Luận văn Pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 6560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hop_dong_tai_bao_hiem.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ NGÂN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ NGÂN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Ngân
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM 7 1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm 7 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tái bảo hiểm 9 1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tái bảo hiểm 14 1.2.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm 14 1.2.2. Phân loại hợp đồng tái bảo hiểm 18 1.2.3. Hình thức và nội dung của hợp đồng tái bảo hiểm 23 1.2.4. Thành phần chủ thể và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng tái bảo hiểm 24 1.2.5. Ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm 26 1.2.6. Hiệu lực của hợp đồng tái bảo hiểm 27 1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật hợp đồng tái bảo hiểm 29 1.3.1. Quan niệm về pháp luật hợp đồng tái bảo hiểm 29 1.3.2. Mô hình cấu trúc của pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm và các yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm 31 1.3.3. Các yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm 32 Kết luận chƣơng 1 34 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM 35 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng tái bảo hiểm 35
  5. 2.1.1. Quy định pháp luật về các chủ thể của hợp đồng tái bảo hiểm 38 2.1.2. Quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng tái bảo hiểm 41 2.1.3. Quy định pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng tái bảo hiểm 42 2.1.4. Quy định pháp luật về việc giao kết và hiệu lực của hợp đồng tái bảo hiểm 45 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam 45 2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc ký kết hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam 46 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật trong việc thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam 51 2.2.3. Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm 57 Kết luận Chƣơng 2 60 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM 61 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm 61 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm của Việt Nam 64 3.2.1. Cần ban hành văn bản hướng dẫn riêng biệt đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm 64 3.2.2. Tiêu chuẩn hóa mâũ hơp̣ đồng tái bảo hiểm 68 3.2.3. Đồng bộ hóa các giải pháp để nâng cao năng lực tham gia và hiệu quả thực hiện của hợp đồng tái bảo hiểm 69 Kết luận Chƣơng 3 76 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
  6. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Hoạt động tái bảo hiểm giai đoạn 2008 – 2012 53
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Bảo hiểm – một hiện tượng có nguồn gốc hình thành và phát triển dựa trên sự tồn tại của các rủi ro và nhu cầu hạn chế, phân tán rủi ro – vốn không còn là một vấn đề xa lạ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Khi hoạt động bảo hiểm được chuyên nghiệp hóa, đó là cơ hội để các công ty bảo hiểm ra đời. Tuy nhiên, đứng trước các rủi ro cần được “che chở” theo yêu cầu của khách hàng, không phải công ty bảo hiểm nào cũng có đủ năng lực tài chính để theo đến cùng các hợp đồng bảo hiểm. Khi đó, nhu cầu nhận bảo hiểm một phần rủi ro và chia sẻ phần còn lại cho các công ty bảo hiểm khác đã tạo nền tảng thúc đẩy sự ra đời của hình thức “đồng bảo hiểm” và “tái bảo hiểm”. Trong bối cảnh đó, tái bảo hiểm trở thành một giải pháp hữu hiệu cho các công ty bảo hiểm (bao gồm cả bên tái bảo hiểm và bên nhận tái bảo hiểm) có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và nhờ đó đưa ngành dịch vụ bảo hiểm phát triển lên một tầm cao mới. Tại Việt Nam, cùng chung thực trạng với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng là một lĩnh vực rất