Luận văn Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC

pdf 94 trang vuhoa 24/08/2022 8760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_mua_ban_no_cua_vamc.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THU CÚC PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THU CÚC PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN THỊ PHƯƠNG DIỆP TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  3. MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Câu hỏi nghiên cứu 2 3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 2 4. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4 4.1. Mục đích nghiên cứu 4 4.2. Đối tượng nghiên cứu 5 4.3. Phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn 6 7. Bố cục của luận văn 6 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về việc xác định nợ xấu của các NHTM 8 1.1.1. Khái niệm nợ xấu của NHTM 8 1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của NHTM 10 1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định nợ xấu đối với hoạt động của các NHTM 11 1.2. Khái quát chung về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương thức mua bán nợ 12 1.2.1. Khái niệm xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ 12 1.2.2. Đặc điểm của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ 13 1.2.3. Phân loại các phương thức mua bán nợ 15 1.2.3.1. Phân loại theo chủ thể của hoạt động mua bán nợ 15 1.2.3.2. Phân loại theo tính chất tự nguyện, thỏa thuận trong hoạt động mua bán nợ 16 1.2.3.3. Theo tính chất có truy đòi trong hoạt động mua bán nợ 16
  4. 1.2.4. Vai trò của hoạt động xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức mua bán nợ 17 1.2.4.1. Đối với các NHTM 17 1.2.4.2. Đối với con nợ 18 1.2.4.3. Đối với nhà nước 19 KẾT LUẬN CHƯƠNG I 24 CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC 25 2.1. Quy định của pháp luật về NHTM xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho VAMC 25 2.1.1. Quy định về Chủ thể tham gia hoạt động mua bán nợ xấu giữa VAMC và các NHTM 25 2.1.1.1. Về tư cách chủ thể của VAMC 25 2.1.1.2. Về tư cách chủ thể của NHTM 27 2.1.2. Các đặc điểm và quy định đối với hình thức bán nợ xấu của NHTM cho VAMC 28 2.1.2.1. Đặc điểm chung 28 2.1.2.1.1. Đối tượng mua bán nợ 28 2.1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của VAMC và NHTM 30 2.1.2.1.3. Biện pháp được áp dụng sau khi VAMC mua nợ 31 2.1.2.1.4. Hình thức mua bán nợ 35 2.1.2.2. Đặc điểm riêng của từng phương thức mua bán nợ 35 2.1.2.2.1. NHTM bán nợ xấu cho VAMC theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành 36 2.1.2.2.2. NHTM bán nợ xấu cho VAMC theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt 42 2.2. NHTM xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho các chủ thể kinh doanh hoạt động mua bán nợ khác 46 2.2.1. NHTM bán nợ xấu cho AMC của chính NHTM đó 47
  5. 2.2.2. NHTM bán nợ xấu cho NHTM hoặc AMC của NHTM khác 52 2.2.3. NHTM bán nợ cho các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ khác 56 KẾT LUẬN CHƯƠNG II 61 CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC 62 3.1. Kết quả xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ với VAMC 62 3.2. Những vướng mắc của quy định pháp luật và kiến nghị đối với pháp luật về xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ 63 3.2.1. Đối với việc mua bán nợ giữa NHTM với VAMC 63 3.2.1.1. Về trách nhiệm của VAMC trong việc mua, bán các khoản nợ xấu từ NHTM 63 3.2.1.2. Về sự cần thiết của việc VAMC mua nợ theo giá thị trường 64 3.2.1.3. Về các biện pháp hỗ trợ khách hàng vay của VAMC 69 3.2.1.4. Về các vướng mắc và kiến nghị liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động mua, bán nợ 72 3.2.2. Đối với việc mua bán nợ giữa NHTM với các chủ thể khác 75 3.2.2.1. Kiến nghị liên quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ theo quy định của Nghị định 69/2016/NĐ-CP 75 3.2.2.2. Kiến nghị liên quan đến đối tượng của hoạt động mua, bán nợ 76 KẾT LUẬN CHƯƠNG III 80 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TCTD : Tổ chức tín dụng VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam AMC : Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp BCBS : Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TTDS : Tố tụng dân sự BLDS : Bộ luật dân sự TSBĐ : Tài sản bảo đảm
