Luận văn Pháp luật về hoạt động thu bảo hiểm xã hội của tổ chức bảo hiểm xã hội Việt Nam

pdf 87 trang vuhoa 25/08/2022 7400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động thu bảo hiểm xã hội của tổ chức bảo hiểm xã hội Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_thu_bao_hiem_xa_hoi_cua_to_c.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động thu bảo hiểm xã hội của tổ chức bảo hiểm xã hội Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẰNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THU BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẰNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THU BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Thương Huyền Hà nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: - Luận văn này là sản phẩm nghiên cứu của cá nhân tôi; - Số liệu trong luận văn được điều tra trung thực; - Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. HỌC VIÊN Đỗ Thị Hằng
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ii DANH MỤC CÁC BẢNG iii PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 2 2.1. Đối tượng nghiên cứu 2 2.2. Phạm vi nghiên cứu 2 3. Tình hình nghiên cứu đề tài 3 4. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn 3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn 4 6. Những đóng góp của Luận văn 4 7. Kết cấu của Luận văn 5 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI 6 1.1. Lý luận chung về thu bảo hiểm xã hội 6 1.1.1. Khái niệm thu bảo hiểm xã hội 6 1.1.2. Nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội 8 1.1.3. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội 9 1.1.4. Vai trò của thu bảo hiểm xã hội 10 1.2. Pháp luật về thu bảo hiểm xã hội 13 1.2.1. Khái niệm pháp luật thu bảo hiểm xã hội 13 1.2.2. Nội dung pháp luật về thu bảo hiểm xã hội 13 1.2.3. Ý nghĩa pháp luật thu bảo hiểm xã hội 15 1.3. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của một số quốc gia trên thế giới 15 1.3.1. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của Trung Quốc 15 1.3.2. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của Thái Lan 16 1.3.3. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của Đức 17
  5. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 20 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về thu bảo hiểm xã hội 20 2.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội 20 2.1.2. Tiền lương làm căn cứ thu bảo hiểm xã hội 23 2.1.3. Quy định về tỷ lệ thu bảo hiểm xã hội 26 2.1.4. Phương thức thu bảo hiểm xã hội 27 2.1.5. Quỹ bảo hiểm xã hội và đầu tư, tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội 28 2.1.6. Trách nhiệm tổ chức thu bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội 32 2.1.7. Quy trình thu bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội Việt Nam 34 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về thu bảo hiểm xã hội của tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam 36 2.2.1. Những kết quả đạt được 36 2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại 43 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 55 3.1. Những yêu cầu đặt ra 55 3.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu bảo hiểm xã hội 57 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. ASXH: An sinh xã hội 2. BHXH: Bảo hiểm xã hội 3. BHYT: Bảo hiểm y tế 4. BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Ký hiệu STT Tên bảng bảng 1 Bảng 1.1 Tỷ lệ đóng BHXH ở một số địa phương của Trung Quốc Bảng số liệu về số người tham gia BHXH giai đoạn 1995- 2 Bảng 2.1 2013 Kết quả thu BHXH và tỷ lệ so với số chi các chế độ BHXH 3 Bảng 2.2 giai đoạn 1995-2013 4 Bảng 2.3 Tình hình hoạt động đầu tư quỹ BHXH giai đoạn 1997-2009 5 Bảng 2.4 Danh mục và vốn đầu tư quỹ BHXH năm 2011 Bảng số liệu về số vốn cho các ngân hàng thương mại nhà 6 Bảng 2.5 nước vay từ quỹ BHXH năm 2011
