà còn là lợi thế về địa chính trị, quân sự khiến thế giới phải chú ý. Hiện nay Việt Nam có tới trên 100 cảng biển lớn nhỏ với tổng chiều dài bến cảng khoảng 30.000 m. Hệ thống các cảng phía Bắc (từ Quảng Ninh 6
  13. đến Ninh Bình) gồm 22 cảng, trong đó quan trọng nhất là cảng Cái Lân và cụm cảng Hải Phòng. Hệ thống các cảng miền Trung (từ Thanh Hoá đến Bình Thuận) gồm 37 cảng với các cụm cảng quan trọng nhất là Đà Nẵng (đa chức năng) và Nghi Sơn, Dung Quất (chuyên dùng). Hệ thống các cảng miền nam (từ Bà Rịa-Vũng Tàu đến Kiên Giang) gồm 45 cảng, hiện là khu vực có mật độ lưu thông hàng hoá lớn nhất trên cả nước, đặc biệt là khu vực cảng Sài Gòn - Thị Vải-Vũng Tàu. Các tuyến đường biển nội địa quan trọng nhất đều xuất phát từ các trung tâm trung chuyển nêu trên. Các tuyến đường biển quốc tế quan trọng nhất xuất phát từ Hải Phòng/TP Hồ Chí Minh đi khu vực Đông Á (Nga, Nhật, Hàn Quốc, Hong Kong, Singapore ). Rõ ràng Việt Nam đang được thiên nhiên đang ưu đãi rất nhiều trong việc phát triển vận tải biển. Cùng tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của thương mại quốc tế, ngành vận tải biển Việt Nam đang có những cơ hội to lớn. Theo thống kê, lượng hàng hóa quốc tế vận chuyển qua đường biển chiếm 80% tổng lưu lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy, vai trò của nó tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là rất quan trọng. 1.1.2. Khái niệm vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển Hoạt động hàng hải bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt động vận chuyển đường biển. Ngoài những tính chất của hoạt động vận chuyển nói chung, vận chuyển đường biển có những đặc thù riêng do chính việc sử dụng tàu biển để chuyên chở hàng hóa, hành khách và hành lý từ nơi này tới nơi khác. Vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là quá trình sử dụng tàu biển để vận chuyển hàng hóa theo tuyến đường cố định hoặc không cố định từ nước này tới nước khác. Theo nghĩa rộng vận chuyển hóa hóa quốc tế là sự tập hợp các yếu tố kinh tế kỹ thuật nhằm khai thác, chuyên chở bằng tàu biển một cách có hiệu quả hàng hóa xuất nhập khẩu trong thương mại quốc tế. 7
  14. Vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển được tiến hành thông qua các doanh nghiệp, tổ chức chuyên ngành thực hiện. Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là một ngành dịch vụ. Do vậy nó có những sự khác biệt so với những ngành sản xuất vật chất khác. Có thể liệt kê một số khác biệt như sau: + Thứ nhất, việc sản xuất của ngành vận chuyển không tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất cụ thể. Sản phẩm của vận tải là sự di chuyển vị trí của đối tượng được vận chuyển. Nó cũng không có khả năng dự trữ sản phẩm để tiêu dùng mà chỉ có khả năng dự trữ năng lực vận tải như dự trữ số lượng tàu + Thứ hai, thông qua hoạt động vận chuyển người và hàng hóa, vận tải biển đảm bảo cho các mối liên hệ trên không gian, phục vụ sản xuất và sinh hoạt, mối giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng và giữa các nước. Sự phát triển vận tải biển có ý nghĩa hết sức to lớn trong phân công lao động theo lãnh thổ. + Thứ ba, các điều kiện tự nhiên ảnh hưởng chủ yếu tới các vấn đề kỹ thuật của sự phân bố và khai thác của mạng lưới các tuyến vận tải biển. Còn các điều kiện kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và phân bố cũng như sự hoạt động của ngành. + Thứ tư, đối tượng của dịch vụ là hàng hóa của những chủ sở hữu khác chủ tầu. Vận chuyển bằng đường biển chỉ làm thay đổi vị trí trong không gian của hàng hóa chứ không tác động kỹ thuật hay công nghệ làm thay đổi hình dáng, kích thước hay phẩm chất của đối tượng chuyên chở. Điều 27, khoản 1, Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam có qui định: “mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện qua hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Điều đó có nghĩa là, mua bán hàng hóa được coi là có yếu tố quốc tế khi hàng hóa đó đi 8