  7. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cho đến cuối năm 2017, yêu cầu giải quyết ngay bài toán nợ xấu của các tổ chức tín dụng không còn cấp bách như giai đoạn từ 2010 – 2015. Tuy nhiên việc giải quyết nợ xấu vẫn luôn là một trong các nội dung ưu tiên hàng đầu trong chính sách kinh tế. Xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng (TCTD) không chỉ tạo điều kiện cho TCTD mở rộng tín dụng với lãi suất hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô mà còn cải thiện thanh khoản và nâng cao sự an toàn, lành mạnh, hiệu quả hoạt động của các TCTD, thị trường tiền tệ. Ngoài các biện pháp xử lý nợ xấu như: tăng cường trích lập dự phòng, cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), hoán đổi nợ thành vốn góp, thì hoạt động mua bán nợ cũng là một biện pháp xử lý nợ xấu đã được triển khai và dần đi vào quỹ đạo hoạt động. Trong hoạt động mua bán nợ, đặc biệt là “nợ xấu” thì việc mua bán nợ xấu giữa các TCTD với VAMC là kênh xử lý nợ được NHNN và các TCTD chú trọng quan tâm. Để triển khai thực hiện hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ, sau khi có Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”, hành lang pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của VAMC cũng như hoạt động mua bán nợ giữa các TCTD và VAMC được tích cực triển khai, ban hành. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan cũng được triển khai nhanh chóng nhằm phù hợp với tình hình thực tế cũng như tháo gỡ những bất cập được đúc rút sau quãng thời gian thực hiện. Cho đến nay, pháp luật về hoạt động mua mua bán nợ đã không chỉ hình thành được khung pháp lý chung mà các quy định đã cụ thể, chi tiết hơn về điều kiện, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Hệ thống các quy định hướng dẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, đồng bộ và còn
  8. 2 mâu thuẫn, điều này làm ảnh hưởng đến tính khả thi của một số quy định khi triển khai trên thực tế. Bên cạnh đó, với các cơ chế pháp luật hiện nay, bản thân tác giả còn đặt ra nhiều câu hỏi và ý kiến về tính hiệu quả, triệt để và thực chất trong việc xử lý nợ thông qua phương thức mua bán nợ giữa TCTD với VAMC. Như vậy, việc hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến mua bán nợ của các TCTD, đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán nợ và tính khả thi của các quy định so với điều kiện thực tế nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy định pháp luật về mua bán nợ là vấn đề cần thiết hiện nay, đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả xử lý nợ thông qua mua bán nợ với VAMC. Xuất phát từ tình hình thực tế của pháp luật hiện hành cũng như từ thực tiễn mà bản thân tác giả đúc rút được trong quá trình công tác tại TCTD, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của VAMC” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học - Chuyên ngành Luật Kinh tế với mong muốn không chỉ để hoàn thành chương trình học hiện tại mà còn hỗ trợ thêm cho công việc tại đơn vị đang công tác và đề xuất một vài giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong thời gian tới. 2. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn được thực hiện nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu: Phương thức mua, bán nợ có vị trí như thế nào trong việc xử lý nợ xấu của các NHTM? Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ với VAMC có đáp ứng nhu cầu xử lý nợ xấu của các NHTM hay không? Cần hoàn thiện những nội dung nào trong pháp luật về mua bán nợ với VAMC để góp phần thúc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu tại các NHTM? 3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM là một hoạt động đòi hỏi phải có sức bền và sự chia sẻ, hỗ trợ tích cực của nhiều chủ thể, trong đó vai trò của hành lang pháp lý được kiến tạo và hoàn thiện bởi các nhà hoạch định chính sách. Pháp luật luôn giữ vị trí cầm cương trong sứ mệnh giải tỏa “cục máu đông” đang tiềm ẩn nhiều nguy
