Luận văn Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam

pdf 90 trang vuhoa 25/08/2022 7860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_tin_dung_cua_cong_ty_cho_thu.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận Hà Nội - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Hồng Nhung
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN 5 VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng 5 1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng 5 1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng 6 1.2. Khái quát về công ty cho thuê tài chính 8 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm công ty cho thuê tài chính 8 1.2.2. Loại hình hoạt động của công ty cho thuê tài chính 10 1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính11 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm 11 1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn 11 1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính 13 Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT 19 VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 2.1. Hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam 19 2.2. Hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam30 2.2.1. Hoạt động cho thuê tài chính 30 2.2.2. Hoạt động huy động vốn, vay vốn 55
  5. 2.2.3. Hoạt động khác 60 Chương 3 - ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 62 PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng62 của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng64 của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.2.1. Về tổ chức, hoạt động của công ty cho thuê tài chính 64 ở Việt Nam 3.2.2. Về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính 68 ở Việt Nam KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CTTC : Cho thuê tài chính DN : Doanh nghiệp ĐKDN : Đăng ký doanh nghiệp ĐKKD : Đăng ký kinh doanh HĐQT : Hội đồng quản trị HĐTV : Hội đồng thành viên NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TAND : Tòa án nhân dân TCTD : Tổ chức tín dụng TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1. Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính 15 của các quốc gia trên thế giới
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hoạt động tín dụng của công ty CTTC tại Việt Nam trong những năm gần đây bên cạnh những mặt tích cực là tạo thêm một kênh huy động vốn, vay vốn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thì cũng bộc lộ nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm vừa qua, bản thân sự quản lý yếu kém của các công ty CTTC và trong đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của các quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC còn thiếu sự đồng bộ, chưa phù hợp. Đến nay hoạt động này ở Việt Nam mới chỉ được điều chính bởi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ “về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” và đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/8/2008 của Chính phủ. Luật các Tổ chức tín dụng cũng đề cập nhưng với tư cách là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng và quy định rất chung chung về hoạt động cho thuê tài chính. Ngoài ra còn một số Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh về hoạt động CTTC như Thông tư số 06/2005/TT-NHNN ngày 12/10/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 08/2006/TT-NHNN ngày 12/10/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Có thể nói văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp về công ty CTTC có giá trị pháp lý không cao, đồng thời những quy định trong các văn bản pháp luật về công ty CTTC vẫn chưa thực sự linh hoạt, phù hợp với thực tiễn kinh doanh như quy định về trình tự, thủ tục thành lập công ty, quy trình, nghiệp vụ CTTC, quyền của công ty CTTC, tài sản cho thuê, chính sách thuế, huy động vốn, xử lý tranh chấp phát sinh từ 1
