Luận văn Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam

pdf 92 trang vuhoa 25/08/2022 10980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_mo_va_su_dung_tai_khoan_than.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIỆT NGA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIỆT NGA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH 7 TOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận về tài khoản thanh toán 7 1.1.1. Lược sử hình thành tài khoản thanh toán 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài khoản thanh toán 11 1.1.2.1. Khái niệm 11 1.1.2.2. Đặc điểm của tài khoản thanh toán 15 1.1.3. Vai trò của tài khoản thanh toán trong nền kinh tế 16 1.1.3.1. Đối với khách hàng 18 1.1.3.2. Đối với ngân hàng 18 1.1.3.3. Đối với nền kinh tế 19 1.1.4. Phân loại tài khoản thanh toán 19 1.1.5. Bản chất pháp lý của tài khoản thanh toán 22 1.2. Pháp luật về tài khoản thanh toán 24 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tài khoản thanh toán 25 1.2.2. Nội dung của pháp luật về tài khoản thanh toán 25 1.2.3. Khái quát tình hình pháp luật về mở và sử dụng tài khoản 26 thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 4
  4. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỞ VÀ SỬ DỤNG 29 TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Quy định về chủ thể quản lý, mở và sử dụng tài khoản 29 thanh toán 2.1.1. Chủ thể cung ứng tài khoản thanh toán 29 2.1.2. Chủ thể mở tài khoản thanh toán 30 2.2. Quy định về hình thức, điều kiện và thủ tục mở tài khoản 34 thanh toán 2.2.1. Hình thức mở tài khoản thanh toán 34 2.2.2. Điều kiện và thủ tục mở tài khoản 37 2.2.2.1. Đối với tổ chức 37 2.2.2.2. Đối với cá nhân 41 2.2.2.3. Đối với đồng chủ tài khoản 45 2.3. Quy định về sử dụng tài khoản thanh toán 47 2.3.1. Nội dung sử dụng tài khoản 47 2.3.2. Phương thức sử dụng tài khoản thanh toán 53 2.3.3. Sử dụng tài khoản bằng ngoại tệ 55 2.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên 57 2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ tài khoản 57 2.4.1.1. Sử dụng tài khoản thanh toán 57 2.4.1.2. Phong tỏa tài khoản thanh toán 60 2.4.1.3. Đóng tài khoản thanh toán 61 2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng 61 2.4.2.1. Quản lý tài khoản thanh toán của khách hàng 61 5
  5. 2.4.2.2. Phong tỏa tài khoản thanh toán 63 2.4.2.3. Đóng tài khoản thanh toán 64 2.5. Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động 67 mở và sử dụng tài khoản thanh toán 2.6. Quy định thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động quản lý và 68 sử dụng tài khoản thanh toán Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỞ 72 VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về mở và sử dụng tài 72 khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở việt nam 3.2. Một số kiến nghị 74 3.2.1. Nhóm kiến nghị về đảm bảo an toàn cho hoạt động nghiệp vụ 74 3.2.2. Nhóm kiến nghị về bảo vệ quyền, lợi ích của chủ sở hữu tài 78 khoản thanh toán 3.2.3. Nhóm kiến nghị về đơn giản hóa thủ tục mở và sử dụng tài 90 khoản thanh toán 3.2.4. Kiến nghị về bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba 81 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 6
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hòa chung với xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi đây là con đường tất yếu để các nước đang phát triển có thể thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng các chính sách để hiện đại hóa lĩnh vực thanh toán nhằm thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, minh bạch hóa nền kinh tế, góp phần tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Việt Nam, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay việc sử dụng tiền mặt để thanh toán trong nền kinh tế là khá phổ biến, gây tốn kém trong việc in ấn, vận chuyển và sử dụng tiền; đồng thời hạn chế về hiệu quả sử dụng vốn cũng như khó kiểm soát những giao dịch tiền mặt không hợp pháp, khó kiểm soát thuế của các tổ chức, cá nhân. Thêm vào đó, hệ thống ngân hàng không tận dụng được nguồn vốn lớn tiềm tàng, nhàn rỗi trong dân, không giải quyết được bài toán hóc búa về huy động vốn, tăng đầu tư vốn vào nền kinh tế quốc dân. Để giải quyết bài toán này, Quyết định số 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành thể lệ thanh toán qua Ngân hàng và Thông tư số 110/1991/TT-NHNN ngày 20/8/1991 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện thể lệ thanh toán qua Ngân hàng ra đời đã đánh dấu một bước tiến mới đưa tài khoản thanh toán thành một phần trong cơ cấu thanh toán của nền kinh tế. Tuy nhiên, với thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt của người dân, việc thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và việc sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán nói riêng vẫn còn xa lạ với đa số người dân. 7