mới mẻ. Ngày 27/09/1994, Bộ Tài Chính ban hành Quyết định số 920TC/QĐ/TCCB thành lập Công ty tái bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam – Công ty tái bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam (viết tắt là VINARE). Cho tới ngày 01/01/1995, Công ty tái bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động, đánh dấu sự hình thành thị trường tái bảo hiểm non trẻ tại Việt Nam [39]. Thực trạng này là kết quả từ nhiều nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân cơ bản phải kể đến đó là xuất phát điểm thấp của nền kinh tế - xã hội, sự thiếu hụt về hành lang pháp lý, khoảng cách chênh lệch về mặt chuyên môn, công nghệ, kỹ thuật và nhận thức chưa đầy đủ của các doanh nghiệp bảo hiểm về 1
  8. tái bảo hiểm, dẫn đến sự ngần ngại khi tham gia vào hoạt động này trên thị trường thế giới Trong khi đó, với bản chất “bảo hiểm cho những rủi ro đã được bảo hiểm”, tái bảo hiểm đang là một trong các công cụ phòng ngừa rủi ro vô cùng hữu ích cho các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam để giải quyết vấn đề về năng lực tài chính khi nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro lớn hơn khả năng tài chính của họ. Để hoạt động tái bảo hiểm phát huy được vai trò, ý nghĩa đó, cũng như để các công ty bảo hiểm ở Việt Nam không ngần ngại khi ký kết hợp đồng tái bảo hiểm và tham gia vào thị trường tái bảo hiểm thế giới, một trong những vấn đề cấp thiết được đặt ra là nâng cao hiểu biết, hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tái bảo hiểm nói chung, hợp đồng tái bảo hiểm nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn này, em lựa chọn đề tài “Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện tại đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về một số khía cạnh của hoạt động bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng dưới góc độ lý luận và thực tiễn, chẳng hạn như: thực trạng hoạt động tái bảo hiểm; cơ hội của ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); những thách thức mà ngành tái bảo hiểm cần vượt qua Cụ thể: - Cuốn sách “Bảo hiểm trong kinh doanh” của Tiến sĩ Hoàng Văn Châu, Tiến sĩ Vũ Sĩ Tuấn, Tiến sĩ Nguyễn Như Tiến, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, 2002; - Cuốn sách “Một số điều cần biết về pháp lý kinh doanh bảo hiểm” của Giáo sư – Tiến sĩ Trương Mộc Lâm, Giáo sư – Tiến sĩ Lưu Nguyên Khánh; - Cuốn sách “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế bảo hiểm” của Phó Giáo sư – Phó Tiến sĩ Bùi Tiến Quý, Phó Tiến sĩ Mạc Văn Tiến, Phó Tiến sĩ Vũ Quang Thọ. 2
  9. - Khóa luận tốt nghiệp “Chế độ pháp lý về kinh doanh tái bảo hiểm và hướng hoàn thiện ở Việt Nam” của tác giả Trần Thị Hường. - Khóa luận tốt nghiệp “Hợp đồng tái bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nhung. - Khóa luận tốt nghiệp“Bảo hiểm Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển” của tác giả Bùi Nhật Anh; - Khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động tái bảo hiểm và thực trạng thị trường hoạt động tái bảo hiểm tại Việt Nam” của tác giả Trần Thị Minh Phương; - Khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Thanh Trang; - Bài viết “Thị trường Bảo hiểm Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” của Ông Phùng Khắc Lộc – Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đăng trên tạp chí Phát triển Kinh tế số 213, tháng 7 năm 2008. Đây thực sự là các công trình nghiên cứu có giá trị về khoa học và thực tiễn. Tuy nhiên, hầu hết các đề tài nghiên cứu đã được thực hiện khá lâu và còn mang tính riêng lẻ, do vậy ở khía cạnh nào đó chưa phản ánh đầy đủ thực tiễn pháp luật hiện hành của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vậy trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, em mong muốn tìm hiểu cụ thể hơn về các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới, cũng như thực tiễn áp dụng tại một số công ty bảo hiểm của Việt Nam. Bằng việc tập trung đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và đồng bộ về các vấn đề pháp lý liên quan tới hợp đồng tái bảo hiểm, đề tài sẽ làm rõ các vướng mắc tồn tại trong quá trình thực thi pháp luật, và đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh tái bảo hiểm nói chung và hợp đồng tái bảo hiểm nói riêng. 3
