Luận văn Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam

pdf 74 trang vuhoa 25/08/2022 4280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hop_dong_bao_hiem_tai_san_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN PHƯỚC THU PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS . TRẦN NGỌC LIÊM HÀ NỘI - 2014 1
  2. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU 4 LỜI MỞ ĐẦU 6 Chương 1: KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 9 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản 9 1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản 9 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản 13 1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác 15 1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản 18 1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản 18 1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản 21 1.3. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản 24 1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản 24 1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản 26 1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản 27 1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản 31 1.3.4.1. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 31 1.3.4.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 33 1.4. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản 36 Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 38 2.1. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản 38 2.2. Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản 39 2.2.1. Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản 39 2.2.2. Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản 41 2.2.3. Về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tài sản 49 2.2.4. Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bảo hiểm tài sản 51 2.2.5. Về hợp đồng bảo hiểm trùng 54 2.2.6. Về giải quyết tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm tài sản 57 Chương 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 58 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam 58 2
  3. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản 59 KẾT LUẬN 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 3
  4. DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác 12 4
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm WTO : World Trade Organization PGS.TS : Phó giáo sư . Tiến sĩ 5
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã hình thành và phát triển tại cách đây hàng ngàn năm, và đã trở thành một cơ chế quan trọng trong việc hạn chế tác hại của rủi ro. Ngày nay hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở thành ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng, phong phú ăn sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành một nhu cầu không thể thiếu của hoạt động thương mại và đời sống thường nhật của con người. Rõ ràng sự phát triển của dịch vụ bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Dịch vụ bảo hiểm góp phần quan trọng vào việc khắc phục hậu quả của các rủi ro cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Lợi ích này của dịch vụ bảo hiểm do phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tạo ra. Quỹ bảo hiểm mà các doanh nghiệp bảo hiểm có được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do nhiều người tham gia bảo hiểm, nhưng chỉ chi trả cho các trường hợp thuộc diện được bảo hiểm theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Chính vì vậy, dịch vụ bảo hiểm tạo ra khả năng vật chất để khắc phục hậu quả của các rủi ro. Ngoài ra, dịch vụ bảo hiểm đóng vai trò là công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ, do sự chênh lệch giữa thời gian thu phí và chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm nên tạo ra sự tạm thời nhàn rỗi của vốn. Nguồn vốn này có thể khai thác để đầu tư. Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới do thiếu vắng của sự phát triển thương mại suốt thời kỳ phong kiến. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, và nhất là sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình tồn phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam. 6