  7. Để đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, năm 2007 Chính phủ đã có chỉ thị yêu cầu trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Năm 2008, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 129/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng quy định rõ tại Khoản 1.3 Mục III Phần B: "Hàng hoá, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn trên hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế giá trị gia tăng nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ" [12]. Đó là những bước đi quan trọng đưa hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán từng bước trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của mọi tổ chức, cá nhân tại Việt Nam. Cung ứng dịch vụ này cũng là một trong những nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại. Ngày 16/6/2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã được Quốc hội khóa X2, kỳ họp thứ 7 thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2011. Luật đã có những thay đổi cơ bản về khái niệm "Tài khoản thanh toán". Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn Luật về vấn đề này, do đó việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán vẫn đang được thực hiện theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành "Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng" (sau đây gọi tắt là Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN) và các quy định có liên quan tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, các hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước về cung ứng dịch vụ thanh toán Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quy định này còn chưa cụ thể, chưa đáp ứng và dự liệu được các giao dịch ngày càng phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro trong hoạt động sử dụng tài khoản thanh toán; ngoài ra, còn có một số nội dung chưa phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (như về khái niệm tài khoản thanh toán, kỳ hạn số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán) hoặc việc áp dụng trên thực tế còn gặp vướng mắc và không 8
  8. thống nhất, gây lúng túng cho các bên tham gia giao dịch cũng như đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ - thông tin, các giao dịch điện tử, các giao dịch thông trên ATM, internet banking, mobile banking ngày càng phổ biến và được người sử dụng dịch vụ ưa chuộng vì những tiện ích ưu việt của nó. Tuy nhiên các rủi ro tiền ẩn được được dự liệu và điều chỉnh trong các quy định pháp luật đã dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện. Từ những thực tế phát sinh trong hoạt động mở và thanh toán qua ngân hàng trong thời gian qua, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sau khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004 được ban hành đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng, nhưng các công trình này chỉ nghiên cứu về hoạt động này dưới góc độ kinh tế như Khóa luận tốt nghiệp "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tài khoản tiền gửi thanh toán" của Vũ Thị Hợp (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004); "Chế độ mở và sử dụng tài khoản thanh toán ở các ngân hàng thương mại - một vài ý kiến đề xuất" của Trần Thảo Nguyên (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007); Tuy nhiên, sau khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 ra đời cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về pháp luật điều chỉnh hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam" vẫn mang tính cấp thiết cần phải nghiên cứu và làm sáng rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 9
  9. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động thanh toán qua Ngân hàng. 3.2. Mục tiêu cụ thể Từ mục tiêu tổng quát nêu trên đó, mục tiêu cụ thể được xác định là: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại như khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý của tài khoản thanh toán; khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tài khoản thanh toán, nội dung của pháp luật về tài khoản thanh toán. - Phân tích thực trạng pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, từ đó phát hiện những bất cập, tồn tại về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng tài khoản thanh toán. - Trên cơ sở những bất cập, học viên đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đề tài được nghiên cứu khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có hiệu lực thi hành được một thời gian nhưng cho đến nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn về vấn đề nghiên cứu cũng như chưa có những sửa đổi, bổ sung tương ứng đối với các văn bản quy phạm hiện hành về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán. Theo Quyết định số 2367/QĐ-NHNN ngày 07/10/2010 của Ngân hàng Nhà nước về việc phê duyệt Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng (Sau đây 10