  9. 3 cơ phá hủy sự an toàn của hệ thống tín dụng. Trước khi lựa chọn đề tài cũng như trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết vấn đề xử lý nợ xấu của các NHTM đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu luật học, có thể kể đến như một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Bài viết “Thị trường mua bán nợ - Góc nhìn từ lý thuyết cung cầu” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Thị Hương Thanh, đăng trên Tạp chí ngân hàng số 4 tháng 2/2014, đã có những đánh giá tổng quan về thị trường mua bán nợ, vai trò của thị trường mua bán nợ, thực trạng và hạn chế của thị trường mua bán nợ tại Việt Nam đồng thời bài viết đã đưa ra được các giải pháp nhằm phát triển thị trường mua bán nợ cho Việt Nam; Bài viết “Hoạt động mua bán nợ của VAMC thời gian qua – Thực trạng và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thu, Nguyễn Văn Thọ và Nguyễn Ngọc Linh, đăng trên Tạp chí ngân hàng số 18 tháng 9/2014, đánh giá thực trạng hoạt động mua bán nợ của VAMC, trong đó có nêu rõ những hạn chế về mặt hoạt động và cơ chế mua bán nợ của VAMC đồng thời đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế này. Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng”, của tác giả Nguyễn Thị Bích Mai, được hoàn thành năm 2010 tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu này đã đặt ra nhiều vấn đề đáng ghi nhận về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các NHTM. Sự trăn trở của tác giả đã phản ánh một cách rõ nét sự thiếu hụt của các quy định liên quan trong bối cảnh nền kinh tế đất nước vừa trải qua thời kỳ khủng hoảng tài chính, tiền tệ chưa lâu lại phải đối mặt với tình trạng nợ xấu tràn lan khắp các NHTM. Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về mua bán nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Tú, được hoàn thành năm 2013 tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài có phạm vi nghiên cứu về hoạt động mua bán nợ xấu nói chung tại các NHTM, chú trọng vào những vướng mắc và kiến nghị các phương án giải quyết các tranh chấp trong hoạt động mua bán nợ xấu. Xuất phát
  10. 4 từ thời điểm thực hiện nghiên cứu, đề tài đã chưa thể tiếp cận phương thức mua bán nợ xấu của NHTM thông qua VAMC. Luận văn Thạc sĩ luật học “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ, được hoàn thành năm 2014 tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình này nghiên cứu những vấn đề cơ bản của hoạt động mua bán nợ, tiếp cận hợp đồng mua bán nợ dưới hình thức mua đứt bán đoạn và chuyển nhượng một phần khoản nợ hình thức mua bán nợ theo cách phân loại mua bán nợ một phần hay mua bán toàn bộ khoản nợ, đề xuất hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ. Các công trình nghiên cứu vừa nêu đã trình bày một cách tổng thể bức tranh về thị trường mua bán nợ xấu của các NHTM dưới phương diện kinh tế và pháp lý. Chính vì vậy, các dữ liệu được ghi nhận trong các tài liệu này đã cung cấp nhiều luận điểm khoa học, bổ sung các thông tin cần thiết cho quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài Luận văn của tác giả. Bằng công trình nghiên cứu này, tác giả hi vọng rằng, hướng tiếp cận của đề tài mà tác giả thực hiện có thể bổ sung vào kho tàng các công trình nghiên cứu một cách nhìn mới, giải quyết tốt hơn những vướng mắc đặt ra trong quá trình thực thi các chính sách pháp lý về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương thức mua bán nợ. 4. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn trước hết là nhằm khái quát hóa những vấn đề lý luận cơ bản về xử lý nợ xấu thông qua phương thức mua bán nợ của các NHTM với VAMC. Đồng thời, công trình còn đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động này và việc áp dụng các quy định vào thực tiễn. Từ đó, luận văn làm sáng tỏ một số vướng mắc, bất cập về mặt pháp lý làm ảnh hưởng tới tính khả thi, hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện cơ chế và pháp luật tăng cường tính hiệu quả của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ.