  7. Kinh doanh bảo hiểm làm phát sinh các quan hệ đặc biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Quan hệ này chính là quan hệ hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm, ngoài những đặc tính của hợp đồng nói chung, còn có một số đặc trưng riêng do mang những đặc tính của dịch vụ tài chính, có nghĩa là liên quan tới quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quĩ bảo hiểm thương mại. Hợp đồng bảo hiểm thường được nhìn dưới nhiều giác độ khác nhau, do đó ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải và Luật Hàng không dân dụng Các đạo luật này đôi khi mâu thuẫn với nhau gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng. Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội, của kinh tế, bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia đang là một vấn đề cấp thiết. Trong đó hợp đồng bảo hiểm tài sản là một vấn đề pháp lý chủ chốt. Việc nghiên cứu đề tài này không còn là mới trong khoa học pháp lý, nhưng nghiên cứu sâu về nó trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, sau khi pháp luật đã có những qui định tương đối cụ thể song lại khó đi vào đời sống và còn là vấn đề pháp lý xa lạ với người dân nói chung và thương nhân nói riêng, vẫn còn tính cấp thiết. Vì vậy các lẽ nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của Luận văn bao gồm: + Hệ thống các vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm tài sản làm cơ sở cho việc nghiên cứu các qui định pháp luật hiện hành của Việt Nam; + Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản; 7
  8. + Kiến nghị các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kinh tế bảo hiểm và các nghiệp vụ bảo hiểm, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu phương diện pháp lý của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Luận văn cũng không nghiên cứu các kỹ năng liên quan của hợp đồng bảo hiểm tài sản. 3. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác-Lê Nin, và các đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước liên quan tới kinh tế và pháp lý. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích qui phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật và phương pháp trừu tượng hóa 4. Kết cấu của Luận văn Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, nội dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Khái luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Chương 3: Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản. 8
  9. Chương 1 KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản Nói tới hợp đồng là nói tới hành vi pháp lý đa phương hay nói tới sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều người làm tạo lập ra một hậu quả pháp lý [2, tr. 12 – 13]. Khoản 1, Điều 12, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 định nghĩa: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều 567, Bộ luật Dân sự năm 2005 có định nghĩa tương tự nhưng với một số thuật ngữ khác biệt như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Bảo hiểm gắn liền với các rủi ro mà khi xảy ra có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người. Khi nghiên cứu về rủi ro, người ta phân loại chúng thành rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính [1, tr. 14 – 18]. Bởi chỉ có thể bù đắp các thiệt hại về vật chất, nên chỉ có thể bảo hiểm các rủi ro tài chính, có nghĩa là các rủi ro mang tới thiệt hại về tài chính cho người phải gánh chịu. Qua các định nghĩa trên có thể thấy bảo hiểm là một cơ chế mà theo đó người nhận bảo hiểm (hay doanh nghiệp bảo hiểm) thay vì nhận một khoản tiền (được gọi là phí bảo hiểm) từ người mua bảo hiểm, phải bồi thường bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xãy ra (có nghĩa là có rủi ro xảy ra gây thiệt hại về tài chính cho người được bảo hiểm hay người thụ hưởng bảo hiểm). 9
  10. Vậy hợp đồng bảo hiểm được xem là hình thức pháp lý của cơ chế bảo hiểm đó. Vì nhằm tìm kiểm một cam kết hỗ trợ về tài chính từ phía doanh nghiệp bảo hiểm để nhằm bù đắp những thiệt hại của mình, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận chuyển giao rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm (có thể được coi như giá của rủi ro) để đổi lấy một cam kết bảo đảm về tài chính với điều kiện gắn vào trường hợp bên mua bảo hiểm phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do rủi ro (sự kiện bảo hiểm) [5, tr. 18]. Sự kiện bảo hiểm là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống trong đời sống thực tế được các bên dự liệu và ghi vào hợp đồng bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định liên quan trực tiếp đến đối tượng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể phân chia làm hai loại: Thứ nhất, sự kiện bảo hiểm là rủi ro. Với đặc tính bất lợi và bất ngờ, rủi ro trực tiếp xâm hại đến sự tồn tại của đối tượng bảo hiểm hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của người được bảo hiểm. Khi rủi ro mà các bên đã dự liệu trong hợp đồng hoặc pháp luật qui định xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghệp bảo hiểm. Thứ hai, sự kiện bảo hiểm là những sự kiện, hoàn cảnh, tình huống không mang tính bất lợi, bất ngờ nhưng do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định nếu xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm [4, tr. 306 – 307]. Trong thực tế hiện nay, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chủ yếu hiện nay là các bên không xác định được chính xác sự kiện bảo hiểm như thế nào. Do đó việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng. Từ những phân tích trên ta có thể khái quát đặc trưng cơ bản của hợp đồng bảo hiểm như sau: 10