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu BHXH, BHYT là trụ cột quan trọng trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia, góp phần thực hiện công bằng, ổn định xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Đối với nước ta, ngay từ khi thành lập Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện các chế độ, chính sách ASXH đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế không ngừng phát triển đời sống nhân được cải thiện và nâng cao, tuy nhiên một bộ phận người lao động còn bấp bênh không đảm bảo do gặp phải những rủi ro như thiếu việc làm, ốm đau, tuổi già Để bù đắp một phần thiếu hụt đó, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách về chế độ BHXH, BHYT. Điều này đã được thể hiện ở trong các văn kiện Đại hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng và được cụ thể hóa thành các quy định pháp luật. Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng vượt bậc của ngành BHXH nên các chế độ BHXH được thực hiện ngày càng tốt hơn; công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi và niềm tin cho những người tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta và nhu cầu của người lao động, ngày 09/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP, Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006, đối tượng tham gia BHXH không còn tập trung vào các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước nữa mà được mở rộng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hưu hạn, hợp tác xã, hộ kinh doanh các thể, số người tham gia ngày càng tăng, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Song song với thu BHXH thì việc chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH ngày càng nhiều, do đó BHXH cần có một lượng tiền đủ lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế 1
  9. độ BHXH. Để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi quỹ BHXH là sự sống còn của hệ thống BHXH, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ. Trong đó nhiệm vụ thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng có thể coi đó là đầu vào của ngành BHXH. Có thể thấy, để chính sách BHXH phát triển bền vững, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế tài chính, bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH đã và đang trở nên hết sức cần thiết và cấp bách. Trong đó vấn đề trọng tâm là việc đánh giá thực trạng pháp luật về thu BHXH và tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thu BHXH của tổ chức BHXH. Với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu pháp luật về thu BHXH và tìm ra phương hướng hoàn thiện, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động thu bảo hiểm xã hội của tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam” cho Luận văn Cao học Luật. Việc nghiên cứu đề tài này có một ý nghĩa rất quan trọng, cần thiết đối với việc nâng cao hiệu quả thu BHXH nói riêng và đối với sự phát triển bền vững của chính sách ASXH nói chung. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 2.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về thu BHXH. Từ đó Luận văn tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mảng pháp luật này. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả không tham vọng nghiên cứu sâu và tìm hiểu chi tiết toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc hình thành và phát triển của pháp luật về thu BHXH, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cơ quan, ở từng thời kỳ mà sẽ tập trung nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật về thu BHXH và thực trạng pháp luật về thu BHXH kể từ khi tổ chức BHXH Việt Nam được thành lập năm 1995 đến nay. 2