  11. 5 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về bán nợ cho VAMC. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán nợ với VAMC. Luận văn không nghiên cứu về các phương thức xử lý nợ khác của NHTM như trích lập dự phòng, cơ cấu lại nợ, thu nợ và xử lý TSBĐ, hoán đổi nợ thành vốn ; khoản nợ được xử lý thông qua phương thức mua bán ở đây là “nợ xấu”; Chủ thể bán nợ các NHTM hoặc các AMC trực thuộc NHTM; Chủ thể mua nợ là các NHTM, các AMC trực thuộc NHTM hoặc VAMC. Về phạm vi không gian nghiên cứu : luận văn khảo sát thực tiễn, các tình huống, trường hợp được khảo sát là các tình huống, trường hợp đã xảy ra tại các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam mà không chỉ giới hạn tại một địa phương cụ thể. Về phạm vi thời gian: số liệu, vụ việc, thông tin thực tiễn phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn này được thu thập trong khoản thời gian từ sau khi có Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” cho đến thời điểm kết thúc việc nghiên cứu. Các kiến nghị được xây dựng với tầm nhìn cho đến năm 2030. 5. Phương pháp nghiên cứu Công trình nghiên cứu được tác giả kết hợp, vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích hiệu quả áp dụng pháp luật, v.v. Các phương pháp sẽ được vận dụng phù hợp với nội dung đặc thù của từng chương, cụ thể:
  12. 6 Chương I, Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp và phương pháp lịch sử nhằm hệ thống hóa vấn đề lý luận về nợ xấu của NHTM và xử lý nợ xấu bằng phương thức bán nợ cho VAMC. Chương II, Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa pháp luật, phân tích luật viết, so sánh pháp luật, đánh giá tác động pháp luật để làm rõ của các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức bán nợ cho VAMC. Chương III, Luận văn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn, khảo sát tài liệu thứ cấp, quan sát, để làm rõ thực tiễn xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức mua bán nợ, phát hiện các bất cập, hạn chế trong khung pháp lý về xử lý nợ xấu của NHTM bằng phương thức mua bán nợ. Cũng trong chương này, luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, khái quát hóa, để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả của việc xử lý nợ xấu tại các NHTM bằng phương thức bán nợ xấu cho VAMC. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn Thứ nhất, luận văn đã khái quát các vấn đề lý luận về hoạt động mua bán nợ của các NHTM, trong đó chú trọng làm sáng tỏ bản chất pháp lý hoạt động mua bán nợ giữa VAMC với các NHTM. Thứ hai, luận văn đã hệ thống hóa các quy định pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán nợ của NHTM, trong đó tập trung vào các phương thức mua bán nợ giữa VAMC với các NHTM. Thứ ba, luận văn đã phân tích, đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng các quy định hiện hành về hoạt động mua bán nợ giữa VAMC với các NHTM. Từ thực trạng triển khai và hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, luận văn đã có các kiến nghị chi tiết nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc của các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ hiện hành. 7. Bố cục của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
  13. 7 Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động mua bán nợ của VAMC. Chương II: Các quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành về hoạt động mua bán nợ của VAMC. Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về hoạt động mua bán nợ của VAMC.
  14. 8 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về việc xác định nợ xấu của các NHTM 1.1.1. Khái niệm nợ xấu của NHTM Nợ xấu là một thuật ngữ được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây trong quá trình cơ cấu lại hệ thống tín dụng. Trong tiếng Anh, có khá nhiều thuật ngữ, được sử dụng tương tự như khái niệm nợ xấu trong tiếng Việt, như “bad debt”, “non-performing loan”, “doubtful debt”1. Xét trong hoạt động nghiệp vụ của NHTM, nợ xấu thường được hiểu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ2. Quy chuẩn pháp lý của các quốc gia khác nhau sẽ dẫn tới sự khác nhau về cách thức phân loại nợ cũng như tiêu chuẩn xác định nợ xấu. Điều này được lý giải bởi sự không đồng nhất về trình độ phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ quốc gia và trình độ nhận thức của các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy, nợ xấu cũng như các hiện tượng kinh tế pháp lý khác, bao giờ cũng là một biểu hiện mang tính quốc nội. Tuy nhiên, đề cập như vậy không có nghĩa rằng khái niệm nợ xấu không mang lại giá trị tham khảo, hợp tác quốc tế trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý của các quốc gia trên thế giới. Bản chất của nợ xấu vẫn được khoanh vùng, định hình trong một khung tham chiếu nhất định, có thể đề cập tới một số khái niệm nợ xấu như sau: Trong Hướng dẫn để tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia (FSIs), Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa về nợ xấu tại Đoạn 4.84-4.85: “một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày 1 Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 5, xem tại ngày truy cập gần nhất: 02/04/2017. 2 Đỗ Phú Thọ (2014), Nợ xấu không quá xấu, Báo Quân đội Nhân Dân, xem tại te/cac-van-de/no-xau-khong-qua-xau-392960, ngày truy cập gần nhất: 12/04/2017.