  11. Thứ nhất, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng gắn với các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi; Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm chính là giải quyết hậu quả của rủi ro; Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm không xác định được trước hậu quả khi giao kết; Thứ tư, việc xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào việc có xuất hiện hay không các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi [5, tr. 19]. Trong hợp đồng bảo hiểm, các bên tìm kiếm khả năng để phân phối những tổn thất có thể xảy ra do sự không may mắn, để tìm cách san sẻ rủi ro, nhằm làm cân bằng tài sản. Mục đích của bảo hiểm là bù đắp tài chính để khắc phục thiệt hại, nhằm khôi phục lại tình trạng tài chính của bên mua bảo hiểm như ban đầu khi chưa bị tổn thất. Về nguyên tắc, sự đền bù này chỉ có thể bằng mà không thể tốt hơn trạng thái ban đầu của đối tượng bảo hiểm khi chưa bị tổn thất. Bên mua bảo hiểm không thể được hưởng lợi thông qua giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm thường được phân loại theo nghiệp vụ bảo hiểm. Các nghiệp vụ này được phân chia thành hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Trong bảo hiểm phi nhân thọ có bảo hiểm tài sản. Hợp đồng bảo hiểm tài sản, về bản chất cũng được hiểu như hợp đồng bảo hiểm nói chung, nhưng đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là tài sản. Như vậy đối tượng của hợp đống bảo hiểm tài sản bị thu hẹp hơn so với hợp đồng bảo hiểm nói chung. Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 qui định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng ta có thể phân biệt được hợp đồng bảo hiểm tài sản với các hợp 11
  12. đồng bảo hiểm khác vì đối tượng hợp đồng là căn cứ cơ bản để phân loại hợp đồng và để xác định được bản chất, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản của từng loại hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm con người có đối tượng là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn không thể định giá bằng tiền hoặc thay thế được. Ngoài con người còn có các mối quan hệ nhân thân phi tài sản, do đó pháp luật không qui định chặt chẽ đối với bên mua bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba. Trong khi đó, Hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng chính là tài sản lại được điều chỉnh sâu về phương diện đề phòng trục lợi bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định trật tự và đạo đức xã hội. Với các qui định nhằm định giá trị tài sản và số tiền bảo hiểm, ngăn chặn các nguy cơ trục lợi bảo hiểm thông thường như bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trên giá trị và bảo hiểm trùng, đồng thời gắn kết trách nhiệm của chủ tài sản không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, có nghĩa vụ cung cấp thông tin về thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm và thay đổi những biện pháp an toàn đối với tài sản được bảo hiểm. Bên cạnh đó doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng trừ, hạn chế các tổn thất, có quyền yêu cầu chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn. Các định nghĩa nêu trên cho thấy đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo hiểm, đó là việc ghi nhận sự thỏa thuận và thực hiện cam kết của các bên gắn với việc xảy ra một “sự kiện bảo hiểm”. Theo qui định của pháp luật Việt Nam, “sự kiện bảo hiểm” được định nghĩa là “sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm” (Điều 3, khoản10, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). 12
  13. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tài sản. Hợp đồng bảo hiểm taì sản được giao kết để đối phó với hậu quả do rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm. Do sự khác biệt về đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm tài sản có những đặc điểm riêng: + Quyền bảo hiểm tài sản của người tham gia bảo hiểm: quyền bảo hiểm tài sản cho phép một người giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản để đảm bảo cho tài sản mà họ có lợi ích ở đó. Quyền này của một chủ thể phát sinh trên cơ sở tồn tại một mối liên hệ về quyền lợi giữa người đó với tài sản.Theo nguyên tắc quyền bảo hiểm tài sản, bất cứ ai khi có quyền lợi có thể được đảm hiểm trong tài sản thì đều có quyền mua bảo hiểm để đảm bảo cho quyền lợi đó của mình. Khoản 9, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định: “quyền lợi có thể được bảo hiểm trong tài sản thể hiện và phát sinh