  10. 3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Đề tài là tập trung nghiên cứu, đánh giá toàn diện về các khía cạnh pháp lý liên quan tới Hợp đồng tái bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý, hoàn thiện quy phạm pháp luật điều chỉnh và hướng dẫn về việc giao kết, thực hiện và xử lý các vấn đề phát sinh từ hợp đồng tái bảo hiểm để các doanh nghiệp bảo hiểm thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng như có cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch này với các đối tác là các công ty tái bảo hiểm trên thế giới, rút ngắn khoảng cách giữa hoạt động tái bảo hiểm trong nước và quốc tế. Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ cụ thể của đề tài là: - Hệ thống hóa những kiến thức pháp lý trong quá trình lập, giải thích, ký kết, thực hiện Hợp đồng tái bảo hiểm. - Phân tích những nét đặc thù của Hợp đồng tái bảo hiểm, các vấn đề cần lưu ý trong quá trình xem xét Hợp đồng tái bảo hiểm. - Nhìn nhận, đánh giá các hệ thống pháp lý hiện tại của Việt Nam điều chỉnh về Hợp đồng tái bảo hiểm, so sánh với hệ thống pháp lý của một số quốc gia trên thế giới. - Kiến nghị các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến hợp đồng tái bảo hiểm. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm, thực tiễn về xác lập và thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, luận văn cũng có đề cập đến các hợp đồng tái bảo hiểm, thực tiễn xác lập và thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm trên thế giới. 4
  11. Phạm vi nghiên cứu của Đề tài tập trung vào các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 (năm bắt đầu có hiệu lực của Luật kinh doanh bảo hiểm) trở lại đây. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Dựa trên nền tảng phương pháp luận là phép biện chứng duy vật, đề tài luân văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, quy nạp, thống kê để làm rõ các nội dung nghiên cứu trong đề tài. 5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài thể hiện những đóng góp mới sau đây: Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về hợp đồng tái bảo hiểm, thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm và hợp đồng tái bảo hiểm tại Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới. Thứ hai, luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động tái bảo hiểm nói chung và hợp đồng tái bảo hiểm nói riêng. Đặc biệt, luận văn tập trung tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bảo hiểm, tái bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm để từ đó phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xác lập và thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam. Thứ ba, luận văn đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam. 5
  12. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng tái bảo hiểm và pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm. Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tái bảo hiểm ở Việt Nam. 6
  13. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÁI BẢO HIỂM 1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm Ra đời từ nhiều thế kỷ trước đây, bảo hiểm được xem là kết quả tất yếu khách quan của sự tồn tại của các rủi ro và nhu cầu được bảo vệ trước các rủi ro ấy. Công ty bảo hiểm, khi đó, được xem như là cầu nối trung gian để phân tán các tổn thất, rủi ro của một số ít người cho nhiều người cùng chịu. Tuy nhiên, khi mức độ của một rủi ro riêng biệt mà người được bảo hiểm yêu cầu lớn hơn so với mức độ bình thường mà Công ty bảo hiểm có thể chấp nhận được thì công ty có quyền từ chối hoặc tìm đến một cách thức giải quyết hữu hiệu hơn là giữ lại một phần rủi ro và thu