  10. 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Nội dung pháp luật về BHXH nói chung là một đề tài phổ biến nhưng những nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật thu BHXH lại chưa có nhiều. Một số công trình khoa học nghiên cứu về thu BHXH có thể kể đến như: - Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu (Chủ nhiệm đề tài: Tiến sĩ Nguyễn Văn Châu, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, năm 1996, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ); - Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH (Chủ nhiệm đề tài: Tiến sỹ Dương Xuân Triệu, Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học BHXH Việt Nam, năm 1999, Đề tài khoa học); - Thực trạng thu nộp quỹ BHXH và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH Việt Nam hiện nay (Nông Hữu Tùng, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2000, Khóa luận tốt nghiệp); - Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam (Trần Quốc Túy, BHXH Việt Nam, năm 2000, Luận văn thạc sỹ); - Hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Gia Lai (Trần Ngọc Tuấn, Đại học Đà Nẵng, 2002, Luận văn thạc sỹ); - Công tác quản lý thu BHXH giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp (Lại Hữu Hiệp, Đại học Công đoàn, 2003, Chuyên đề tốt nghiệp); - Hoàn thiện công tác kiểm soát thu tại BHXH tỉnh Bình Định (Võ Năm, Đại học Đà Nẵng, 2013, Luận văn thạc sỹ). Nội dung chủ yếu của các công trình nghiên cứu khoa học kể trên hầu hết đề cập đến vấn đề thu BHXH trên phương diện kinh tế học. Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu hoạt động thu BHXH trên phương diện kinh tế, các công trình kể trên đều có đề cập phần nào và đưa ra một số đánh giá, nhận định về ưu, nhược điểm của các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thu BHXH. 4. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn Mục đích nghiên cứu của Luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận cũng như một số nội dung cơ bản của các quy định pháp luật về thu BHXH, 3
  11. thực trạng áp dụng pháp luật về thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam, trên cơ sở đó có những đánh giá và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện mảng pháp luật này. Để thực hiện mục đích trên Luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, tìm hiểu khái niệm về BHXH và thu BHXH; vai trò, ý nghĩa của thu BHXH; sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam bằng pháp luật. - Nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thu BHXH và nâng cao hiệu quả về thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềm năng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận văn cũng vận dụng cơ sở lý luận của triết học Mác-Lê Nin, thế giới quan duy vật biện chứng và các nguyên tắc, phương pháp của lý luận Nhà nước và pháp luật trong điều kiện mới. Theo đó, tác giả đặc biệt chú ý vận dụng phương pháp biện chứng và nhiều phương pháp nghiên cứu như liệt kê, phân tích, so sánh, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. 6. Những đóng góp của Luận văn - Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định pháp luật về thu BHXH; phân tích ưu, nhược điểm của một số quy định cụ thể. - Phân tích, đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong thực trạng áp dụng pháp luật về thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam. - Đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thu BHXH và nâng cao hiệu quả thu BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam. - Từ những nghiên cứu chung về BHXH trong nước, luận văn sẽ đưa ra một số vấn đề lý luận về pháp luật thu BHXH nói riêng và pháp luật về BHXH nói chung. 4
  12. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu bảo hiểm xã hội và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam 5