  15. 9 hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn 90 ngày nhưng có thể nhận thấy các dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ. Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế”3. Như vậy, khi xem xét khái niệm nợ xấu được đề cập dưới quan điểm của IMF cần chú ý, nợ xấu khi đã được liệt vào “danh sách đen” của IMF sẽ không được ghi nhận là “nợ tốt” kể cả trong trường hợp đã được thay thế bằng một khoản nợ mới. Đối với Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS), tuy không đưa ra định nghĩa về nợ xấu, tuy nhiên, trong các hướng dẫn chung cho các quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS đã xác định việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi ví dụ như giải chấp chứng khoán đang nắm giữ; (ii) người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày4. Như vậy, khi đề cập đến khái niệm nợ xấu, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về mặt bản chất của khái niệm này bởi lẽ nợ xấu theo thông lệ quốc tế là một biểu hiện được xác định cả về mặt định lượng và yếu tố định tính. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc xem xét khả năng trả nợ của người vay, đặc biệt không chỉ giới hạn bởi sự đánh giá khả năng không thu hồi được nợ mà còn phải xét tới những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai trong quá trình nhận diện nợ xấu sẽ được chú trọng hơn cả. Định nghĩa về nợ xấu của pháp luật Việt Nam ở giai đoạn hiện tại tương đối gần với thông lệ quốc tế về mặt định lượng, còn yếu tố định tính mặc dù đã được vận dụng tích cực hơn giai 3 Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 6. 4 Đinh Thị Thanh Vân (2012), So sánh nợ xấu, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt Nam và thông lệ quốc tế, Tạp chí ngân hàng, số 10/2012, trang 5.
  16. 10 đoạn trước nhưng vẫn chưa triệt để, nên định nghĩa và thực tiễn xác định nợ xấu tại các NHTM, của Việt Nam vẫn còn khá xa lạ với thông lệ quốc tế5. 1.1.2. Đặc điểm nợ xấu của NHTM Việc phân loại nợ và xác định nợ xấu là một khâu rất quan trọng trong công cuộc xử lý nợ xấu của các NHTM, hoạt động này đòi hỏi tính thận trọng, khách quan và tầm nhìn của đội ngũ cán bộ tín dụng. Theo đó, việc nhận thức đúng đắn về các đặc trưng, bản chất của nợ xấu là một điều kiện tiên quyết đối với nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Thứ nhất, nợ xấu của NHTM phát sinh trong hoạt động cấp tín dụng và thường có giá trị rất lớn. Trong các hoạt động cấp tín dụng, NHTM là một định chế tài chính trao quyền sử dụng vốn cho một chủ thể khác trong nền kinh tế dưới hình thức hợp đồng, thỏa thuận cho vay để tạo ra lợi nhuận, đồng thời nhân danh chính mình gánh chịu các rủi ro phát sinh. Khác với các giao dịch dân sự thông thường, đặc biệt là những khoản cấp tín dụng bằng nghiệp vụ cho vay của các NHTM thường có giá trị rất lớn. Bởi lẽ, chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng là cho vay, ứng vốn cho các chủ thể của nền kinh tế, đặc biệt, đối với các dự án đầu tư lớn sẽ không thể triển khai nếu không có sự tham gia hỗ trợ của các ngân hàng. Thứ hai, nợ xấu của các NHTM là những khoản cho vay khó có khả năng thu hồi được vốn vay và lãi. Theo thông lệ quốc tế và quy định cụ thể trong pháp luật của các quốc gia, nợ xấu được nhận diện trên cả hai phương diện: định mức thời gian quá hạn của khoản nợ và dự báo về khả năng thu hồi nợ. Việc đặt để yếu tố nào quan trọng hơn tại mỗi quốc gia được cân nhắc dựa trên trình độ phát triển của thị trường tiền tệ cũng như truyền thống pháp luật của quốc gia đó. Tuy nhiên, dù được xem xét dưới góc độ nào, thì nợ xấu cũng được thống nhất nhận định 5 Xem Điều 10 Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
