Luận văn Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_mua_ban_no_cua_cac_to_chuc_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRÀ ĐÌNH THỨ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRÀ ĐÌNH THỨ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG Hà Nội - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƢỜI CAM ĐOAN Trà Đình Thứ
- MỤC LỤC Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 7 1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 7 1.1.2. Khái niệm nợ xấu, mua, bán nợ xấu 9 1.1.3. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ 16 1.1.4. Về nguyên tắc thực hiện mua, bán nợ xấu của NHTM 17 1.1.5. Phân loại nợ của NHTM 19 1.2. Thực trạng nợ xấu 22 1.2.1. Nguyên nhân nợ xấu 26 1.2.2. Vai trò, mục đích của hoạt động mua, bán nợ của TCTD 28 1.3. Các hình thức mua, bán nợ 31 1.3.1. Khái niệm hợp đồng mua bán, nợ 31 1.3.2. Các hình thức mua, bán nợ 32 1.4. Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của TCTD 34 1.4.1. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của TCTD 34 1.4.2. Đặc điểm pháp luật mua bán nợ xấu của NHTM 35 1.4.3. Nội dung pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 36 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 38
- CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 39 2.1. Chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán, nợ của TCTD 39 2.1.1. Bên bán nợ là TCTD 39 2.1.2. Bên mua nợ 41 2.1.3. Vai trò của NHNN đối việc mua bán nợ 52 2.2. Về phƣơng thức mua, bán nợ 52 2.3. Đối tƣợng của hợp đồng mua, bán nợ 54 2.4. Hình thức của hợp đồng mua, bán nợ 62 2.5. Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ 63 2.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua, bán nợ 66 2.6.1. Quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ 66 2.6.2. Quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ 68 2.6.3. Quyền và nghĩa vụ của bên nợ và các bên thực hiện biện pháp bảo đảm cho khoản nợ 68 2.7. Quy trình xác lập và thực hiện hoạt động mua, bán nợ 69 2.8. Bên môi giới 71 2.9. Các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 75 CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHÁP LUẬT HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TCTD Ở VIỆT NAM 76 3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của TCTD ở Việt Nam 76 3.1.1. Căn cứ vào tình hình nợ xấu ngân hàng 77 3.1.2. Giải quyết bất cập của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD hiện nay 78 3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam 80
- 3.2.1. Về các chủ thể tham gia hoạt động mua, bán nợ 81 3.2.2. Đối với bên mua nợ 81 3.3.3. Về khoản nợ đƣợc mua, bán, khung giá khoản nợ 84 3.3.4. Về phƣơng thức mua, bán nợ 86 3.3.5. Về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua, bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam 87 3.3.6. Đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng 88 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 94 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT AMC : Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thƣơng mại (Asset Management Company). AEG : Nhóm chuyên gia tƣ vấn của Liên Hiệp quốc (Advisory Expert Group). BCBS : Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision). DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tổn đọng của doanh nghiệp (Debt and Asset Trading Corporation). KAMCO : Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (Korean Assent Management Corporation). NHNN : Ngân hàng Nhà nƣớc NHTM : Ngân hàng thƣơng mại TCTD : Tổ chức tín dụng VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam WTO : Tổ chức thƣơng mại thế giới (World Trade Organizatio
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Nợ xấu của c ác ngân hàng thƣơng mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012 23
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật về ngân hàng có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế và là bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trƣờng; hoạt động ngân hàng trong thời gian qua đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro trong tín dụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào và trong những năm gần đây thì hoạt động ngân hàng đã dần bộc lộ những hạn chế, yếu kém, dễ tổn thƣơng, đe dọa gây đổ vỡ cả hệ thống ngân hàng, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến cả nền kinh tế. Một vấn đề đang đƣợc giành nhiều sự quan tâm của xã hội đó là sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu ở các tổ chức tín dụng (TCTD); sự