  15. ra, đi vào hay đi qua lãnh thổ của một quốc gia nhất định hay còn gọi là hàng hóa xuất nhập khẩu. Vì vậy, được coi là hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển khi hoạt động đó phải vượt qua biên giới. Tuy nhiên có thể có qui định hàng hóa qua lại từ hoặc tới một đặc khu trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nào đó cũng được xem là hoạt động xuất nhập khẩu tùy thuộc vào pháp luật của quốc gia đó. Như vậy, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là một phương thức vận chuyển đáp ứng nhu cầu di chuyển vị trí của đối tượng vận chuyển mà cụ thể ở đây là hàng hóa xuất nhập khẩu. Qua đó ta có thể xác định vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là việc di chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu từ nơi này đến nơi khác bằng phương tiện chuyên chở đường biển mà cụ thể là tàu biển. 1.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển (1) Hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển có những ưu điểm cụ thể sau: Thứ nhất, vận chuyển bằng đường biển không đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ quá cầu kỳ và quá khắt khe như đối với vận chuyển bằng đường hàng không. Thứ hai, vận chuyển bằng đường biển có khả năng kết nối nhiều quốc gia, châu lục trên toàn cầu. Thứ ba, tuyến đường của vận chuyển đường biển là tuyến đường tự nhiên trên mặt biển. Vì vậy vận chuyển bằng biển không bị lệ thuộc vào địa hình gồ ghề, khúc khuỷu của trái đất. Thứ tư, vận chuyển bằng đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá trong buôn bán quốc tế với cước phí phải chăng khác với sự khó tính trong vận chuyển hàng không (tránh vận cấm vận chuyển các hàng 9
  16. hóa nguy hiểm như những chất có từ tính cao, chất phóng xạ, chất dễ nổ, dễ cháy ). Tất cả các loại hàng hóa trong buôn bán quốc tế đều có thể được chuyên chở bằng đường biển: Từ các loại hàng thể rắn như máy móc, trang thiết bị, sản phẩm dệt may đến thể lỏng, khí như dầu thô, khí ga thậm chí cả các loại nhiên liệu. Các loại hàng hóa đặc biệt như hạt nhân, súng đạn, các loại khí hóa lỏng cũng đều có thể được vận chuyển bằng tàu biển. Khác với vận tải hàng không chủ yếu vận chuyển những loại hàng nhẹ trong thời gian nhanh chóng, vận chuyển hàng hải có thể chuyên chở được những loại hàng hóa với khối lượng hoặc thể tích lớn mà không ảnh hưởng nhiều đến cước phí. Các tuyến đường vận chuyển trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên, không ai phải bỏ tiền ra để xây dựng, quản lý, kiểm tra các tuyến đường mà các tàu chuyên chỏ hàng hóa đi qua. Các tàu biển cũng không nhất định phải di chuyển trên một rãnh hay ray nhất định như đường sắt. Tàu biển tự xác định hướng đi và vị trí của mình trên bản đồ tọa độ thông qua la bàn và trung tâm điều khiển tàu. Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung năng lực chuyên chở của công cụ vận tải đường biển (tàu biển) không bị hạn chế như các công cụ của các phương thức vận tải khác. Chẳng hạn năng lực chuyên chở khổng lồ như tàu sân bay không thể có ở những loại phương tiện vận chuyển khác dù ở trên mặt đất. Vận chuyển đường đường biển không cần lượng vốn quá lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và kiểm soát đường biển. Loại hình này phù hợp với tất cả các nước có đường bờ biển không kể nước đó là nước phát triển hay đang và kém phát triển. (2) Đối lập với các ưu điểm trên, vận chuyển bằng đường biển cũng có những nhược điểm nhất định sau: 10