xếp chia sẻ rủi ro (đồng bảo hiểm) hoặc thu xếp bảo hiểm lại cho rủi ro đó (tái bảo hiểm). Xuất hiện từ giữa thế kỷ XIV, và đến thế kỷ XIX thì tái bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh có tính hệ thống trên toàn thế giới. Ở giai đoạn đầu hình thành, tái bảo hiểm chủ yếu phát triển tại châu Âu nơi có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và chủ yếu được tiến hành cho loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hải, sau này dần dần được mở rộng sang bảo hiểm cháy, bảo hiểm nhân thọ. So với thế giới, thị trường tái bảo hiểm tại Việt Nam còn rất sơ khai và non trẻ. Hiện tại, trên cả nước mới chỉ có 02 công ty tái bảo hiểm bao gồm: Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare) và Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm PVI (PVIRe). Ngày 15/11/1994, Công ty tái bảo hiểm đầu tiên tại Việt Nam – 7
  14. VINARE chính thức được cấp Giấy phép thành lập, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995 với số vốn điều lệ hiện tại là 3000 nghìn tỷ đồng. VINARE hoạt động kinh doanh chính trong lĩnh vực nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ trên thị trường trong và ngoài nước. Sau 17 năm kể từ khi VINARE được thành lập và hoạt động như một doanh nghiệp độc quyền trong ngành tái bảo hiểm, ngày 22/9/2011, PVIRe chính thức ra mắt tại Hà Nội và trở thành công ty tái bảo hiểm thứ hai được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, với số vốn điều lệ 460 tỷ đồng. Đây là một trong các đơn vị thành viên do PVI Holdings đầu tư 100% vốn điều lệ khi thành lập. Ra đời với mục tiêu trở thành doanh nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp, độc lập và có thương hiệu quốc tế đồng thời cung cấp thêm năng lực tái bảo hiểm cho thị trường Việt Nam, PVI Re sẽ hướng tới mục tiêu cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, tăng cường cung cấp các dịch vụ tái bảo hiểm tại thị trường trong nước, từng bước mở rộng khai thác dịch vụ trên phạm vi quốc tế. Ngoài hai công ty tái bảo hiểm trên thì ở Việt Nam hiện nay còn một số công ty bảo hiểm cũng tham gia kinh doanh tái bảo hiểm, điển hình như SVIC (Tổng công ty cổ phần bảo hiểm SHB), công ty bảo hiểm PTI (Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam) Theo ông Trịnh Thanh Hoan, Cục trưởng Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), trong thời gian tới số lượng công ty tái bảo hiểm sẽ tăng thêm không nhiều. Đến năm 2015, thị trường bảo hiểm Việt Nam dự kiến có 3 công ty chuyên kinh doanh tái bảo hiểm [34]. Mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường tái bảo hiểm Việt Nam nói riêng gặp nhiều khó khăn do tăng trường kinh tế thấp, đầu tư công bị thắt chặt, đầu tư xã hội giảm, doanh nghiệp kinh doanh khó khăn và ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng những năm gần đây thị 8
  15. trường cũng đang dần hồi phục và bắt đầu sôi động. Bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu trong nước hiện nay như Bảo Việt, Bảo Minh hay PVI khi nhận những hợp đồng lớn cùng không dám giữ lại nhiều nên việc phải tái bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm quốc tế là điều tất yếu. Việc nhận/nhượng tái bảo hiểm từ thị trường bảo hiểm nước ngoài đã tạo nên một “kênh mới” nhằm tăng doanh thu phí nhận tái bảo hiểm, cũng như tận dụng được năng lực của thị trường nước ngoài đối với những dịch vụ bảo hiểm đặc thù mà thị trường Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm triển khai, hoặc năng lực của thị trường trong nước không đáp ứng được [35]. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tái bảo hiểm 1.1.2.1. Khái niệm về tái bảo hiểm Xét về bản chất, tái bảo hiểm là một hoạt động bảo hiểm đặc thù, do vậy, để hiểu đúng và đầy đủ hơn về khái niệm hoạt động tái bảo hiểm, trước hết cần bắt đầu từ định nghĩa về hoạt động bảo hiểm. Có thể tham khảo các định nghĩa sau về bảo hiểm [35]: Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Theo Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ): Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển 9