tồn đọng và phát triển của nợ xấu xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu nợ xấu cứ ngày một gia tăng sẽ có tác động tiêu cực không chỉ tới hệ thống các ngân hàng mà còn ảnh hƣởng xấu tới cả nền kinh tế. Để xử lý vấn đề này, Ngân hàng Nhà nƣớc (NHNN) đã đƣa ra rất nhiều phƣơng án xử lý nhƣ thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thƣơng mại (AMC), Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC); Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), ban hành bổ sung các văn bản pháp luật liên quan, chỉ đạo các TCTD chủ động triển khai các giải pháp để xử lý nợ xấu Đối với các TCTD cũng đã đƣa ra nhiều biện pháp khác nhau, mỗi giải pháp đƣợc lựa chọn phụ thuộc vào khách hàng đi vay, tùy thuộc tình hình của ngân hàng đồng thời phụ thuộc vào nền kinh tế. Qua đó, các ngân hàng cho vay có thể tiến hành cơ cấu lại khoản nợ nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn tạm thời; dùng các nguồn dự phòng rủi ro để xóa nợ cho khách hàng là đối tƣợng vay không còn tồn tại hoặc không thể thu hồi; xử lý tài sản bảo đảm; khởi kiện ra tòa Tuy nhiên, một giải pháp có thể mang lại hiệu quả, giúp thu hồi nhanh phần nào khoản nợ cho các TCTD đó là thực hiện bán quyền đòi nợ cho các nhà đầu tƣ và giải pháp này đang đƣợc xem là một tất yếu khi tình hình nợ xấu và nhu cầu cần xử lý nợ ngày càng gia tăng, ảnh hƣởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các TCTD. 1
- Trong những năm qua Chính phủ và NHNN đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD nhƣng việc thực hiện hoạt động này còn có nhiều điểm bất cập. Các văn bản pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định cần thiết, nhiều điểm chƣa hợp lý, không phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD là một yêu cầu cấp thiết. Giải quyết đƣợc vấn đề này sẽ giúp cho việc đẩy nhanh tiến độ giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng, làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi có sự nghiên cứu cụ thể và giải đáp thấu đáo cả từ phƣơng diện lý luận đến thực tiễn. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế đất nƣớc và hội nhập nền kinh tế quốc tế, nhất là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO thì vấn đề tiếp tục hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh và các quy định pháp lý là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đã giúp tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sỹ Luâṭ hoc̣ . Với đề tài này, tác giả mong muốn nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về mua, bán nợ để hiểu sâu hơn về thực trạng này và cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật hiện hành, lý giải những tồn tại, vƣớng mắc, chỉ rõ nguyên nhân và tìm ra những giải pháp đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đối tƣợng chủ yếu của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD là các khoản nợ xấu. Hoạt động mua, bán nợ là một trong những giải pháp quan trọng để xử lý nợ xấu. Hiện nay cũng đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về xử lý nợ xấu ngân hàng ở nhiều góc độ, nhiều đối tƣợng, khác nhau.Ví dụ, bài “Tình hình xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua – những tồn tại, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ nhằm ngăn ngừa và xử lý nợ tồn đọng” của 2
- Trần Minh Tuấn, Phó Thống đốc NHNN; “Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS. Lê Quốc Lý, Bộ Kế hoạch Đầu tƣ; “Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Phƣơng Lan, Phó Viện trƣởng Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng; “Thực trạng nợ xấu của các TCTD ở Việt Nam – Nguyên nhân và một số giải pháp từ chính sách pháp luật” của ThS. Nguyễn Thanh Tú và Nguyễn Thị Hồng Nhung; luận văn thạc sỹ nghiên cứu về chuyên đề nợ xấu, điển hình là luận văn thạc sỹ “Pháp luật về xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt Nam” của Phạm Kim Thoa – Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích về thực trạng nợ xấu và nêu lên những giải pháp để giải quyết tình trạng nợ xấu. Trong số các giải pháp đó, có giải pháp thực hiện hoạt động mua, bán nợ và tạo lập thị trƣờng mua, bán nợ tại Việt Nam. Việc xử lý nợ xấu của NHTM tại VAMC đang đƣợc tập trung nghiên cứu, tuy nhiên, chƣa có công trình nào nghiên cứu khía cạnh pháp lý quy định của “pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam” ở cấp độ lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu ở ngân hàng thƣơng mại. Vì vậy, với đề tài này phần nào đáp ứng đƣợc tính cấp thiết của việc nghiên cứu pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam trong tình hình hiện nay. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn với những đề xuất, kiến nghị của đề tài hy vọng đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Thông qua đề tài này, tác giả hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam trong tƣơng lai. 3. Mục tiêu nghiên cứu Với đề tài này và thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về vai trò, mục đích của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD trong nền kinh tế và thực trạng các quy định pháp luật của Việt Nam; đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về hoạt động mua bán nợ của TCTD trong ngân 3