  17. Thứ nhất, vận chuyển bằng đường biển phụ thuộc rất nhiều vào điệu kiện tự nhiên như thời tiết hay địa lý của các vùng biển. Thứ hai, hoạt động vận chuyển bằng đường biển phụ thuộc vào tình hình thương mại quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, lưu lượng hàng xuất nhập khẩu giảm mạnh kéo theo sự kém khởi sắc của vận chuyển bằng đường biển. Thứ ba, tốc độ của tàu biển thấp. Tốc độ trung bình của tàu biển thường là vài chục hải lý một giờ. Do đó việc chuyên chở hàng hóa từ nước này qua nước khác mất nhiều thời gian, thậm chí có thể lên tới hàng tháng trời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ luân chuyển hàng hóa và gây khó khăn cho việc đảm bảo chất lượng của hàng. Thứ tư, chứng từ và thủ tục liên quan tới vận chuyển hàng hóa bằng đường biển phức tạp. Việc điền hoặc ghi chứng từ không thận trọng có thể dẫn đến tranh chấp. Giá trị hàng hóa trong vận chuyển quốc tế thường là lớn. Do vậy, có thể chỉ một chi tiết nhỏ thiếu chính xác cũng có thể gây ảnh hưởng có thể lớn đến lợi ích của các bên. Thứ năm, vận chuyển bằng đường biển chứa nhiều rủi ro như: rủi ro liên quan tới yếu tố tự nhiên (các hiện tượng khí tượng); rủi ro bị cướp biển; rủi ro tàu bị bắt giữ. Đã có nhiều vụ cướp biển và bắt cóc sỹ quan, thuyền viên để tống tiền xảy ra ở khu vực eo biển Malacca, Xô-ma-li. Các vụ việc này đã làm cho các chủ tàu, các nhà khai thác tàu biển trong khu vực quan tâm và hết sức lo ngại. Thậm chí họ đã đề nghị đưa một số vùng biển thuộc eo biển Malacca, Philippine, Indonesia, vào danh sách “vùng có rủi ro cao” để tăng phí bảo hiểm đối với chủ tàu Rủi ro về việc tàu bị bắt giữ rất cao. Việt Nam đang nằm trong “danh sách đen” của Tổ chức Hợp tác kiểm tra Nhà nước tại các cảng biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Tokyo - MOU) do có tỷ lệ tàu bị lưu giữ cao và đứng thứ 09 trong số các quốc gia có tỷ lệ tàu bị lưu giữ 11
  18. cao nhất thế giới. Số tàu treo cờ Việt Nam bị lưu giữ 7 tháng đầu năm 2014 là 19 tàu (so với 27 tàu năm 2013). Ngoài ra còn nhiều rủi ro khác như tàu bị đâm va, bị đắm, bị lật tàu, tràn dầu, thủng vỏ, mất tích, mắc cạn hay đâm phải đá ngầm Trang bị tàu cần một lượng vốn lớn và tuổi thọ tàu để đủ khả năng đi biển an toàn phải dưới 20 năm trong khi chi phí cho việc phát triển đội tàu biển của nước ta rất hạn hẹp. Vì thế các rủi ro kỹ thuật rất cao. Hiện nay tuổi thọ trung bình của các tàu Việt Nam vài năm trước khoảng 17 năm. Vậy là chúng ta đang sở hữu một đội tàu có tuổi thọ già. 1.1.4. Vai trò của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển đối với thương mại quốc tế Vận chuyển đường biển đã khẳng định được vai trò của mình bởi bề dày lịch sử phát triển của nó. Về mặt pháp lý, chỉ cần xem qua hệ thống các tập quán hàng hải và điều ước quốc tế liên quan tới hoạt động hàng hải đủ cho thấy tầm quan trọng của loại hoạt động này. Nó đến thương mại hàng hải phải nói tới ba yếu tố cấu thành bao gồm: vận tải biển, cảng biển và quản lý điều hành hoạt động vận tải biển. Vận tải biển trong đó có vận chuyển hàng hóa quốc tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vận chuyển hàng hóa quốc tế, đối với Việt Nam, còn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương mở cửa để hội nhập với kinh tế thế giới. Lợi nhuận mà ngành vận tải biển mang lại không nhỏ và là một bộ phận trong cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp không nhỏ vào tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Vận tải biển đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền. Hơn nữa, ngành vận tải biển lại là một ngành tiêu thụ lớn các sản phẩm của các ngành kinh tế kỹ thuật khác. Thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa cũng là động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa bởi lẽ trong sản xuất công nghiệp, chi phí cho 12