  13. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Lý luận chung về thu bảo hiểm xã hội 1.1.1. Khái niệm thu bảo hiểm xã hội Thu BHXH không ra đời cùng với khái niệm BHXH bởi hình thức sơ khai nhất của BHXH là những quỹ được hình thành do sự tự nguyện đóng góp của một cộng đồng người nhất định. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, BHXH ngày càng hướng tới nhiều đối tượng và các chế độ trợ cấp khác nhau. Bởi vậy, nguồn quỹ BHXH cũng đặt ra yêu cầu cần được bảo vệ và tăng trưởng tương xứng với mức độ chi. Dần dần quỹ BHXH được hình thành không phải từ sự tự nguyện của một nhóm nhỏ lẻ mà trở thành quy định bắt buộc đối với cộng đồng, sau đó là mỗi quốc gia và hiện nay nó được công nhận trên toàn thế giới. Cũng từ đó, thuật ngữ “thu BHXH” được xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Có thể nói, thu BHXH ra đời cũng là một tất yếu khách quan xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của BHXH như sau: Thứ nhất, BHXH phải thực hiện trên nguyên tắc có đóng, có hưởng, cộng đồng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm việc trả cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH; đồng thời có thêm trách nhiệm đóng góp của chủ sử dụng lao động và sự bảo hộ của Nhà nước. Thứ hai, mức hưởng BHXH phải căn cứ trên mức đóng góp, thời gian đóng góp, không được cao hơn mức lương tham gia BHXH và thấp nhất phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Việc quy định mức hưởng phải thấp hơn tiền lương là nguyên tắc bắt buộc của tất cả các nước, song thấp hơn bao nhiêu còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi nước ở các thời kỳ khác nhau. Nước ta quy định không được thấp hơn mức lương tối thiểu ở từng thời kỳ. Thứ ba, quỹ BHXH phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH của các nước bởi vì nếu không thực hiện nguyên tắc này, quỹ BHXH sẽ chỉ tồn tại trên danh nghĩa. 6
  14. Thứ tư, BHXH phải kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi một quốc gia. Về mặt ngôn ngữ, “thu BHXH” là động từ chỉ hành động thu thập tiền về cho quỹ BHXH. Về mặt kinh tế học, thu BHXH là một hoạt động hay một nghiệp vụ tài chính nhằm tạo nguồn cho quỹ BHXH. Hoạt động thu BHXH bao gồm nhiều hoạt động nhỏ, tuy nhiên có thể tóm gọn trong hai hoạt động chính sau: Một là, hoạt động về tổ chức và triển khai thực hiện nhiệm vụ thu tiền BHXH từ các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia BHXH bắt buộc và từ các đối tượng tự nguyện tham gia để tạo lập một quỹ BHXH tập trung, thống nhất và độc lập. Hai là, hoạt động quản lý và tăng trưởng quỹ BHXH để quỹ BHXH được bảo toàn và phát triển, vừa đủ khả năng chi trả các chế độ BHXH vừa có khả năng kết dư trong tương lai. Về mặt pháp lý, thu BHXH được hiểu là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động của sự nghiệp BHXH. Từ những khái niệm kể trên có thể rút ra: Về chủ thể của thu BHXH: Trong xã hội có giai cấp và nhà nước thì Nhà nước chính là chủ thể của thu BHXH mà cụ thể là các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao phó, thay mặt Nhà nước để thực hiện thu, chi BHXH. Về đối tượng của thu BHXH: Có nhiều quan điểm cho rằng đối tượng của BHXH là người lao động hay chính là đối tượng tham gia BHXH. Thực tế thì không phải như vậy, với quan điểm BHXH chính là sự bù đắp hoặc thay thế một phần hoặc toàn bộ thu nhập của người lao động thì đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động. BHXH không để “bảo hiểm” cho bản thân người lao động mà chính là “bảo hiểm” cho thu nhập của họ. Người lao động trong mối quan hệ này 7
  15. không phải là đối tượng được “bảo hiểm” mà chính là đối tượng được tác động hay nói cách khác là đối tượng được thụ hưởng BHXH. Đối tượng của thu BHXH cũng không phải là đối tượng tham gia BHXH mà đối tượng tham gia BHXH là những đơn vị, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH. Phần lớn các quốc gia đều quy định đối tượng đóng góp vào quỹ BHXH bao gồm ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. 