từ mối quan hệ về quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng và quyền tài sản” mà bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản bảo hiểm. + Tính bồi thường trong bảo hiểm tài sản: bảo hiểm tài sản tuân thủ theo nguyên tắc bồi thường, theo đó, những thiệt hại mà rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, tuy nhiên bên được bảo hiểm trong bất kì trường hợp nào cũng không thể nhận được một khoản tiền cao hơn thiệt hại thực tế mà người đó phải gánh chịu. Bảo hiểm tài sản là một loại hình bảo hiểm đối với thiệt hại, nó nhằm đảm bảo cho người được bảo hiểm có tình hình tài chính ổn định như thể rủi ro không xaỷ ra. Mục đích của bảo hiểm rài sản chính là khôi phục lại (càng sát càng tốt) tình trạng như trước khi xảy ra rủi ro chứ không phải tạo cơ hội cho người được bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, do đó số 13
  14. tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm luôn tương ứng với thiệt hại thực tế của tài sản [6, tr. 38]. Điều kiện để người được bảo hiểm có thể được bồi thường là phải xảy ra sự kiện bảo hiểm và có thiệt hại thực tế. Việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ trên cơ sở tính toán mức thiệt hại thực tế, trong trường hợp xảy ra rủi ro nhưng khả năng bị thiệt hại không xuất hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình. + Giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản: giới hạn trách nhiệm là mức trách nhiệm cao nhất của bên bảo hiểm đối với người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm được thể hiện dưới hình thức một số tiền bảo hiểm nhất định ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng. Vì vậy giá trị thực tế của tài sản chính là mức cao nhất của số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn, có thể bằng nhưng tuyệt đối không được vượt quá giá trị thực tế của tài sản. Vì người tham gia bảo hiểm không có quyền lợi đối với phần số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm nên phần vượt quá giá trị trong hợp đồng bảo hiểm tài sản sẽ không có hiệu lực. + Quyền thế quyền của doanh nghiệp bảo hiểm: Trong quan hệ bảo hiểm tài sản, doanh nghiệp bảo hiểm sau khi đã bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã trả nếu người đó có lỗi gây ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm được thế quyền người được bảo hiểm truy đòi lợi ích đối với người thứ ba khi người này gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Luật không cho phép người được bảo hiểm đồng thời yêu cầu người bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm đã kí kết đồng thời tự mình truy đòi người thứ ba bồi thường cho 14
  15. mình trừ trường hợp đối với những phần thiệt hại không được bảo hiểm. Ngược lại, do mối liên hệ chặt chẽ giữa bồi thường và việc thế quyền, bên bảo hiểm không được phép yêu cầu người thứ ba bồi hoàn nhiều hơn số tiền bồi thường mà họ đã chi. Như vậy nguyên tắc bồi thường khiến cả bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm đều không thể thu lợi từ việc thực hiện quyền của mình [9, tr. 80]. Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc thế quyền trên cơ sở đảm bảo các điều kiện sau: +Việc xảy ra sự kiện bảo hiểm là do người thứ ba gây nên + Sự kiện bảo hiểm đó nằm trong phạm vi bảo hiểm +Doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường 1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác Bảng1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác Tiêu chí HĐBH tài sản HĐBH con người HĐBH trách nhiệm dân sự Tài sản bao gồm vật có Tuổi thọ, tính mạng, Trách nhiệm dân sự của Đối thực, tiền, giấy tờ trị giá sức khỏe và tai nạn. người được bảo hiểm đối tượng được bằng tiền và các với người thứ ba theo qui quyền tài sản. định của pháp luật. 15
  16. Thời Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm Thời hại của bảo hiểm hạn khoảng dưới 1 năm, ngay tương đối dài, đặc thường khoảng dưới 1 bảo sau khi kí kết Hợp đồng biệt là những hợp năm đối với người bảo hiểm bảo hiểm kết thúc bên đồng bảo hiểm nhân hiểm, việc đảm nhiệm tham gia bảo hiểm có thể thọ nên trong quá trách nhiệm bồi thường tái tục bảo hiểm có nghĩa trình thực hiện hợp dân sự nghĩa là bên mua là kí tiếp một thời gian đồng người tham gia bảo hiểm phải chi trả tiền bảo hiểm tiếp theo. có quyền thay đổi nội thiệt hại do mình gây ra dung của hợp đồng. cho người khác.Khi mua bảo hiểm công ty bảo hiểm sẽ gánh vác chi trả việc này. Thanh Là loại bồi thường và có Là loại hợp đồng Là loại bồi thường thanh toán mức giới hạn bồi thường thanh toán định mức toán chỉ trong giới hạn và bồi cao nhất.Trường hợp tài phí bảo hiểm này chủ trong phạm vi trách thường sản được bảo hiểm rủi ro yếu áp dụng nguyên nhiệm bồi thường về mặt thuộc phạm vi bảo tắc khoán, số tiền bảo kinh tế chứ không chịu hiểm,thực tế tổn thất bao hiểm không hạn chế trách nhiệm bồi thường nhiêu sẽ được bồi thường chủ yếu là do hai bên khác của người được bảo bấy nhiêu tuy nhiên trong bàn bạc thống nhất ý hiểm trước pháp luật như: quá trình xem xét bồi chí với nhau là được. trách nhiệm hành chính, thường còn căn cứ vào trách nhiệm hình sự mức độ đóng phí bảo hiểm, thời hạn nộp phí bảo hiểm trùng và mức miễn trách nhiệm bồi thường. 16