  9. hoạt động CTTC, Những bất cập, vướng mắc này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về công ty CTTC, tạo môi trường pháp lý đầu đủ, an toàn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giúp hoạt động của các công ty CTTC diễn ra an toàn, hiệu quả cao. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động CTTC, trong đó có việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một yêu cầu cấp thiết góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp phù hợp thúc đẩy sự phát triển hoạt động công ty CTTC là hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. Xuất phát từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTTC như: Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Doãn Hồng Nhung (2006) về “Những vấn đề về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Hoàng Oanh (1998) về “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thuê mua tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thị Thảo (2002) về “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Đinh Bá Tuấn (2006) về “Pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Tiến sỹ Kinh tế của tác giả Tống Thiện Phước (2006) về “Giải pháp phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế”, Luận văn Tiến sỹ Kinh tế của tác giả Bùi Hồng Đới (2003) về “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam”; 2
  10. cùng một số bài viết như: “Về quy định đăng ký tài sản cho thuê tài chính” của tác giả Nguyễn Hữu Thanh, “Cho thuê tài chính ở Việt Nam tại sao chưa phát triển” của tác giả Hoàng Quý Vương – Phạm Tuấn Long (1999), “Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính” của tác giả Hoàng Ngọc Tiến (2004), “Pháp luật về cho thuê tài chính – một số vấn đề cần hoàn thiện” của Thạc sỹ Trần Vũ Hải Tuy nhiên, các công trình và bài viết đó chưa đi sâu phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt động của công ty CTTC, nhất là các quy định pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Do đó, vấn đề về hoạt động tín dụng trong công ty CTTC vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một yêu cầu cấp thiết, góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính, phát triển “kênh” dẫn vốn rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích của luận văn là tìm hiểu thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam và đề ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, góp phần hoàn thiện khung pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ đó, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản: Một là, Nghiên cứu một cách hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty CTTC. Hai là, Nghiên cứu thực tiễn về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, qua đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3
  11. Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC bao gồm các hoạt động cho thuê tài chính và hoạt động huy động vốn của công ty CTTC. 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp diễn giải và quy nạp. Các phương pháp này được sử dụng đan xen, kết hợp trong cả ba chương, để giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra trong quá trình nghiên cứu, đánh giá và kết luận một số vấn đề cụ thể về pháp luật hoạt động tín dụng của công ty CTTC. 6. Ý nghĩa của luận văn: Qua nghiên cứu pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, mong muốn những đề xuất của người viết có ý nghĩa thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, từ đó góp phần hoạt động CTTC tạo thành kênh dẫn vốn quan trọng đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời mong muốn luận văn là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam. Chương 3: Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam. 4
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng: 1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng: “Tín dụng” xuất phát từ chữ Latin là Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả. Vì vậy, có thể hiểu tín dụng thể hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.[15] 5
  13. 1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng: Xuất phát từ khái niệm “tín dụng” như đã nêu ở trên có thể hiểu một quan hệ được gọi là “tín dụng” phải có đầy đủ ba mặt: Thứ nhất, có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác. Thứ hai, sự chuyển giao mang tính chất tạm thời. Thứ ba, khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm lợi tức. Có thể thấy đặc trưng của tín dụng thể hiện rõ nét nhất trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Theo khoản 8 và khoản 10, Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có nguồn vốn huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hoạt động tín dụng khác với các loại hình giao dịch khác ở các đặc điểm sau đây: Một là, về chủ thể, một bên tham gia giao dịch bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật. Chủ thể này tham gia giao dịch với tư cách là người đầu tư (người cho vay hay chủ nợ) và có quyền đòi tiền của người nhận đầu tư (người vay hay con nợ) khi hợp đồng đáo hạn. Hai là, về nguồn gốc, các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng cho khách hàng chủ yếu dựa vào nguồn gốc huy động của các tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức ghi nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu hay vay nợ của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng với hoạt động tín dụng 6