1.1.2. Nguyên tắc thu bảo hiểm xã hội Thu BHXH là mắt xích quan trọng trong quá trình thực hiện chế độ, chính sách về BHXH vì vậy thu BHXH cần được tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định. Thứ nhất, thu BHXH là quy trình bắt buộc nhằm hình thành quỹ BHXH. Nếu như thời kỳ sơ khai của BHXH, nguồn hình thành quỹ BHXH chủ yếu từ sự tự nguyện đóng góp hoặc chủ yếu từ sự viện trợ của ngân sách nhà nước thì đến giai đoạn hiện nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thu BHXH đều đã trở thành một chế định pháp luật xuất phát từ nhu cầu hình thành quỹ BHXH độc lập, lớn mạnh, đủ khả năng chi trả khi phát sinh các chế độ BHXH. Thứ hai, thu BHXH phải có sự bình đẳng, công bằng trong nghĩa vụ đóng góp của những người cùng tham gia BHXH. Bởi vì nguyên tắc của BHXH là có sự chia sẻ giữa những người cùng tham gia, có sự phân phối lại thu nhập giữa những người cùng tham gia. Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong thu BHXH đối với những người cùng tham gia và cùng có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH thì cần phải xây dựng hệ thống pháp luật thu BHXH chặt chẽ, cụ thể. Tính bình đẳng phải thể hiện, tất cả cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH như nhau, không phân biệt tầng lớp, thu nhập, loại hình Thứ ba, phải có sự tính toán chặt chẽ các nguồn thu BHXH và tiến trình thu, chi từ quỹ BHXH để đảm bảo sự ổn định của quỹ BHXH. Ở các quốc gia trên thế giới, có hai cơ chế tài chính được áp dụng cho BHXH, đó là cơ chế tọa chi từ ngân sách nhà nước và cơ chế quỹ tài chính độc lập. Ở cả hai cơ chế, các nhà chức trách đều phải có sự tính toán cẩn thận nhu cầu thu, chi cũng như khả năng thu, chi từ quỹ BHXH, hai cơ chế khác nhau chủ yếu ở khoảng thời gian áp dụng sự tính toán đó. 8
  16. Thứ tư, cơ sở để thực hiện thu BHXH là quỹ tiền lương đối với người sử dụng lao động và tiền lương đối với người lao động. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc tính toán số tiền đóng góp vào quỹ BHXH từ phía người lao động và người sử dụng lao động đều dựa trên cơ sở đó. Với cách thức đó, mục tiêu chia sẻ thu nhập sẽ được đảm bảo vì tiền lương làm căn cứ tham gia BHXH đã thể hiện được tầng lớp của nhóm người tham gia. Thứ năm, thu BHXH phải được tổ chức thực hiện thuận lợi, dễ dàng để đảm bảo kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH. Thu BHXH là hoạt động liên quan trực tiếp đến người tham gia và thụ hưởng BHXH chính vì vậy việc tổ chức thực hiện thuận lợi, dễ dàng là một nguyên tắc cần thiết phải tuân thủ. Chính sách BHXH là trụ cột chính trong nền ASXH của mỗi quốc gia, thu BHXH nếu thuận lợi sẽ là nền tảng vững chắc để chế độ BHXH được thực hiện đầy đủ và hiệu quả. 1.1.3. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội Nguồn hình thành quỹ BHXH là các nguồn đóng góp để tạo dựng nên quỹ BHXH. Quỹ BHXH phần lớn được hình thành từ sự đóng góp của các bên là chủ sử dụng lao động, người lao động, nhà nước và một số nguồn khác. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên, sở dĩ như vậy bởi các lý do: - Người lao động đóng góp một phần vào quỹ BHXH biểu hiện sự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình mặt khác nó có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi của họ một cách chặt chẽ. - Người sử dụng lao động đóng góp một phần quỹ BHXH cho người lao động một mặt sẽ tránh được những thiệt hại to lớn như đình trệ sản xuất, đào tạo lại lao động khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mặt khác nó giảm bớt đi sự căng thẳng trong mối quan hệ vốn chứa đựng đầy những mâu thuẫn, tranh chấp giữa chủ và thợ. 9
  17. - Nhà nước tham gia đóng góp một phần vào quỹ BHXH trên cương vị của người quản lý xã hội về mọi mặt với mục đích phát triển kinh tế ổn định xã hội. Do mối quan hệ giữa chủ - thợ có chứa nhiều mâu thuẫn mà hai bên không thể tự giải quyết được. Nhà nước buộc phải tham gia nhằm điều hoà mọi mâu thuẫn của hai bên thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật. Không chỉ có như vậy nhà nước còn hỗ trợ thêm vào quỹ BHXH giúp cho hoạt động BHXH được ổn định. Phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện nay vẫn còn tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất là phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai là phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế để xác định mức đóng góp