  19. việc vận tải nguyên liệu, thành phẩm, hàng hóa nhất là từ quốc gia này tới quốc gia khác, châu lục này đến châu lục chiếm tỷ trọng lớn. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường quốc tế trong thời điểm hiện nay không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và giá thành của sản phẩm mà còn phụ thuộc nhiều vào chi phí vận tải mà doanh nghiệp đó phải chi trả trong quá trình bao tiêu sản phẩm. Vận tải biển với ưu điểm về chi phí của mình giúp tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Theo đó, nó cũng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Vận tải đường biển càng phát triển thì càng đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hóa ngày một gia tăng trong thương mại quốc tế. Cho tới năm 2013, số lượng hàng hóa chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt trên 7 tỷ tấn/ năm thì trong đó trên ¾ lượng hàng hóa đó được chuyên chở bằng đường biển [6, tr.23]. Với khả năng chuyên chở lớn như vậy mà cước phí vận tải lại rất rẻ, cho nên lượng hàng hóa được tiêu thụ trên thị trường cũng rẻ hơn. Trong khi vận tải bằng đường biển hầu như không mất chi phí làm đường mà chỉ xây dựng cảng và mua sắm phương tiện vận tải. Vì thế chi phí cho việc vận chuyển được giảm rất nhiều. Đó là không kể ưu điểm của vận tải biển có khả năng vận chuyển khối lượng hàng hóa lớn với chi phí thấp nhất. Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Việt Nam lại có nhiều cảng nước sâu và đang được đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại và công nghệ quản lý điều hành tiên tiến. Do vậy, Việt Nam có nhiều ưu điểm để tham gia vào thương trường hàng hải quốc tế. Điều đó cũng góp phần tạo điều kiện cho việc tăng và mở rộng chủng loại hàng hóa. Vận tải đường biển càng phát triển, giá thành càng rẻ thì việc luân chuyển hàng hóa trên thị trường thế giới ngày một nhanh chóng. Có thể nói, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là hoạt động giúp 13
  20. phát triển giao thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận tải thấp nhất nhưng lại có thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất. Hàng hải Việt Nam ra đời vào những năm 1945, trong điều kiện đất nước bị chia cắt, chiến tranh tàn phá. Nhưng tới nay, với sự nỗ lực không ngừng của toàn ngành, tới nay chúng ta đã có bước phát triển lớn mạnh không ngừng. Uy tín của vận tải Việt Nam trên thị trường thế giới ngày một nâng cao, giúp ngành phấn đấu vươn lên cùng sự phát triển của thế giới. Hồ Chí Minh đã nói “giao thông vận tải rất quan trọng, quan trọng đối với chiến đấu, đối với sản xuất, đối với đời sống nhân dân. Nó như mạch máu của con người. Muốn chiến đấu tốt, muốn sản xuất tốt, muốn đời sống nhân dân bình thường, thì giao thông vận tải phải làm tốt [6, tr.20].” Điều đó nói lên tầm quan trọng của giao thông vận tải đối với sản xuất. Vì vậy có thể coi vận tải bằng đường biển trong thương mại quốc tế là mạch máu để thương mại quốc tế phát triển vậy. 1.2. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển 1.2.1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển Bộ luật Dân sự 2005 tại Điều 535 có định nghĩa: “Hợp đồng vận chuyển tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thoả thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển”. Như vậy theo Bộ luật này, hợp đồng vận chuyển là loại hợp đồng có đền bù. Và dường như hành vi vận chuyển ở đây mang tính chất chuyên nghiệp giống với loại hành vi thương mại. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, “ hợp đồng vận chuyển tài sản là một hợp đồng cung cấp dịch vụ di chuyển đồ vật từ một nơi này tới một nơi khác bằng những phương tiện nhất định, có hoặc không lấy tiền “ [3]. Điều đó có nghĩa là hợp đồng này có thể là loại hợp đồng có đền bù hoặc không đền bù. 14