  14. của Ngân hàng nhà nước, với đặc tính của nguồn gốc cho vay là vốn dự trữ phát hành. Tín dụng có thể được phân chia thành các loại sau: Thứ nhất, Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Thứ hai, Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. Trong loại hình tín dụng này, huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ và các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay; Thứ ba, Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. Chủ thể của tín dụng nhà nước là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân; Hình thức tín dụng này đa dạng, phong phú. Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian. 7
  15. Thứ tư, Tín dụng tiêu dùng: Là quan hệ tín dụng giữa dân cư với doanh nghiệp, ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính. Hình thức này đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho dân cư; Hình thức là hàng hóa hoặc tiền tệ trong đó dân cư là người vay; ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp là người cho vay. Thứ năm, Tín dụng quốc tế: Là mối quan hệ giữa các nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước với nhau, hoặc với ngân hàng quốc tế và các tổ chức quốc tế, các cá nhân người nước ngoài và giữa các doanh nghiệp của các nước với nhau. Nó phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa các chủ thể kinh tế của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Đối tượng tín dụng quốc tế là hàng hóa hoặc tiền tệ. Chủ thể tham gia là chính phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá nhân. Thứ sáu, Tín dụng thuê mua: Là quan hệ phát sinh giữa các công ty cho thuê tài chính với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức cho thuê tài chính. Trong đó đối tượng của tín dụng thuê mua là tài sản;Chủ thể là công ty cho thuê tài chính (người cho thuê), và doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân (người đi thuê). Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu và làm rõ loại tín dụng này của công ty CTTC. 1.2. Khái quát về Công ty CTTC 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về Công ty CTTC Cho thuê tài sản là một công cụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Vào khoảng năm 1.700 trước Công nguyên, vua Babilon là Hamurabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo thành bộ luật lớn, trong đó có đưa ra các quy định về hoạt động thuê tài sản. Trong nền văn minh cổ đại như Hy Lạp – La Mã, Ai Cập, các hình thức thuê để tài trợ việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất cũng xuất hiện. Có thể khẳng 8
  16. định rằng, nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên, “các giao dịch cho thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê kiểu truyền thống” [76]. Phương thức này tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay. Đầu thế kỷ XIX, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hóa, các nước tư bản bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động CTTC đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê, trở thành công cụ tài chính được chấp nhận rộng rãi. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, giao dịch CTTC đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là ở Mỹ. Các công ty kinh doanh tìm cách chuyển dần các rủi ro và lợi ích từ việc sỡ hữu tài sản của họ sang bên đi thuê dưới hình thức cho thuê tài sản, đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Đây là tiền đề xuất hiện hoạt động CTTC. Công ty CTTC độc lập đầu tiên được ra đời ở Mỹ vào năm 1952, do một công ty tư nhân tên là United States Corporation sáng lập. Sau đó, nghiệp vụ CTTC phát triển sang Châu Âu vào những năm 60 của thế kỷ XX. CTTC đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Từ những phân tích trên, chúng ta nhận thấy công ty CTTC là TCTD phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam, hoạt động chính là CTTC theo quy định pháp luật. Công ty CTTC là TCTD có những đặc điểm sau: - Về tổ chức: là pháp nhân kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về ngân hàng và các quy định khác có liên quan. - Về hoạt động: phạm vi hoạt động của công ty CTTC hẹp hơn so với các TCTD là ngân hàng. Ngoài hoạt động kinh doanh chủ yếu là CTTC, các công ty CTTC được thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng không nhận 9