  17. 11 trên cơ sở khả năng trả nợ của chủ thể vay. Theo đó, nợ xấu là những khoản nợ đã quá hạn trong một khoảng thời gian xác định hoặc và có dấu hiệu chứng minh người vay không có khả năng hoàn trả nợ đầy đủ (ví dụ khi người vay phá sản, người vay đang trong tình trạng giảm sút về hiệu quả kinh doanh, thu nhập trả nợ). Nói cách khác, nợ xấu là những khoản nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc mất khả năng thu hồi. Thứ ba, nợ xấu của các NHTM được xác định theo tiêu chuẩn cụ thể và quy trình phức tạp. NHTM là chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ - một hoạt động kinh doanh đặc thù và được kiểm soát chặt chẽ nhất trong hệ thống ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Do đó, việc đánh giá và xác định nợ xấu phải dựa trên các quy định cụ thể của pháp luật, tuân thủ các chỉ tiêu về đảm bảo an toàn hoạt động. Trước khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các NHTM phải xây dựng quy chế nội bộ về phân loại nợ và tiêu chuẩn xác định nợ xấu cụ thể, cập nhật và tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật. 1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định nợ xấu đối với hoạt động của các NHTM Có thể nói, trong rủi ro của tín dụng ngân hàng sự hiện diện của nợ xấu là một vấn đề tất yếu mà các NHTM phải nghiêm túc đối mặt và có kế hoạch kiểm soát, xử lý hiệu quả. Việc phân loại nợ và xác định nợ xấu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự an toàn về mặt hoạt động của các NHTM. Xử lý nợ xấu hiệu quả mang lại rất nhiều cơ hội đầu tư, kinh doanh cho các NHTM, quá trình này đòi hỏi các ngân NHTM phải nghiêm túc và trung thực trong việc phân loại nợ, xác định nợ xấu, tiến hành trích lập dự phòng rủi ro và tích cực trong việc xử lý triệt để nợ xấu. Một trong những lý do làm gia tăng nợ xấu tại các NHTM xuất phát từ việc thiếu cẩn trọng trong việc thẩm định các khoản vay. Vì vậy, việc xác định nợ xấu còn giúp các NHTM sàng lọc các khoản cấp tín dụng, hạn chế sự gia tăng của nợ xấu cho hoạt động tín dụng trong tương lai.
  18. 12 Xác định nợ xấu và xử lý nợ xấu tạo ra động lực cho các NHTM tự mình nhìn nhận những khiếm khuyết trong bộ máy quản lý, cơ chế vận hành của hoạt động tín dụng ngân hàng. Từ đó, sự chủ động, quyết liệt trong việc xử lý các vi phạm về mặt nghiệp vụ cũng như thiết lập các quy định, quy trình nội bộ hoàn chỉnh và hiệu quả hơn trong cơ chế hoạt động sẽ được chú trọng; cải tổ khâu quản lý tín dụng cũng là một nhu cầu cấp thiết để đảm bảo an toàn hoạt động cho các NHTM. 1.2. Khái quát chung về hoạt động xử lý nợ xấu của các NHTM bằng phương thức mua bán nợ 1.2.1.Khái niệm xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ Lịch sử phát triển thị trường tài chính tiền tệ đã chứng kiến thời kỳ tỷ lệ nợ xấu của các quốc gia tăng cao với nhiều nguyên nhân khác nhau. Tham khảo tại một số quốc gia Châu Á, nhóm các nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, đã phải đối mặt với tỷ lệ xấu tăng cao sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Cuối năm 1997, tỷ lệ nợ xấu tại Thái Lan đạt mức cao kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng, tại Hàn Quốc tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là 7,4% và tăng lên 8,3% trong năm 19986, tại Đài Loan là 4,18% trong năm 1997 và lên tới 8,16% vào cuối năm 20017. Khác với các quốc gia Châu Á khác khi nợ xấu là kết quả của những vụ sụp đổ thị trường tài chính và bong bóng tài sản, thì nguyên nhân gây ra nợ xấu của Trung Quốc chính là cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi hoạt động của các NHTM Nhà nước chỉ như những cơ quan hành chính, có nhiệm 6 Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (2013), Giải quyết nợ xấu – vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tr. 6 và tr. 11. 7 Văn Thanh (2013), “Kinh nghiệm về xử lý nợ và tái cơ cấu các tổ chức tài chính của Đài Loan”, xem tại: r=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162511400&rightWidth=0%25¢erWidth=8 0%25&_afrLoop=1957856597646626#%40%3F_afrLoop%3D1957856597646626%26centerWidth%3D80 %2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162511400%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0% 2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dx6wb5ijpp_9, ngày truy cập gần nhất: 10/04/2017.