  21. Sự khác nhau giữa hai loại hợp đồng này dẫn đến việc thiết lập các quy chế pháp lý khác biệt cho chúng. Còn theo TS. Trần Hòe, “ hợp đồng vận chuyển hàng hóa đường biển là văn bản thỏa thuận về vận chuyển hàng hóa đường biển trong đó quy định rõ quyền lợi của người chuyên chở và người thuê vận chuyển “ [9, tr.53]. Định nghĩa này đã đồng nhất hợp đồng với hình thức biểu hiện của nó (văn bản hợp đồng). Tuy nhiên thông thường hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển bị đòi hỏi thể hiện bằng hình thức văn bản. Qua các định nghĩa này có thể hiểu một cách đơn giản, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là một loại hợp đồng vận chuyển tài sản. Cho nên chủng loại hợp đồng này cũng mang những đặc điểm của hợp đồng vận chuyển tài sản. Đây là hợp đồng dịch vụ, theo đó bên vận chuyển nhận hàng hóa từ bên thuê vận chuyển để vận chuyển hàng hóa từ nơi nhận hàng tới nơi đến theo thỏa thuận và giao hàng cho người có quyền nhận (người nắm giữ chứng từ vận chuyển). Người ta còn mô tả “hợp đồng vận chuyển hàng hóa trong đó người vận chuyển cam kết vận chuyển hàng hóa từ một hay nhiều cảng này và giao cho người nhận ở một hay nhiều cảng khác, còn người đi thuê tàu cam kết trả tiền cước thuê tàu đúng như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.” [5, tr.178]. Bộ luật Hàng hải Việt Nam có định nghĩa tại Điều 70, khoản 1 rằng: “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là hợp đồng được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng”. Qua các khái niệm đã được trình bày, ta thấy về cơ bản hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển không khác gì so với những hợp đồng vận chuyển tài sản thông thường ngoài một vài điểm khác biệt do đặc trưng của loại hình vận chuyển như chủ thể, đối tượng, phương tiện Và 15
  22. quan trọng hơn là yếu tố quốc tế của hàng hóa tạo nên yếu tố quốc tế của hoạt động vận chuyển. Theo Công ước của Liên Hợp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển: “Hợp đồng vận chuyển bằng đường biển” là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó người vận chuyển đảm nhận việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển từ một cảng này đến một cảng khác để thu tiền cước”. Theo quy tắc Hague - Visby năm 1968, Hợp đồng vận chuyển “được điều chỉnh bởi một vận đơn hoặc bất kỳ một chứng từ tương tự nào về quyền sở hữu liên quan tới vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, kể cả bất kỳ vận đơn hoặc chứng từ nào nói trên đây được ký phát theo một hợp đồng thuê tàu, kể từ khi vận đơn hoặc chứng từ đó điều chỉnh quan hệ giữa người vận chuyển và người nắm giữ vận đơn hay chứng từ đó”. Công ước Hamburg và Hague - Visby đề cập tới là yếu tố quốc tế mà theo đó: (1) Cảng bốc, trả hàng thực tế hoặc quy định trong hợp đồng nằm ở một nước thành viên Công ước; (2) Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng vận chuyển bằng đường biển được phát hành tại một nước thành viên công ước; (3) Vận đơn hoặc chứng từ đã nêu ở điểm trên quy định rằng những quy định của Công ước này hoặc luật của bất kỳ quốc gia nào cho thi hành những quy định của Công ước là luật điều chỉnh hợp đồng. Khác với quan niệm về yếu tố quốc tế trong Bộ luật Dân sự 2005, yếu tố quốc tế được qui định trong Công ước không phụ thuộc vào quốc tịch của tàu biển hay quốc tịch của các bên liên quan trong hợp đồng vận chuyển. Yếu tố quốc tế được qui định trong Công ước liên quan tới hoạt động vận chuyển, chứng từ vận chuyển, cũng như luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng vận chuyển. Những định nghĩa nêu trên giúp chúng ta hiểu khá rõ về khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, đồng thời nắm bắt được 16