  17. Trách Trong quá trình thực hiện Trong quá trình thực Thực chất đây là loại bảo nhiệm hợp đồng, nếu người thứ hiện hợp đồng,nếu hiểm, mà công ty bảo với ba có lỗi gây thiệt hại cho bên thứ ba gây ra lỗi hiểm có trách nhiệm gián người tài sản được bảo hiểm thì thì công ty bảo hiểm tiếp đối với người thứ ba thứ 3 công ty bảo hiểm vẫn phải không được yêu cầu vì trong thời gian thực bồi thường, nhưng bên người thứ ba bồi hiện hợp đồng khi có sự tham gia bảo hiểm vẫn hoàn.Nếu họ trực tiếp kiện làm gây thiệt hại cho phải chuyển quyền yêu hoặc gián tiếp gây người thứ ba mà bên thứ cầu người thứ ba bồi hoàn nên cái chết, thương ba yêu cầu người được khoản tiền mà mình đã tật cho người được bảo hiểm bồi thường, thì nhận cho công ty bảo bảo hiểm thì công ty công ty bảo hiểm đứng ra hiểm.Nếu bên tham gia bảo hiểm vẫn phải gánh chịu trách nhiệm đó bảo hiểm từ chối yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chứ công ty bảo hiểm trên thì công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo không chịu trách nhiệm có quyền khấu trừ số tiền đúng thỏa thuận trực tiếp với người thứ bồi thường theo mức độ trong hợp đồng bảo ba. lỗi của bên tham gia bảo hiểm, đồng thời hiểm. người thứ ba vẫn phải bồi thường cho người được bảo hiểm theo qui định của pháp luật. 17
  18. 1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có nét đặc thù khác hẳn với các lĩnh vực kinh doanh khác, ở lĩnh vực này việc mua bán sản phẩm bảo hiểm không mang tính “ngang giá”. Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo hiểm) nhưng lại không được nhận vào thời điểm đó sự phục vụ (cam kết) của doanh nghiệp bảo hiểm và hoàn toàn không biết chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà mình đã bỏ tiền ra mua. Chất lượng sản phẩm chỉ được thể hiện khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tức là khi đến hạn hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ), hoặc khi người được bảo hiểm bị thiệt hại về thân thể hoặc tài sản hoặc phát sinh trách nhiệm dân sự phải bồi thường theo quy định của luật pháp và trong khuôn khổ những cam kết của người bảo hiểm. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ ngay cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng đều không biết khi nào thì sự kiện bảo hiểm xảy ra (trừ bảo hiểm nhân thọ khi đến hạn hợp đồng) bởi trong bảo hiểm phi nhân thọ người bảo hiểm chỉ nhận những rủi ro có thể xảy ra chứ không chắc chắn xảy ra. Chính vì nét đặc thù này mà hầu hết các nước trên thế giới đều coi trọng tầm quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên do các yếu tố lịch sử và truyền thống pháp lí khác của các nước khác nhau, mà có các qui định khác nhau về hợp đồng bảo hiểm. Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát 18
  19. hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội . Mở đường cho sự phát triển này là Luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành. Đó là những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như: “Fire Office” (năm 1667), “Friendly Society” (năm 1684), “Hand and Hand” (năm 1696), “Lom Bard House” (năm 1704) Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm [9, tr. 5]. Còn ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ đã để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn - đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng 19
  20. dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc. Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương . Công ty bảo hiểm này hoạt động theo cơ chế nhà nước độc quyền, thì các qui phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm còn nhiều thiếu sót và hiệu lực pháp lý thấp. Trước những năm 90, nhũng qui định liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng chủ yếu được điều chỉnh bởi các Quyết định hay Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm và ban hành theo đó một số nguyên tắc, điều khoản bảo hiểm được phép áp dụng. Hầu hết các quy tắc, điều khoản bảo hiểm đều là sự sao chép các điều khoản bảo hiểm nước ngoài được áp dụng vào Việt Nam, với tính chất là hợp đồng bảo hiểm theo mẫu, được quy định sẵn trong quy tắc bảo hiểm, do một bên bảo hiểm đưa ra. Nên sẽ không tránh khỏi việc áp đặt ý chí chủ quan của một bên chủ thể kinh doanh bảo hiểm, các quyền nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm chưa thực sự được bình đẳng. Trước những đòi hỏi thực tế của cơ chế đổi mới xã hội, các văn bản pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực về hợp đồng được ban hành. Có thể nói Bộ luật Hàng hải 1990 là văn bản đầu tiên có giái trị pháp lý cao điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm nhưng trong Bộ luật này cũng chỉ điều chỉnh giới hạn các vấn đề bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải còn các vấn đề khác thì không được nêu ra. Bộ luật Hàng hải hiện nay đã được sửa đổi và có hiệu lực năm 2005 nhưng nó vẫn cũng chỉ điều chỉnh một phần về hợp đồng bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải mà thôi [8, tr. 6]. 20