  19. 13 vụ cho vay theo chỉ định cho các công ty và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Những khoản vay này cũng không qua quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ nên rủi ro tín dụng là điều không tránh khỏi8. Để xử lý nợ xấu, các quốc gia kể trên đã đồng thời áp dụng nhiều biện pháp như: bơm vốn trực tiếp, tái cấu trúc tài chính, phát triển thị trường mua bán nợ qua việc thành lập các AMC, Trong đó, đối với việc hình thành các AMC, tùy thuộc vào nguyên nhân phát sinh nợ xấu và mục tiêu đặt ra khi giải quyết nợ xấu mà mỗi quốc gia có sự lựa chọn riêng cho cơ chế hoạt động của các AMC này, đó có thể là mô hình tập trung theo định hướng nhà nước, cũng có thể là mô hình phi tập trung (phân tán) định hướng thị trường có kết hợp với định hướng nhà nước. Chính sự ra đời của các AMC đã thúc đẩy thị trường mua bán nợ ngày càng phát triển. Về mặt khái niệm, có thể khái quát rằng mua bán nợ là hoạt động mua bán, theo đó, bên bán nợ chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán (gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt và các khoản phí liên quan đến khoản nợ đó) cho bên mua nợ và nhận khoản tiền thanh toán tương ứng giá trị mà hai bên đã thỏa thuận trong giao dịch mua bán này; bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán; bên bán nợ có nghĩa vụ chuyển giao các quyền của chủ nợ cho bên mua nợ để họ trở thành chủ sở hữu của khoản nợ đó9. Đây là hoạt động nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh tài chính, một loại giao dịch không mang tính “ngang giá” so với các giao dịch vốn trước đó của NHTM với khách hàng nhằm khơi thông dòng vốn và hạn chế đến mức thấp nhất các ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu đến hệ thống ngân hàng. 1.2.2.Đặc điểm của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ Mua, bán nợ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Muốn phát triển một nền kinh tế thị trường toàn diện thì phải tạo được các giao dịch nợ 8 Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương - tài liệu đã trích. 9 Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thị Thanh Hương (2014), “Thị trường mua bán nợ - Góc nhìn từ lý thuyết cung cầu”, Tạp chí Ngân hàng, số 4, tr.17 – 22.
  20. 14 một cách lành mạnh và thuận lợi10. Phương thức xử lý nợ xấu bằng hoạt động mua bán nợ có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, xử lý nợ xấu bằng phương thức mua bán nợ là một loại nghiệp vụ của NHTM và được xác lập dựa trên một giao dịch cấp tín dụng của NHTM đối với khách hàng. Đặc điểm này cho phép phân biệt với các giao dịch mang tính tài sản – tiền tệ khác trong giao lưu dân sự, một bên trong quan hệ mua bán nợ phải là NHTM. Đồng thời, quan hệ mua bán nợ giữa các bên không phải là giao dịch khởi điểm mà là giao dịch phái sinh trên cơ cở quan hệ cấp tín dụng đã tồn tại trước đó. Thứ hai, đối tượng của giao dịch mua, bán nợ là những khoản nợ mà khách hàng chưa thực hiện thanh toán cho NHTM theo hợp đồng tín dụng; đồng thời, những khoản nợ này phải có khả năng chuyển nhượng11. Tương tự như các giao dịch mua bán hàng hóa thông thường, đối tượng của quan hệ mua, bán nợ cũng phải có tính thanh khoản, bởi lẽ việc chuyển nhượng lại khoản nợ đã mua từ các NHTM là một nhu cầu tất yếu trong quá trình lưu thông của khoản nợ đã được đem ra trao đổi. Thứ ba, các giao dịch mua, bán nợ phải được xác lập dưới một hình thức pháp lý nhất định, có thể là hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ mua bán nợ. Theo đó, NHTM bán nợ phải chuyển giao toàn bộ quyền chủ nợ cho bên mua nợ. Đồng thời, hoạt động mua bán nợ phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chuyển quyền sở hữu như các giao dịch dân sự khác. Thứ tư, quan hệ mua bán nợ phải được thiết lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và công khai. Xét thấy, bản chất của hoạt động xử lý nợ xấu bằng phương thức mua, bán nợ của các NHTM là một loại giao dịch chuyển 10 Nguyễn Như Minh (2000), “Mua, bán nợ - một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Ngân hàng, số 3, tr.25 – 28. 11 Nguyễn Thị Bích Mai (2010), Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 9.