  16. nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam được ban hành ngày 09/12/2000, sửa đổi ngày 24/11/2010 thì: Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [1, Điều 3]. Theo tác giả Bùi Nhật Anh thì: Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm [1]. Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì bảo hiểm là một cách thức chuyển giao rủi ro thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm thanh toán phí cho công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm cam kết bồi thường cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện rủi ro theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm (sau đây xin gọi là sự kiện bảo hiểm). Bằng sự đóng góp tài chính của số đông người vào một quỹ chung, khi có rủi ro, quỹ sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Nói một cách cụ thể hơn, mỗi cá nhân hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty bảo hiểm, khi gặp tổn thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra, 10
  17. người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Nếu như bảo hiểm là sự phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu thì tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro của một công ty bảo hiểm cho một số công ty nhận tái bảo hiểm cùng chịu. Hoạt động tái bảo hiểm là kết quả tất yếu trong quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là giải pháp chia sẻ, phân tán rủi ro giữa các công ty bảo hiểm với nhau khi thực tế xảy ra trường hợp giá trị đơn bảo hiểm quá lớn mà khả năng tài chính của từng công ty bảo hiểm lại có hạn. Trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc đóng vai trò là bên tham gia bảo hiểm, còn công ty nhận tái bảo hiểm đóng vai trò là bên bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm lại (hợp đồng tái bảo hiểm). Nhờ hình thức này, công ty bảo hiểm gốc được đảm bảo an toàn về tài chính và do đó họ có thể nhận bảo hiểm cho các đơn bảo hiểm có giá trị lớn, sau đó lại tiến hành phân tán rủi ro (chuyển giao rủi ro) sang công ty nhận tái bảo hiểm thông qua công cụ pháp lý là hợp đồng tái bảo hiểm. Như vậy, nói một cách ngắn gọn: Tái bảo hiểm là việc bảo hiểm lại cho các nhà bảo hiểm. Một cách chi tiết hơn, tái bảo hiểm là loại nghiệp vụ - dịch vụ tài chính do công ty tái bảo hiểm cung cấp cho khách hàng là công ty bảo hiểm gốc để thu phí bảo hiểm, trên cơ sở chấp nhận toàn bộ hoặc một phần rủi ro được chuyển giao từ công ty bảo hiểm gốc, thông qua hợp đồng tái bảo hiểm. 11
  18. Với bản chất này, tái bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an toàn về quyền lợi cho bên bảo hiểm gốc cũng như khách hàng của họ trong hợp đồng bảo hiểm gốc. 1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, đó là việc tối đa hóa lợi nhuận. Thị trường tái bảo hiểm cũng giống như các loại thị trường khác có những đặc điểm cơ bản là: Cung cầu sản phẩm luôn luôn biến động, giá cả sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, tính cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục, thị phần các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn thay đổi Tuy nhiên, với đối tượng kinh doanh đặc thù là dịch vụ tái bảo hiểm, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng mang những đặc điểm riêng khác biệt so với các loại hình hoạt động kinh doanh khác. Cụ thể là: Thứ nhất, bản chất của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động phái sinh từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đó có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm được hình thành và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thứ hai, đối tượng kinh doanh của hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm chính là dịch vụ tái bảo hiểm. Dịch vụ này có bản chất là một loại hình dịch vụ tài chính (theo quan niệm của WTO), do doanh nghiệp tái bảo hiểm thực hiện một cách chuyên nghiệp theo yêu cầu của khách hàng là doanh nghiệp bảo hiểm gốc, nhằm mục tiêu thu lợi nhuận cho doanh nghiệp tái bảo hiểm nhưng cũng đồng thời nhằm phân tán rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Thứ ba, thị trường tái bảo hiểm là một loại thị trường hoạt động có tính cách chuyên biệt. Điều này thể hiện ở chỗ, chủ thể tham gia thị trường tái bảo hiểm chỉ bao gồm các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau, trong đó mỗi doanh 12