  17. tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thành toán qua tài khoản của ngân hàng. - Về nguồn vốn: ngoài vốn tự có, công ty CTTC thực hiện hoạt động trên cơ sở nguồn vốn huy động. Công ty CTTC huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu; vay vốn trên thị trường của các TCTD, tổ chức tài chính và NHNN theo quy định pháp luật. - Về quản lý nhà nước: loại hình DN chịu sự quản lý của NHNN Việt Nam, tồn tại ở hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. - Về đối tượng kinh doanh: đối tượng kinh doanh chủ yếu là các tài sản hữu hình: máy móc, thiết bị và các động sản khác. 1.2.2. Loại hình hoạt động tín dụng của công ty CTTC: - Các hoạt động huy động vốn, trong đó vốn huy động bao gồm tiền gửi của tổ chức, vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu và vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài, vay NHNN dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNN Việt Nam và đây là một trong những nguồn vốn bổ sung hoạt động cho các công ty CTTC. - Hoạt động cho thuê tài chính như cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành và ủy thác thuê tài chính. - Ngoài hai hoạt động chủ yếu trên, các công ty CTTC được thực hiện một số hoạt động khác như: tư vấn khách hàng về vấn đề liên quan đến nghiệp vụ CTTC; thực hiện dịch vụ bảo lãnh liên quan đến CTTC theo hướng dẫn của NHNN; thực hiện hoạt động ngoại hối theo quy định của NHNN. Đối với các công ty CTTC có mức vốn điều lệ tương đương mức vốn pháp định đối với công ty tài chính thì được phép thực hiện hoạt động bao thanh toán và nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung lưu động đối với bên thuê và thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN cho phép. 10
  18. Như vậy, có thể thấy các hoạt động khác của công ty CTTC đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chủ yếu và cơ bản của công ty CTTC là CTTC. Các hoạt động này góp phần tạo nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC, tạo điều kiện cho phép khách hàng tiếp cận giao dịch CTTC, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty CTTC. 1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC: 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC: Hoạt động tín dụng của công ty CTTC có vai trò rất quan trọng trong việc tạo vốn cho DN, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò này mà vấn đề hoạt động tín dụng của công ty CTTC hiện nay được điều chỉnh rất cụ thể trong các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Có thể nói, toàn bộ những quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty CTTC tạo thành pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Hay nói một cách khác, pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một bộ phận pháp luật của công ty CTTC thuộc pháp luật ngân hàng, bao gồm những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động của công ty CTTC, bao gồm các nội dung quy định về hoạt động cho thuê tài chính, hoạt động huy động vốn, vay vốn và các hoạt động khác của công ty CTTC. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn, vay vốn và hoạt động cho thuê tài chính của công ty CTTC. 1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn: Bản chất của CTTC là việc tài trợ vốn trung và dài hạn. Vì vậy, nhu cầu về vốn của công ty CTTC là rất lớn. Do đó, để có vốn cấp tín dụng thông qua 11
  19. hoạt động CTTC, công ty CTTC phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Nguồn vốn hoạt động của các công ty CTTC được hình thành từ 02 nguồn cơ bản là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động. Nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn ban đầu và vốn cấp tín dụng từ ngân hàng mẹ, công ty mẹ. Vốn huy động bao gồm: - Tiền gửi của tổ chức. Hoạt động của công ty CTTC với quy mô nhỏ, số lượng tiền ít nên chưa chiếm được thị phần lớn trong thị trường tài chính. Mặt khác, công ty CTTC chưa khai thác mạnh mẽ các dịch vụ phi ngân hàng, không làm dịch vụ thanh toán nên những người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi thường tìm đến ngân hàng thương mại. Vì vậy, để huy động được nguồn vốn này các công ty CTTC phải tiến hành quảng cáo, quảng bá đại chúng về dịch vụ CTTC mới và xây dựng một quy trình nghiệp vụ huy động vốn phù hợp với những hình thức như: lãi suất huy động, tiền gửi bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, - Vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Công ty CTTC có thể phát hành trực tiếp trái phiếu dưới nhiều hình thức như trả lãi trước, trả lãi có kỳ hạn, trái phiếu được chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố và có thể bán trên thị trường thứ cấp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng. - Vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài, vay NHNN dưới hình thức cấp vốn. Đây cũng là một trong những nguồn vốn bổ sung hoạt động cho các công ty CTTC. Ngoài việc huy động vốn nêu trên, công ty CTTC có thể khai thác nguồn hàng trả chậm từ các nhà cung cấp nước ngoài: Các công ty CTTC thiết lập một mạng lưới cung cấp tài sản cho thuê từ các nhà sản xuất ở trong và ngoài nước. Qua mạng lưới này bằng hình thức mua hàng trả chậm, các công ty CTTC thu hút, khai thác được nguồn vốn ở nước ngoài. Nhờ vào lợi 12
  20. thế so sánh, trình độ công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao làm cho chi phí, giá thành sản phẩm thấp nên các nhà cung cấp nước ngoài thực hiện việc bán hàng trả chậm cho các công ty CTTC tại Việt Nam. Một mặt, giúp các công ty CTTC tăng được nguồn vốn kinh doanh, tăng khả năng đáp ứng tài sản thuê cho thị trường. Mặt khác, bên thuê cũng được hưởng lợi vì phí cho thuê có khả năng giảm do chi phí sử dụng vốn của các công ty CTTC giảm, tài sản cho thuê đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của bên thuê. 1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính: 1.3.3.1. Khái niệm cho thuê tài chính Hoạt động CTTC đầu tiên được tổ chức tại Mỹ. Sau đó, nghiệp vụ CTTC phát triển sang châu Âu, châu Á, Thuật ngữ CTTC đã trở thành thuật ngữ quen thuộc đối với giới kinh doanh, nhà đầu tư. Tuy nhiên, thuật ngữ này được một số nước sử dụng có sự khác nhau. - Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ ghi nhận: CTTC là loại hình cho thuê trong đó: + Người cho thuê không chọn nhà sản xuất hoặc cung ứng hàng. + Người cho thuê thu nhận hàng hoặc chuyển quyền sở hữu và sử dụng hàng liên quan đến việc cho thuê. + Hoặc người cho thuê nhận một bản sao hợp đồng chứng thực đã mua hàng vào thời điểm trước hoặc trước khi ký hợp đồng hoặc việc phê chuẩn hợp đồng của người cho thuê chứng thực việc họ đã mua hàng đó là một trong những điều kiện xét tính hiệu lực của hợp đồng thuê [35, tr.8]. - Hiệp hội các công ty CTTC Thụy Điển quan niệm về CTTC với những đặc điểm cơ bản sau: + Bên cho thuê mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê. 13
  21. + Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê và quyền sử dụng được chuyển giao cho bên thuê trong suốt thời hạn thuê, thường bằng thời gian hữu ích của tài sản. + Hợp đồng cho thuê tài chính không được hủy ngang. + Số tiền thanh toán cho thuê sẽ bù đắp chi phí lãi, chi phí quản lý, rủi ro và lãi cho phép khấu hao toàn bộ hoặc gần như toàn bộ giá mua tài sản đó. + Tại thời điểm kết thúc hợp đồng, người thuê có quyền gia hạn hợp đồng với chi phí được ấn định tại thời điểm ký hợp đồng. + Nếu người thuê quyết định không gia hạn thuê thì quyền sử dụng tài sản sẽ chấm dứt và tài sản được bàn giao lại cho người cho thuê [69]. - Theo Công ước Unidroit về CTTC quốc tế năm 1998, hoạt động CTTC được xác định là giao dịch, trong đó một bên (bên cho thuê): + Căn cứ vào yêu cầu được nêu cụ thể của bên kia (bên thuê) thống nhất một thỏa thuận (thỏa thuận cung cấp) với một bên thứ ba (nhà cung cấp). Theo đó, bên cho thuê mua nhà máy, hàng hóa, tư liệu sản xuất hoặc các thiết bị khác (gọi chung là thiết bị) theo các điều kiện đã được (bên đi thuê) chấp nhận. + Cùng thống nhất một thỏa thuận với bên đi thuê cho phép bên đi thuê quyền sử dụng thiết bị để đổi lại bằng việc thanh toán tiền thuê. Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về CTTC “là loại cho thuê có khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng có thể được chuyển giao hoặc không được chuyển giao”[73]. Như vậy, có thể thấy về cơ bản, các điều kiện để nhận biết giao dịch CTTC của một số nước trên thế giới không có gì khác biệt. Điều này được thể 14