BHXH. Mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại do cả người lao động và người sử dụng lao động đóng góp mỗi bên một phần như nhau. Một số nước khác lại quy định, chính phủ bù thiếu, cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH 1.1.4. Vai trò của thu bảo hiểm xã hội Với các nước đã có nền kinh tế phát triển thì chính sách ASXH nói chung và chính sách về quản lý thu, chi BHXH nói riêng ra đời và luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường. Thu BHXH là bắt buộc và nó phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, một trong những nguyên tắc cơ bản mà mỗi quốc gia luôn phải tuân thủ là mọi người lao động có thu nhập đều bắt buộc phải tham gia BHXH; mức hưởng BHXH được tính toán dựa trên cơ sở của mức đóng BHXH sao cho quỹ BHXH phải đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH cho người lao động; đồng thời còn có phần quỹ "nhàn rỗi" để đầu tư tăng trưởng quỹ. Hoạt động thu là nguồn tạo quỹ BHXH và nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi nhà nước, thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, thu BHXH là một trong những nguồn quan trọng giúp cho ngân sách Nhà nước giảm chi đến mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về 10
  18. đời sống cho người lao động và gia đình họ được phát triển an toàn hơn. Khi người lao động hoặc người sử dụng lao động gặp tai nạn rủi ro sẽ làm quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, năng suất lao động giảm xuống (cung hàng hoá nhỏ hơn cầu) làm tăng giá cả thị trường và rất có thể dẫn đến tình trạng lạm phát, khi đó buộc Chính phủ phải can thiệp điều tiết giá cả để ổn định đời sống của người dân. Thứ hai, thu tạo quỹ BHXH góp phần giữ vững an ninh, chính trị trong nước ổn định trật tự an toàn cho xã hội; điều hoà, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ đồng thời tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, ổn định cho người lao động. Bởi khi mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động chưa được giải quyết sẽ có thể dẫn đến những cuộc đình công, thậm chí là gây ra những cuộc bãi công lan rộng trên cả nước của những người công nhân (người lao động) đến lúc đó sản phẩm lao động sẽ không được sản xuất ra, mà nhu cầu tiêu dùng của xã hội vẫn cứ tiếp tục tăng lên khi đó buộc Chính phủ phải nhập khẩu hàng hoá. Như vậy, Chính phủ sẽ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề như: giữ vững trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nhu cầu tối thiểu của người dân Thứ ba, thu BHXH có vai trò quan trong trọng việc tăng thu, giảm chi cho ngân sách Nhà nước: Một là, nguồn thu BHXH làm tăng thu cho ngân sách Nhà nước: BHXH đã làm giảm bớt mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ đồng thời gắn kết giữa người sử dụng lao động và người lao động, góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân nói riêng đồng thời góp phần làm tăng năng xuất lao động xã hội nói chung, từ đó sản phẩm xã hội tạo ra ngày một tăng lên có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Do vậy, ngân sách Nhà nước tăng lên do có một khoản thu được thông qua việc thu thuế từ các doanh nghiệp sản xuất nói trên. Hai là, khi người lao động tham gia BHXH mà không may gặp rủi ro bất ngờ hoặc khi thiên tai hạn hán, lũ lụt xảy ra làm giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập thì sẽ được bù đắp một phần thu nhập từ quỹ BHXH. Lúc này, nếu không có sự bù đắp của quỹ BHXH thì buộc Nhà nước cũng phải 11