  19. nghiệp bảo hiểm có thể tham gia thị trường với tư cách là bên bảo hiểm (bên nhận tái bảo hiểm) hoặc bên tham gia bảo hiểm (bên được tái bảo hiểm – doanh nghiệp bảo hiểm gốc), tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng cung cấp dịch vụ bảo hiểm theo các điều kiện kinh doanh tái bảo hiểm do luật định. Thứ tư, thị trường tái bảo hiểm không bị bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ mỗi quốc gia mà được mở rộng và mang tính chất quốc tế. Điều này thể hiện ở chỗ, trong thị trường tái bảo hiểm, các sản phẩm tái bảo hiểm có thể được cung cấp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang cùng hoạt động trong một lãnh thổ quốc gia (gọi là thị trường tái bảo hiểm trong nước) hoặc được cung cấp qua biên giới giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại các quốc gia khác nhau (gọi là thị trường tái bảo hiểm quốc tế). 1.1.2.3. Ý nghĩa của tái bảo hiểm Với những đặc trưng trên đây, tái bảo hiểm có một số ý nghĩa cơ bản như sau: Thứ nhất, tái bảo hiểm đem lại sự an toàn và tránh rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc khi họ phát hiện thấy có rủi ro đe dọa từ hợp đồng bảo hiểm gốc đã được ký kết với khách hàng. Một trong những lý do để mua bảo hiểm là người được bảo hiểm muốn giảm bớt lo âu về sự không chắc chắn của tổn thất. Mua bảo hiểm tạo ra yếu tố an tâm. Tổ chức bảo hiểm cũng tìm kiếm sự an toàn, an tâm và đạt được những điều này bằng việc tái bảo hiểm. Thứ hai, tái bảo hiểm góp phần ổn định tỉ lệ bồi thường: tổ chức bảo hiểm gốc có thể tránh sự biến động trong các khoản chi bồi thường trong một năm và qua nhiều năm bằng việc tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm đảm bảo khả năng thanh toán tiền bồi thường trong trường hợp xảy ra những thiệt hại lớn hay những rủi ro mang tính thảm hoạ, chẳng hạn như một trận bão đánh vào hàng nghìn hợp đồng trong cùng một sự cố. Nhờ đó tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm gốc ổn định hơn. 13
  20. Thứ ba, tái bảo hiểm tăng cường khả năng nhận bảo hiểm khi tổ chức bảo hiểm cho rằng mình không có khả năng tài chính tốt nhất để thực hiện trách nhiệm bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, nhưng vẫn muốn ký kết hợp đồng bảo hiểm vì mục tiêu duy trì và mở rộng thị phần. Vì vậy, bằng cách tái bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm gốc có thể tăng khả năng để chấp nhận dịch vụ, đặc biệt là đối với các công ty bảo hiểm mới thành lập, vốn kinh doanh còn hạn chế. Người được bảo hiểm sẽ không phải lo lắng về việc tìm công ty bảo hiểm nước ngoài để mua bảo hiểm. Điều này giúp cho hoạt động kinh tế trong nước phát triển và hạn chế việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, hơn nữa còn tăng thu ngoại tệ thông qua việc bán bảo hiểm cho các cá nhân và công ty nước ngoài. Thứ tư, tái bảo hiểm đem lại lợi ích “vĩ mô” trên thị trường bảo hiểm: lợi ích cuối cùng phải kể đến của tái bảo hiểm là chi phí rủi ro được dàn trải trong toàn thị trường bảo hiểm thế giới. Rất nhiều tổ chức tái bảo hiểm hàng đầu ở các nước như: Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Anh bằng việc tái bảo hiểm cho các tổ chức này và một số tổ chức khác, rủi ro của một quốc gia được san sẻ trên toàn thế giới. Như vậy có thể thấy rằng, bảo hiểm và tái bảo hiểm có mối liên kết rất chặt chẽ. Bảo hiểm là tiền đề của tái bảo hiểm, ngược lại tái bảo hiểm giúp bảo hiểm mở rộng phạm vi hoạt động của mình. 1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tái bảo hiểm 1.2.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm 1.2.1.1. Khái niệm hợp đồng tái bảo hiểm Xét ở góc độ kinh tế, hợp đồng tái bảo hiểm là một phương thức, nghiệp vụ kinh doanh của các công ty nhận tái bảo hiểm trên cơ sở chấp nhận bảo hiểm lại cho trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm gốc để thu phí 14