  10. gọi tắt là Quyết định số 2367/QĐ-NHNN), trong quý IV/2011 Ngân hàng Nhà nước sẽ chủ trì soạn thảo thông tư của Ngân hàng Nhà nước quy định về mở, sử dụng tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại để thay thế Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại văn bản thay thế vẫn chưa được ban hành. Vì vậy, với đề tài này, học viên tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành về tài khoản thanh toán, đồng thời phân tích thực hiện hoạt động thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng thương mại nhằm tìm ra những điểm bất cập, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, bao gồm tài khoản tiền Việt Nam đồng, tài khoản ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân người cư trú và người không cư trú. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được thực hiện từ khi Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán ra đời đến nay (sau đây gọi tắt là Nghị định số 64/2001/NĐ-CP). Trong đối tượng và phạm vi nghiên cứu, học viên tập trung nghiên cứu thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán và không đề cập sâu đến nghiệp vụ dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại như thanh toán thẻ, séc, thư tín dụng cũng như những nghiệp vụ kế toán ngân hàng đối với các dịch vụ thanh toán đó. 6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, học viên tập trung nghiên cứu những nội dung dưới đây: 11
  11. - Một số vấn đề lý luận và pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại như khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý của tài khoản thanh toán; khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tài khoản thanh toán, nội dung của pháp luật về tài khoản thanh toán - Thực trạng pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, từ đó phát hiện những bất cập, tồn tại về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tài khoản thanh toán. - Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới. 6.2. Địa điểm nghiên cứu Trong khuôn khổ của đề tài, học viên tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại có trụ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội - là nơi tập trung trụ sở của nhiều ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam như: Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội; 6.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thu thập và tổng hợp thông tin, so sánh, phân tích, đối chiếu từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại trong hệ thống pháp luật và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tài khoản thanh toán và pháp luật về tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị. 12
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI KHOẢN THANH TOÁN 1.1.1. Lược sử hình thành tài khoản thanh toán Có thể nói, sự hình thành của tài khoản thanh toán gắn liền với lịch sử hình thành của phương thức thanh toán qua Ngân hàng: Vào thời kỳ đầu của nền sản xuất hàng hóa, các quan hệ trao đổi là trao đổi trực tiếp, hàng đổi hàng, đòi hỏi các bên phải đáp ứng được cả nhu cầu giá trị sử dụng, về giá trị trao đổi, về thời gian và địa điểm. Nhưng quan hệ trao đổi trực tiếp càng ngày càng trở nên kìm hãm sản xuất, tạo ra những mâu thuẫn của nền sản xuất xã hội, từ đó dẫn đến một nhu cầu thiết yếu phải tìm kiếm và thay thế phương thức trao đổi cũ bằng một phương thức trao đổi mới tiến bộ hơn, đó là hình thái trao đổi hàng hóa - tiền tệ. Bản chất của phương thức này là tìm ra một thứ hàng hóa làm trung gian thanh toán - loại hàng hóa đặc biệt mà con người có thể dùng nó để đổi lấy bất kỳ thứ hàng hóa nào. Hình thái tiền tệ đầu tiên là những hàng hóa phổ thông trong trao đổi và tiêu dùng như lúa gạo, muối, vải sau đó là những vật phẩm quý hiếm và khó kiếm hơn như vỏ sò, lông thú, kim loại Tuy nhiên, giá trị của nó bị suy giảm nhiều do bị hao mòn theo thời gian hoặc do được sản xuất ngày càng nhiều hơn, mặt khác lại cần có chi phí bảo quản cao. Vì vậy, tiền kim loại ra đời, trong đó có tiền vàng. Tuy nhiên, dần dần vàng cũng trở nên khan hiếm. Do đó, tiền giấy đã dần dần thay thế tiền vàng và được coi là phương tiện thanh toán rất hữu hiệu do tính ưu việt của nó là chi phí sản xuất rẻ, có tính bền vững cao và không bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, tiền 13