- hàng thƣơng mại. Trong nội dung đề tài này, tác giả đƣa ra những nhận xét, đánh giá về xu hƣớng áp dụng pháp luật về hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam và qua đề tài này, tác giả muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ khái niệm về hoạt động mua, bán nợ của TCTD; vai trò, đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ đối với hoạt động tín dụng ngân hàng và nền kinh tế; - Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam; những kết quả đạt đƣợc và những bất cập trong việc xử lý nợ xấu các các ngân hàng thƣơng mại. - Từ thực trạng tình hình hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam và những kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ ở nƣớc ta. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam và việc thực thi các quy định này trên thực tế. Phạm vi nghiên cứu: Để đạt độ sâu trong việc đánh giá thực trạng pháp luật của lĩnh vực này, tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu hoạt động mua, bán nợ của loại hình TCTD là các ngân hàng thƣơng mại (NHTM). Ngoài ra, hoạt động mua, bán nợ của các TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài, sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và luận giải thực tiễn nhƣ phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp phân tích, so sánh và tổng hợp; các học thuyết kinh tế đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. 4
- Phƣơng pháp phân tích và so sánh đƣợc sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD theo pháp luật Việt Nam. Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để đánh giá khái quát, rút ra kết luận về từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu và đƣa ra những giải pháp, kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. 6. Những đóng góp của đề tài Những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam nhƣng chƣa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Luận văn “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam”, có những đóng góp sau đây: + Về tư liệu: Hệ thống hóa tƣ liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. + Về nội dung khoa học: Thứ nhất, hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống về cả lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Thứ hai, luận văn tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu nguyên nhân, thực trạng về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD và chỉ ra những bất cập trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Thứ ba, luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD trong thời gian tới và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xử lý tốt các vấn đề về nợ xấu trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc thiết kế gồm ba chƣơng nhƣ sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động mua, bán nợ và pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của các TCTD. 5
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. Chương 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện và một số kiến nghị về pháp luật hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam. 6
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động mua, bán nợ của các TCTD Trong những năm gần đây, các chủ thể tham gia thị trƣờng tài chính quốc tế đang sử dụng rộng rãi một nghiệp vụ mới là mua, bán nợ. Nghiệp vụ này có tác dụng chính là làm tăng tính thanh khoản và tính hiệu quả trong việc đầu tƣ vốn trên thị trƣờng của các nhà đầu tƣ. Ngoài ra, nghiệp vụ mua, bán nợ còn đƣợc xem là công cụ để Nhà nƣớc tiến hành điều tiết, kiểm soát các hoạt động tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế nhằm hƣớng tới một nền kinh tế thịnh vƣợng và phát triển ổn định. Sự tồn tại của hoạt động mua, bán nợ trong điều kiện hiện nay chính là nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, xử lý những thua lỗ, yếu kém một cách tích cực bằng cách dịch chuyển nhanh chóng vốn đầu tƣ vào lĩnh vực vừa an toàn, vừa có lợi nhuận. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của các hoạt động kinh tế, việc mua, bán nợ nói chung và nghiệp vụ mua, bán các khoản nợ thƣơng mại nói riêng cũng ngày càng gia tăng ở nhiều nƣớc trên thế giới, với sự tham gia của các định chế trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng. Nghiệp vụ này không chỉ có sự tham gia tích cực của các định chế tài chính trung gian mà trên thực tế, chính quyền cũng tỏ ra rất quan tâm đến hoạt động này, đặc biệt là các cơ quan có chức năng quản lý tài chính và tiền tệ của đất nƣớc nhƣ Bộ Tài Chính và ngân hàng Trung ƣơng. Ban đầu, hoạt động mua bán nợ xuất hiện nhƣ là sự cần thiết phải giải quyết các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn nhằm xử ký hậu quả kinh doanh yếu kém và từng bƣớc lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Tuy nhiên, cùng với thời gian, do nhu cầu luân chuyển vốn trong nền kinh tế, dần dần những khoản nợ nhƣ tài sản có của các doanh nghiệp và ngân hàng đƣợc đem ra bán trở thành rộng rãi hơn trên thị trƣờng, trong đó bao gồm các khoản nợ có mức độ rủi ro cao và thậm chí là cả những khoản nợ lành mạnh. 7
- Thực tiễn mua, bán nợ trên thế giới cho thấy rằng các khoản nợ đƣợc giao dịch trên thị trƣờng rất đa dạng, bao gồm các khoản nợ của Chính phủ dƣới dạng trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nƣớc; các khoản nợ của doanh nghiệp và cá nhân phát sinh trong đời sống dân sự và thƣơng mại; những khoản nợ của các định chế tài chính trung gian; những khoản nợ bằng ngoại tệ có liên quan đến chủ nợ là các tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài nhƣ nợ Tổ chức quốc tế, nợ Chính phủ nƣớc ngoài và nợ các tổ chức kinh tế, cá nhân nƣớc ngoài. Có thể nhận thấy rằng sự gia tăng hoạt động mua, bán nợ trên thị trƣờng tài chính lâu nay là do sự gặp gỡ tự nhiên của nguồn cung các khoản nợ cần bán từ phía các doanh nghiệp và nhu cầu mua nợ nhƣ là một cơ hội kinh doanh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính chuyên nghiệp nhƣ các ngân hàng. Mặt khác, kinh nghiệm điều hành nền kinh tế thị trƣờng đã làm thay đổi cách nhìn nhận của Chính phủ đối với việc xử lý các khoản nợ có vấn đề theo xu hƣớng nới rộng khả năng linh hoạt trong hoạt động đầu tƣ của các doanh nghiệp và những định chế tài chính [35]. Ngày nay, việc mua, bán nợ càng lúc càng thay đổi tuỳ theo nhu cầu phát triển của thị trƣờng và có thể chứa đựng những tính chất khác hẳn so với các giao dịch ban đầu của thị trƣờng mua, bán nợ. Hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro khi ngân hàng không thể thu hồi đƣợc toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi khi khoản vay đến hạn và khi ngân hàng không thu hồi đƣợc nợ gốc và lãi thì ngƣời ta gọi là nợ xấu. Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển thuộc Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006, nêu “Nợ” đƣợc hiểu là “cái vay phải trả mà chưa trả”, với khái niệm này thì nợ chỉ giới hạn trong phạm vi các quan hệ vay tài sản. Nợ đƣợc hiểu là khoản phải trả thì khoản phải trả đó là nghĩa vụ pháp lý. Theo quy định tại Điều 280 Bộ Luật Dân sự 2005 thì nghĩa vụ dân sự: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi là bên có quyền)” với cách hiểu nghĩa vụ là xử sự mà một ngƣời phải thực hiện (buộc phải làm hoặc không phải làm) đối với ngƣời 8
- khác. Ở đây nghĩa vụ dân sự là quan hệ tài sản, việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể luôn liên quan nghĩa vụ với một lợi ích vật chất cụ thể và có thể là sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (nhƣ quan hệ vay tài sản, mua bán tài sản, mƣợn tài sản, thuê tài sản, ) 1.1.2. Khái niệm nợ xấu, mua, bán nợ xấu Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu: Theo nhóm chuyên gia tƣ vấn Advisory Expert Group (AEG) của Liên hiệp quốc cho rằng định nghĩa về nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên sử dụng nhƣ hƣớng dẫn cho các ngân hàng. AEG thống nhất định nghĩa nhƣ sau: “Một khoản nợ đƣợc coi là nợ xấu quá hạn trả lãi và /hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chƣa trả từ 90 ngày trở lên đã đƣợc nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản vay phải thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhƣng chƣa có lý do chắc chắc để nghi ngờ về khả năng thanh toán vay sẽ đƣợc thanh toán đầy đủ” Nói cách khác, nợ xấu đƣợc khẳng định trên 02 yếu tố quá hạn 90 ngày; khả năng trả nợ bị nghi nghờ.