  19. đứng ra để cứu trợ hoặc giúp đỡ cho người lao động để người lao động và gia đình họ vượt qua được khó khăn đó. Từ đó góp phần làm giảm chi cho ngân sách Nhà nước, đồng thời giảm bớt được các tệ nạn xã hội phát sinh, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Ba là, nguồn thu BHXH giúp cho Nhà nước thực hiện được các công trình xây dựng trọng điểm của quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế, xã hội quốc gia bởi BHXH tập trung được nguồn quỹ lớn. Nguồn quỹ này thường dùng để chi trả cho các sự kiện BHXH xảy ra về sau. Chính vì vậy mà quỹ này có một thời gian nhàn rỗi nhất định đặc biệt là quỹ dành cho chế độ dài hạn. Trong khoảng thời gian nhàn rỗi ấy quỹ BHXH tạo thành một nguồn vốn lớn đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Việc sử dụng nguồn quỹ BHXH nhàn rỗi vào hoạt động đầu tư vốn đã góp phần làm cho thị trường tài chính quốc gia thêm đa dạng và phong phú. Riêng đối với nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới cơ chế chính sách BHXH theo nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng BHXH lại càng trở lên cấp thiết đã làm nổi bật vai trò quan trọng của thu BHXH trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta có thể thấy được điều này qua thực tiễn: Thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa, còn thực chất thì không, mọi khoản kinh phí chi trả BHXH đều do ngân sách Nhà nước bao cấp, do vậy hiện tượng chậm lương hưu của đối tượng từ 2-3 tháng, thậm chí là lâu hơn vẫn thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng đến đời sống của đối tượng đã khó khăn này càng khó khăn hơn. Từ năm 1995, cơ chế, chính sách BHXH có sự thay đổi cơ bản, mà một trong những thay đổi ấy là người lao động chỉ được hưởng BHXH khi bản thân họ và đơn vị sử dụng họ phải đóng BHXH theo tỷ lệ do pháp luật quy định (người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng còn người sử dụng lao động đóng bằng 15% quỹ tiền lương) với quy định này từ năm 1995 đến năm 2003 quỹ BHXH đã có số thu trên 42.000 tỷ đồng để đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời cho đối tượng do quỹ 12
  20. BHXH đảm bảo. Đến hết năm 2003 quỹ BHXH vẫn còn số dư trên 34.000 tỷ đồng để đầu tư bảo toàn, tăng trưởng quỹ [24]. Việc hình thành quỹ BHXH trên thực tế và với số thu ngày càng tăng, đã góp phần giảm đáng kể "gánh nặng" cho ngân sách nhà nước trong việc bao cấp chi trả các chế độ BHXH, để có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội cần thiết khác. Ngoài ra, hiện nay Chính phủ đang đẩy mạnh quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, giao khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp thì hiện tượng người lao động dôi dư, bị mất việc làm là điều không tránh khỏi, thậm chí còn là một số lượng lớn. Trong điều kiện như vậy, nếu không có BHXH thì người lao động sẽ bị đẩy ra khỏi nơi làm việc mà không được đảm bảo về quyền lợi. Chỉ qua hai ví dụ trên chúng ta cũng đã làm rõ vai trò quan trọng của thu BHXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. 1.2. Pháp luật về thu bảo hiểm xã hội 1.2.1. Khái niệm pháp luật thu bảo hiểm xã hội Là một bộ phận cấu thành của pháp luật BHXH, pháp luật thu BHXH được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thu, nộp tiền BHXH và quản lý quỹ BHXH. Pháp luật thu BHXH quy định về đối tượng có trách nhiệm tham gia BHXH bắt buộc hoặc được quyền tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện (tùy theo pháp luật của từng quốc gia), quy định tỷ lệ đóng góp, căn cứ đóng góp BHXH, phương thức đóng BHXH, trách nhiệm tổ chức thực hiện thu BHXH cũng như quản lý quỹ BHXH. 1.2.2. Nội dung pháp luật về thu bảo hiểm xã hội Các quốc gia khác nhau thì việc quy định nội dung pháp luật thu BHXH cũng có sự khác nhau đáng kể, song nhìn chung thường quy định các nội dung cơ bản sau: Đối tượng tham gia BHXH: Đối tượng tham gia BHXH là đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH để hưởng các chế độ BHXH. 13