  13. giấy vẫn có nhược điểm là dễ bị làm giả và việc phát hành nó đôi khi bị chi phối bởi ý chí chủ quan của Chính phủ - nhà phát hành. Khi nền sản xuất càng phát triển thì những hạn chế của việc thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ. Việc vận chuyển khối lượng tiền mặt lớn để thanh toán giữa các khu vực địa lý ở rất xa nhau, thậm chí là ở những quốc gia, những châu lục khác nhau trở nên khó khăn vì chi phí vận chuyển, bảo vệ cao nhưng độ an toàn lại thấp. Đó là điều kiện cho một phương thức thanh toán mới ra đời - phương thức thanh toán không dùng tiền mặt mà trung gian thực hiện là các ngân hàng. Với phương thức này, các bên có thể thanh toán cho nhau từ xa mà không dùng tiền mặt và không cần trực tiếp gặp nhau. Điều kiện là các bên phải mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng và thực hiện thanh toán qua Ngân hàng. "Trên cơ sở tài khoản và tiền gửi trong tài khoản ở ngân hàng, việc thanh toán được thực hiện thông qua ngân hàng bằng cách ngân hàng sẽ ghi chuyển từ tài khoản của người chi cho người thụ hưởng" [46]. Với những mục đích sử dụng khác nhau, khách hàng có thể mở nhiều loại tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng để thực hiện các giao dịch phù hợp. Tại Mỹ, tiền gửi được phân thành hai loại: tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch. * Tiền gửi giao dịch: "Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay bên thứ ba, được chỉ rõ là người thụ hưởng" [37]. * Tiền gửi phi giao dịch: Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của người muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. 14
  14. Trong khi chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm nói chung thấp. Một số ngân hàng đưa ra tài khoản tiết kiệm thông báo (statement savings deposits) trong đó thông qua việc truy nhập trên máy vi tính, khách hàng sẽ nhận được các bản thống kê thể hiện số tiền gửi, lệnh rút tiền, lãi và số dư của tài khoản hàng tháng. Tuy nhiên nhiều ngân hàng vẫn sử dụng tài khoản tiết kiệm lập sổ truyền thống. Theo phương pháp này, khách hàng được cấp một cuốn sổ mỏng ghi nhận số dư của tài khoản, thu nhập lãi, tiền gửi, cũng như các quy định ràng buộc cả hai bên và người gửi tiền phải trình quyền sổ này cho người thu ngân khi gửi hay rút tiền. Từ nhiều năm nay, những người giàu có và các doanh nghiệp được cung cấp tài khoản tiền gửi kỳ hạn trả lãi suất cố định với kỳ hạn xác định (thường kéo dài 30, 60, 90 hay 180 ngày). Cơ cấu tiền gửi ở Mỹ năm 1996 là: Tiền gửi giao dịch 21,1% và Tiền gửi phi giao dịch 78,9% (trong đó Tiền gửi tiết kiệm chiếm 39,8%, Tiền gửi kỳ hạn chiếm 38,1%) [37]. Tương tự, với hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành, các loại tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi vốn chuyên dùng và tiền ký quỹ (Báo cáo tài chính riêng lẻ Quý 2/2012 của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam). Phân theo loại tài khoản tiền gửi gồm có: * Tài khoản thanh toán: Là tài khoản phản ánh số tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng. Khoản tiền này khách hàng có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ lúc nào, do đó nó còn được gọi là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn hay tài 15
  15. khoản tiền gửi giao dịch. Mục đích chính của tài khoản này là để thanh toán qua ngân hàng, mục đích hưởng lãi chỉ là thứ yếu. Thông qua tài khoản này, ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán thu - chi hộ, rút tiền, chuyển tiền mặt, séc chuyển tiền, séc bảo chi, séc chuyển khoản cho chủ tài khoản. Tài khoản thanh toán được áp dụng đối với mọi hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Ưu điểm của loại tài khoản này so với tài khoản khác là khách hàng có thể vay tạm thời ngân hàng nếu được chấp thuận (thấu chi). Như vậy, tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ phản ánh cả hai quá trình huy động vốn và sử dụng vốn. * Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: Là tài khoản phản ánh số tiền gửi của khách hàng (cá nhân hoặc doanh nghiệp) gửi theo một kỳ hạn nhất định tại ngân hàng. Đối tượng chính mở tài khoản này là các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế nhưng họ đã đưa ra được kế hoạch thu chi tài chính. Ngoài ra, những khách hàng cá nhân thuộc nhóm có nguồn vốn lớn, Mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm kiếm lợi tức. Đối với các ngân hàng, tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn ổn định ngân hàng có thể sử dụng trong kinh doanh. * Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: Là tài khoản phản ánh số tiền gửi của khách hàng cá nhân vào ngân hàng để tiết kiệm hưởng lãi. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm bao gồm hai loại: - Tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn: với hình thức này, người gửi có thể gửi nhiều lần và có thể rút ra bất cứ khi nào theo nhu cầu sử dụng mà không phải báo trước nhưng khác với Tài khoản thanh toán là khách hàng không được hưởng các dịch vụ thanh toán nhưng được trả lãi suất cao hơn. - Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ hưởng lãi suất cao trong một khoảng thời gian nhất định. Đối tượng mở tài khoản này là các gia đình, cá nhân. tài khoản này tương đối ổn định và ít rủi ro nhất, được ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu để kinh doanh, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. 16