[49] - Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS): Ủy ban này không đƣa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các hƣớng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra: ngân hàng thấy ngƣời vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chƣa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi; ngƣời vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày. Dựa trên hƣớng dẫn này nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 và có dấu hiệu ngƣời đi vay không trả đƣợc nợ. BCBS cũng đề cập tới các khoản vay bị giảm giá trị sẽ xảy ra khi thu hồi các khoản thanh toán từ khoản vay là không thể. Giá trị tổn thất sẽ đƣợc ghi nhận bằng cách giảm trừ giá trị khoản vay thông qua một khoản dự phòng và sẽ đƣợc phản ánh trên báo cáo thu nhập của ngân hàng. Nhƣ vậy lãi suất của các khoản vay này sẽ không đƣợc cộng dồn và sẽ chỉ xuất hiện dƣới dạng tiền mặt thực tế nhận đƣợc.Còn chuẩn mực Kế toán quốc tế (IAS) về ngân hàng thƣờng đề cập các khoản 9
- nợ bị giảm giá trị (Impaired) thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu (nonperforming). Chuẩn mực kế toán IAS 39 đƣợc khuyến cáo áp dụng ở một số nƣớc phát triển vào đầu năm 2005 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản vay có dấu hiệu bị giảm giá trị. Trong trƣờng hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản đƣợc ghi nhận sẽ bị giảm xuống những tổn thất do chất lƣợng nợ xấu gây ra. Về cơ bản IAS39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chƣa tới 90 ngày hoặc chƣa quá hạn. Phƣơng pháp đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thƣờng là phân tích dòng tiền tƣơng lai chiết khấu hoặc xếp hạng khoản vay của khách hàng. Hệ thống này đƣợc coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhƣng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó vẫn đƣợc Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế chỉnh sửa lại trong IFRS 9. - Theo Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF): Trong hƣớng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia (IFRS)2, IMF đƣa ra định nghĩa về nợ xấu nhƣ sau: “Một khoản vay đƣợc coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã đƣợc vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoản theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn 90 ngày nhƣng có thể nhận thấy rõ ràng ngƣời đi vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (ngƣời vay phá sản). Sau khi khoản vay đƣợc xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên đƣợc xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm xóa nợ hoặc thu hồi đƣợc lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi đƣợc khoản vay thay thế” Từ những định nghĩa trên có thấy đƣợc sự tƣơng đồng trong cách nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản nợ đƣợc coi là nợ xấu khi xuất hiện 1 hoặc cả 2 dấu hiệu sau: Quá hạn trả nợ gốc và lãi; khi khách hàng vay vốn bị TCTD hoặc ngân hàng coi là không có khả năng trả nợ. [49] Ở Việt Nam, khái niệm nợ xấu đƣợc đề cập đến kể từ khi Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN (sau đây gọi tắt là Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN), Quyết định số 18/2007/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về việc phân loại nợ 10
- phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Về khái niệm nợ xấu đƣợc định nghĩa tại Điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN, Khoản 3 Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN, Khoản 8 Điều 3 và Điều 10 Thông tƣ 02/20013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phƣơng pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, Theo đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các “nhóm nợ dƣới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi nghờ (nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) ” Theo quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ- NHNN sửa đổi bổ sung một số điều tại Quyết định 493/2005/QQĐ-NHNN và Thông tƣ 02/2013/TT-NHNN thì nợ xấu ngân hàng thƣơng mại đƣợc phân loại theo phƣơng pháp định tính và theo phƣơng pháp định lƣợng.Tại Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN cho phép các TCTD có đủ khả năng và điều kiện đƣợc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phƣơng pháp định tính. Theo phƣơng pháp này, nợ cũng đƣợc phân thành 5 nhóm giống nhƣ cách phân loại nợ ở Điều 6 nhƣng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chƣa thanh toán mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD đƣợc NHNN chấp thuận. Nhƣ vậy, có thể hiểu, tại Việt Nam nợ ngân