  22. hiện thông qua bảng thống kê về tiêu chuẩn xác định giao dịch CTTC ở một số nước như sau: Bảng 1.1: Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính của các quốc gia trên thế giới Quốc gia IASC Hoa Kỳ Anh Nhật Hàn Quốc Chuyển giao quyền sở Không quy hữu tài sản khi kết thúc Có Có Có Có định cụ thể hợp đồng Không bắt Không bắt Không bắt Quyền chọn mua Có Có buộc buộc buộc Tài sản >10 năm Tài sản 7 thì 60%, năm thì Thời hạn thuê tính theo năm cho tối đa 60%; Tài đời sống hữu ích của tài Phần lớn thuê không Phần lớn 120%; Tài sản > 5 sản thuê quá 30 sản 90% >90% >90% vào thời điểm ký hợp trị tài sản đồng Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu [49], [76]. 1.3.3.2. Đặc trưng của cho thuê tài chính và sự khác biệt giữa cho thuê tài chính với hoạt động cho vay của ngân hàng và cho thuê vận hành: * Các đặc trưng của CTTC: Hoạt động CTTC vừa mang đặc trưng của cho thuê tài sản, vừa mang đặc trưng của hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Loại hình CTTC có những đặc trưng riêng, khác biệt với cho thuê tài sản thông thường và cũng khác với hoạt động cho vay của ngân hàng: - Thời gian thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản. 15
  23. - Bên thuê chịu mọi chi phí vận hành, bảo trì, bảo hiểm, và các rủi ro liên quan đến tài sản thuê. Quyền sở hữu của tài sản có thể được chuyển giao khi thời hạn thuê chấm dứt. - Hợp đồng thuê quy định quyền chọn mua tài sản theo giá tượng trưng. - Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu, lớn hơn hay tương đương giá trị tài sản. * Sự khác biệt giữa CTTC với cho thuê vận hành: Thuê vận hành đã có trong lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là kiểu thuê mua truyền thống (Traditional Lease). Trong nền sản xuất nông nghiệp, các loại tài sản thường được sử dụng trong các giao dịch thuê mua truyền thống bao gồm: ruộng đất, công cụ lao động, gia súc Ngày nay, các loại tài sản,thiết bị được sử dụng cho thuê vận hành rất đa dạng như: máy photocopy, máy vi tính, trang thiết bị văn phòng Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về cho thuê vận hành như sau: “Cho thuê vận hành là cho thuê tài sản không có sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản” [49]. - Thuê vận hành có thời hạn thuê rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu ích của tài sản, điều kiện để chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời gian ngắn. Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản cùng mọi rủi ro và sự giảm giá của tài sản. Mặt khác, người cho thuê được hưởng tiền thuê và sự gia tăng giá trị tài sản hay những quyền lợi do quyền sở hữu tài sản mang lại như: những ưu đãi thuế thu nhập DN và những khoản khấu trừ do sự giảm giá trị tài sản mang lại, Do thuê vận hành là hình thức cho thuê ngắn hạn nên tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người cho thuê có giá trị thấp hơn nhiều so với toàn bộ giá trị của tài sản. Khi hợp đồng hết hạn, người chủ sở hữu có thể bán tài 16
  24. sản đó, hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê hay tìm một khách hàng thuê mới. Người thuê có quyền sử dụng tài sản trong thời gian đã thỏa thuận và có nghĩa vụ trả tiền thuê. Người thuê không phải chịu các chi phí bảo trì, vận hành hay những rủi ro liên quan đến tài sản nếu như không phải lỗi do họ gây ra. Đối với thuê vận hành, tài sản đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trước khi ký hợp đồng. Đối với CTTC, tài sản thuê trước khi ký hợp đồng có thể không thuộc quyền sở hữu của người cho thuê mà là do người đi thuê tìm, lựa chọn từ nhà cung cấp và yêu cầu công ty CTTC mua để cho thuê. Trong cho thuê vận hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà phần tiền thuê trả theo thỏa thuận được ghi như mọi khoản chi phí bình thường khác. * Hoạt động CTTC và cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM). Về bản chất, hoạt động CTTC là một hình thức tín dụng trung và dài hạn. Tuy nhiên, so với cho vay ngân hàng, hoạt động CTTC có những khác biệt như sau: - Trong giao dịch CTTC, vốn cho vay được thể hiện bằng tài sản cố định như máy móc, thiết bị văn phòng Trong cho vay của ngân hàng, vốn vay được thể hiện bằng tiền. Vì vậy, sau khi hợp đồng được ký kết, trong giao dịch CTTC, người đi thuê sẽ được bổ sung vốn trực tiếp bằng tài sản cố định, trong khi cho vay của ngân hàng thì người đi vay được bổ sung vốn bằng tiền. - Phí cho thuê trong hoạt động CTTC có thể lớn hơn lãi suất cho vay từ ngân hàng, vì chi phí CTTC được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung, dài hạn và các khoản phí liên quan đến tài sản thuê. - Nghiệp vụ CTTC thường có sự tham gia giao dịch quan hệ của nhiều bên (như bên đi thuê, bên cho thuê, nhà cung cấp, người cho vay). Ngược lại, cho vay của ngân hàng thì thường chỉ có quan hệ song phương giữa người cho vay và người đi vay. Hoạt động CTTC thường gắn liền với quyền sở hữu 17