  21. Đối tượng tham gia BHXH cũng có thể không phải đóng góp vào quỹ BHXH những vẫn được hưởng BHXH do được tổ chức khác đóng BHXH hoàn toàn cho. Mức đóng BHXH: Mức đóng BHXH là tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của các đối tượng tham gia BHXH. Phần lớn các quốc gia quy định mức đóng BHXH đều dựa trên mức thu nhập hàng tháng của người lao động. Ở Việt Nam, mức đóng BHXH được tính trên cơ sở là tiền lương, tiền công hàng tháng và một số đối tượng thì căn cứ trên mức lương tối thiểu chung tại từng thời điểm. Phương thức đóng BHXH: Phương thức đóng BHXH là những quy định về việc đóng BHXH bằng tiền mặt hay chuyển khoản; đóng hàng tháng hay hàng quý; quy định về việc tạm dừng đóng BHXH Tổ chức BHXH: Tổ chức BHXH là cơ quan có trách nhiệm tổ chức, quản lý việc thu BHXH. Ở các quốc gia khác nhau, tổ chức BHXH có tên gọi và vị trí pháp lý khác nhau, có quốc gia đặt tổ chức BHXH là một bộ phận của Bộ Lao động, có quốc gia gọi tên là Văn phòng An sinh xã hội. Ở Việt Nam, tổ chức BHXH được gọi tên đầy đủ là BHXH Việt Nam với vị trí pháp lý là cơ quan thuộc Chính phủ. Quỹ BHXH: Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của đối tượng tham gia BHXH và chủ yếu được dùng để chi trả các chế độ BHXH. Ở phần lớn các quốc gia trên thế giới, quỹ BHXH thường độc lập với ngân sách Nhà nước nhưng đều được ngân sách Nhà nước bảo hộ, cũng có một số nhỏ quốc gia đặt quỹ BHXH là một mục trong ngân sách Nhà nước và hạch toán không độc lập với ngân sách Nhà nước. Đầu tư và tăng tưởng quỹ BHXH: Việc sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi của quỹ BHXH vào việc đầu tư bằng nhiều hình thức để phát triển quỹ thêm lớn mạnh cũng là một nội dung quy định về pháp luật thu BHXH. Pháp luật quy định cụ thể nguyên tắc, cách thức đầu tư, quy trình thủ tục của các biện pháp đầu tư để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả. Xử lý vi phạm về thu BHXH: Pháp luật quy định về các biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật về thu BHXH, các hình thức chủ yếu được áp dụng đó là phạt tiền, cũng có một số quốc gia áp dụng hình phạt tù (Thái Lan). Ở 14
  22. nước ta hiện nay mới chỉ quy định vi phạm về BHXH là vi phạm hành chính, chưa quy định về tội hình sự. 1.2.3. Ý nghĩa pháp luật thu bảo hiểm xã hội BHXH hay bất kỳ một ngành nghề, một lĩnh vực nào cũng cần có pháp luật điều chỉnh, cần được vận hành theo một khuôn mẫu, một chuẩn mực nhất định để đảm bảo tính công bằng và bền vững, để hạn chế những tác động tiêu cực hay những vi phạm có thể gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Hơn thế nữa, BHXH với vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách ASXH thì sự liên quan, ảnh hưởng và gắn bó với quyền lợi của nhân dân, ảnh hưởng đến chính sách của Đảng và Nhà nước càng mạnh mẽ và vì thế nó tiềm ẩn nhiều khả năng bị lạm dụng, tiêu cực và vi phạm. Chính vì vậy, BHXH nói chung cần được thể chế hóa và điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm pháp luật và hệ thống văn bản hướng dẫn để có thể thực hiện nghiêm túc và đạt được mục tiêu của chính sách ASXH mà Đảng và Nhà nước đã giao phó. Thu BHXH là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ quy trình thực hiện chế độ, chính sách về BHXH, đặc biệt quan trọng hơn nó còn là đầu vào trong hệ thống dây chuyền đó. Chính vì vậy thu BHXH không thể là hoạt động tự do của một nhóm cá nhân hay tổ chức nào đó mà nó cần thiết phải được điều chỉnh bằng pháp luật. BHXH là chính sách được áp dụng rộng rãi trong toàn xã hội, bởi vậy phải có sự thống nhất về mức thu, mức hưởng và các chế độ trợ cấp. Không ai có thể tự ý đặt ra hoặc thay đổi mức thu hay mức hưởng ấy. Và để thống nhất nó phải được hệ thống thành pháp luật. Việc điều chỉnh hoạt động thu BHXH bằng pháp luật sẽ tạo một cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ tổ chức thu BHXH cũng như tổ chức quản lý quỹ BHXH, tạo cơ sở cho việc kiểm soát, đánh giá và xử lý khi có vi phạm xảy ra. Đây đồng thời cũng là cơ sở cho việc đảm bảo hoạt động thu BHXH được thực hiện nghiêm chỉnh, nghiêm minh và đúng mục đích. 1.3. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của một số quốc gia trên thế giới 1.3.1. Pháp luật thu bảo hiểm xã hội của Trung Quốc Luật Lao động của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa có hiệu lực từ 01/01/1995 có một chương quy định về BHXH và phúc lợi xã hội. Theo đó, trách 15