  21. tái bảo hiểm. Như vậy về bản chất kinh tế, tái bảo hiểm là hình thức phân tán rủi ro giữa các công ty bảo hiểm. Xét ở góc độ pháp lý, có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng tái bảo hiểm như sau: Hợp đồng tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp tái bảo hiểm, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết chuyển giao một phần hoặc toàn bộ rủi ro và mức phí tương ứng họ đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm với người thứ ba cho doanh nghiệp tái bảo hiểm, còn doanh nghiệp tái bảo hiểm cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [12]. Như vậy, hợp đồng tái bảo hiểm là bằng chứng, cam kết có giá trị pháp lý cao nhất về quan hệ kinh doanh giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty nhận tái bảo hiểm. 1.2.1.2. Bản chất của hợp đồng tái bảo hiểm Xét về bản chất, hợp đồng tái bảo hiểm là một hợp đồng bảo hiểm vì hợp đồng tái bảo hiểm thỏa mãn các dấu hiệu của một hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, hợp đồng tái bảo hiểm mang những nét đặc thù so với hợp đồng bảo hiểm thông thường. Cụ thể, trong hợp đồng tái bảo hiểm: công ty bảo hiểm gốc là bên tham gia bảo hiểm, công ty nhận tái bảo hiểm là bên bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của công ty bảo hiểm gốc đối với khách hàng của họ theo hợp đồng bảo hiểm gốc. Nói cách khác, hợp đồng tái bảo hiểm luôn có bản chất là một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Bản chất này của hợp đồng tái bảo hiểm cũng đã được ghi nhận rất rõ tại Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Nhận bảo hiểm lại một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm mà doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm” [2, Điều 61]. 15
  22. Để hiểu rõ hơn bản chất của Tái bảo hiểm, cũng cần phân biệt giữa “Tái bảo hiểm” và “Đồng bảo hiểm”. Mặc dù có điểm giống nhau giữa tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm là cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia cho cùng một đơn vị rủi ro, nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau, có thể kể đến như sau: Thứ nhất, đối với việc ký kết hợp đồng, nếu như trong hoạt động tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người tham gia và sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo hiểm theo sự thỏa thuận giữa họ và các công ty tái bảo hiểm thì trong hoạt động đồng bảo hiểm, việc ký hợp đồng do nhiều công ty bảo hiểm tiến hành, mỗi một công ty tham gia đồng bảo hiểm đều phải ký tên vào giấy chứng nhận bảo hiểm. Thứ hai, đối với việc trả tiền bồi thường, nếu như trong hoạt động tái bảo hiểm, khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc đứng ra bồi thường cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty tái bảo hiểm. Ở đây người được bảo hiểm không có quan hệ trực tiếp với công ty tái bảo hiểm thì trong hoạt động đồng bảo hiểm: khi tổn thất xảy ra các công ty tham gia đồng bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường trực tiếp cho người bảo hiểm theo tỷ lệ mà mình tham gia. 1.2.1.3. Đặc điểm của hợp đồng tái bảo hiểm Từ kết quả phân tích trên đây về bản chất của hợp đồng tái bảo hiểm, có thể nhận thấy rằng hợp đồng tái bảo hiểm – với tư cách là một loại hợp đồng bảo hiểm đặc thù - có một số đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hợp đồng tái bảo hiểm là loại hợp đồng “phái sinh” từ hợp đồng khác là “hợp đồng bảo hiểm gốc”. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của tái bảo hiểm, vốn dĩ chính là việc công ty nhận tái bảo hiểm nhận bảo hiểm lại cho các rủi ro của công ty bảo hiểm gốc phát sinh từ hợp đồng bảo 16