hàng bao gồm các khoản cho vay ứng trƣớc, thấu chi và cho thuê tài chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thƣơng phiếu và giấy tờ có giá khác; các khoản bao thanh toán; các hình thức tín dụng khác. Trong đó nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 bao gồm nợ dƣới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn quy định tại Điều 6, Điều 7 của Quyết định 493/2005 và Quyết định 18/2007 và Thông tƣ 02/2013/TT-NHNN. Các đạo luật liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân hàng chƣa có một định nghĩa chính thức nào về hoạt động mua, bán nợ. Song, thuật ngữ mua, bán nợ cũng đã đƣợc đề cập nhƣ một định nghĩa chính thức tại Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN, ngày 19/4/1999 của Thống đốc 11
- NHNN theo đó “mua, bán nợ là hoạt động mua, bán theo đó bên bán chuyển giao khoản nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt) cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ theo thoả thuận của hai bên” và đƣợc quy định tại Khoản 1,2 Điều 3 Quyết định 59/2006/QĐ – NHNN, ngày 21/12/2006 của Thống đốc NHNN Ban hành quy chế mua, bán nợ của các TCTD sửa đổi bổ sung nhƣ sau: “Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ” “Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ được TCTD thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD, TCTD nước ngoài cho khách hàng vay (kể cả khoản trả thay trong bảo lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi ngoại bảng”. Theo thông tƣ 02/2013/TT-NHNN, nợ xấu là những khoản nợ đƣợc phân loại vào nhóm 3 (nợ dƣới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy, có nhiều khái niệm khác nhau nhƣng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng đƣợc xác định dựa trên hai yếu tố: (i) Các khoản dƣ nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả nợ của khách hàng đƣợc xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ đƣợc thanh toán đầy đủ. Mua, bán nợ có nhiều cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng nếu nợ là nghĩa vụ pháp lý thì có thể đem bán đƣợc không và có ai dám mua không? Nhƣng theo tác giả thì đối với hoạt động ngân hàng thì mua bán nợ là mua bán khoản cho vay của ngân hàng cho các TCTD khác; và việc mua, bán nhƣ vậy đƣợc thực hiện dựa trên quyền thu nợ của chủ nợ, chứ không phải nghĩa vụ trả nợ của con nợ. Dƣới góc độ kinh tế, có quan điểm cho rằng hoạt động mua, bán nợ là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất hoạt động tín dụng của TCTD thì đây là quan hệ chuyển giao vốn giữa TCTD với các tổ chức, cá nhân (khách hàng) theo nguyên tắc hoàn trả và dựa trên cơ sở tín nhiệm. Trong hoạt động nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thƣơng mại, cho vay là 12
- hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.Nhƣ vậy, cho vay khác với hình thức cấp tín dụng khác của TCTD: Chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong nghiệp vụ cho vay, TCTD giao một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định cho bên đi vay để dung vào mục đích nhất định và phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối với hình thức cho vay thì khoản tiền vay đƣợc chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. Chủ thể tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng vay). Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa TCTD và khách hàng là hợp đồng tín dụng ngân hàng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cho vay thông thƣờng là các TCTD đƣợc thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật các TCTD. Trong hợp đồng tín dụng phải đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật nhƣ khách hàng vay vốn của TCTD phải sử dụng vốn vay đúng mục đích nhƣ đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phải hoàn trả cả gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Còn bên đi vay có thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam hoặc cá nhân, pháp nhân nƣớc ngoài (sau đây gọi chung là khách hàng vay) có quan hệ tín dụng với TCTD cũng phải thoả mãn điều kiện nhất định của TCTD nhƣ phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; có dự án đầu tƣ, phƣơng án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi và có hiệu quả, nhƣ vậy có thể thấy: - Tín dụng bao giờ cũng phát sinh trên cơ sở tín nhiệm. - Bên chuyển giao vốn chuyển giao cho bên khác sử dụng trong một khoản thời gian nhất định. - Khi hết thời hạn sử dụng vốn, bên nhận chuyển giao vốn phải hoàn trả vốn đã vay cho bên chuyển giao. Sự hoàn trả này thƣờng có giá trị lớn hơn so với giá trị 13