  21. Đứng trước sự phát triển của thị trường bảo hiểm, sự bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm, ngày 22/12/2000 Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/04/2001, đây là văn bản có tính chuyên ngành đầu tiên ghi nhận về hợp đồng bảo hiểm, trong đạo luật này cũng qui định khá rõ nét về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm. Mặt khác trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng đã phân chia các hình thức king doanh bảo hiểm, căn cứ vào đặc trưng mỗi hình thức mà các nhà làm luật qui định khác nhau đảm bảo việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, khắc phục được phần nào những vướng mắc trong quá trình thực hiện luật và đảm bảo được sự ổn định trong môi trường kinh doanh bảo hiểm. Sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm từ năm 2000 đến nay đã thể hiện tính ưu việt của nó, tạo được sự yên tâm cho các chủ thể tham gia hợp đồng trên khía cạnh như : môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, thủ tục tiến hành đăng kí kinh doanh bảo hiểm Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay, việc ban hành các qui định của pháp luật còn phải phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế và cần phải có sự điều chỉnh một cách cụ thể và chi tiết hơn để các bên thực hiện được dễ dàng hơn. 1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản được thiết lập nhằm cung cấp sự đảm bảo về tài chính cho người mua bảo hiểm trong trường hợp bị thiệt hại liên quan tới tài sản như bị hư hỏng hay tổn thất bởi việc xảy ra một sự kiện bảo hiểm. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm tài sản còn có ý nghĩa to lớn trong việc phân chia rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vì đối tượng mà hợp đồng bảo hiểm tài sản trực tiếp bảo vệ không phải là tài sản (với tư cách là đối tượng bảo hiểm) mà là quyền lợi tài chính mà bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản đó. 21
  22. Thực tế, hợp đồng bảo hiểm được thiết lập với mục đích là cung cấp đảm bảo tài chính cho bên tham gia bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục hậu quả thiệt hại xảy ra khi có sự kiện bảo hiểm. Thông qua hợp đồng bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm sẽ được bảo hiểm một cách gián tiếp theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm để hạn chế rủi ro hoặc hạn chế thiệt hại khi có rủi ro. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tài sản với rủi ro cháy cho một ngôi nhà, thì mặc dù ngôi nhà đó chính là đối tượng tài sản bảo hiểm, là đối tượng trực tiếp bị đe dọa và bị tổn thất, phá hủy khi xảy ra cháy, nhưng bản chất và vai trò của hợp đồng bảo hiểm được cấp ra không phải là bảo hiểm hay bảo vệ trực tiếp cho bản thân ngôi nhà hay các vật liệu tạo nên ngôi nhà đó (đối tượng bảo hiểm), mà hợp đồng bảo hiểm tài sản cung cấp sự bảo vệ cho quyền lợi của bên mua bảo hiểm có trong ngôi nhà đó. Bản chất và chức năng của hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp này sẽ cung cấp đảm bảo tài chính cho bên mua bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục hậu quả, thiệt hại sau khi cháy, sửa chữa lại hay xây ngôi nhà mới. Chức năng bảo vệ tài sản thông qua việc giao kết hợp đồng bảo hiểm chỉ được thể hiện một cách gián tiếp qua việc thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể khuyến nghị bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng tránh để đảm bảo an toàn cho tài sản, cũng như trực tiếp cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, trang bị các phương tiện phòng tránh làm giảm thiểu khả năng xảy ra tổn thất cho đối tượng tài sản. Tại bất kì thời điểm nào, sự an toàn về tài sản cũng bị đe dọa bởi các yếu tố rủi ro luôn tiềm ẩn bởi các hiện tượng thiên tai bất khả kháng như bão, lũ lụt, động đất, núi lửa cũng có thể do bất cẩn của con người như cháy nổ, va đập gây ra những thiệt hại thì việc tham gia bảo hiểm tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói riêng và cuộc sống hàng ngày nói chung. Thông qua việc trả tiền bồi thường, cung cấp sự trợ giúp hữu hiệu về tài chính 22