  16. * Tài khoản ký quỹ: đảm bảo thanh toán L/C phát hành tại ngân hàng thương mại, đảm bảo thanh toán cho chứng thư bảo lãnh do ngân hàng thương mại phát hành, đảm bảo thanh toán séc và một số trường hợp khác, khách hàng phải mở tài khoản ký quỹ không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn, theo đó, số tiền trên tài khoản ký quỹ sẽ bị phong tỏa và được hưởng lãi theo thỏa thuận. Tài khoản ký quỹ có thể do cá nhân hoặc doanh nghiệp đứng tên và bị phong tỏa cho tới khi bên có nghĩa vụ đảm bảo bởi tài khoản kỹ quỹ hoàn thành được nghĩa vụ. Trường hợp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, số dư trên tài khoản ký quỹ sẽ được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ được đảm bảo. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tài khoản thanh toán 1.1.2.1. Khái niệm Để có thể thực hiện thanh toán qua ngân hàng, trước tiên khách hàng phải mở tài khoản thanh toán. Theo Giáo trình Luật ngân hàng của Trường Đại học Luật Hà Nội: Tài khoản là công cụ để ghi chép, phản ánh vốn tiền tệ của chủ tài khoản. Tài khoản được sử dụng trong thanh toán gọi là tài khoản thanh toán. Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước [46]. Hiện nay, đang tồn tại nhiều khái niệm về tài khoản thanh toán trong các văn bản pháp luật. Có thể chia ra thành hai dạng khái niệm: Khái niệm tại các văn bản ban hành trước Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và Khái niệm tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. - Khoản 8 Điều 3 Nghị định 64/2001/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: "Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các 17
  17. tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước" [2]. - Khoản 1 Điều 3 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng quy định: "Tài khoản tiền gửi là tài khoản thanh toán do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các Ngân hàng với mục đích gửi, giữ tiền hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán" [20]. - Khoản 22 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: "Tài khoản thanh toán là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng" [43]. Như vậy, để có thể hiểu toàn diện tài khoản thanh toán là gì, cần phải hiểu dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp là những dịch vụ gì? Khoản 15 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng [43]. Như vậy, tài khoản thanh toán được hiểu là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng mà thông qua đó, khách hàng sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng như: phát hành phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác. Theo Điều 12 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP thì các phương tiện thanh toán bao gồm: Tiền mặt, séc, lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của pháp luật. 18
  18. Như vậy, nếu hiểu theo cách như trên thì tài khoản mà thông qua đó Ngân hàng phát hành tiền mặt cho khách hàng cũng được coi là tài khoản thanh toán. Theo đó tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cũng được coi là tài khoản thanh toán. Tuy nhiên, Khoản 6 Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại là: - Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; - Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Như vậy, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác được gọi là tài khoản thanh toán. Đặc trưng của tài khoản thanh toán theo khái niệm tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 là: (i) Là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn: các loại tài khoản mà số dư có kỳ hạn đều không thuộc khái niệm tài khoản thanh toán; (ii) Khách hàng mở tại ngân hàng: các tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ phát triển, đều không thuộc khái niệm tài khoản thanh toán; (iii) Để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng: các tài khoản mở với mục đích khác (như gửi, giữ tiền ) đều không thuộc khái niệm tài khoản thanh toán; Có thể nói, với khái niệm tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, tài khoản thanh toán có sự thay đổi cơ bản về hình thức số dư trên tài khoản. Theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP nêu trên thì 19
  19. Số dư trên tài khoản thanh toán không bắt buộc phải là số dư không kỳ hạn mà có thể là số dư không kỳ hạn hoặc số dư có kỳ hạn. Tuy nhiên, trên thực tế hầu như rất khó thực hiện hình thức số dư có kỳ hạn trên tài khoản thanh toán do khách hàng mở tài khoản thanh toán nhằm mục đích chính là để thanh toán qua ngân hàng. Bởi vậy, các ngân hàng thương mại đều áp dụng số dư tiền gửi không kỳ hạn đối với tài khoản thanh toán (trừ một số giao dịch đặc thù như: ngân hàng thương mại thỏa thuận bằng văn bản với khách hàng về việc khách hàng cam kết duy trì một số dư tiền gửi nhất định trên tài khoản trong một thời hạn nhất định). Trước thực tế đó, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có sự thay đổi phù hợp về khái niệm tài khoản thanh toán. Theo đó, số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán phải là không kỳ hạn và để sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nói chung và hướng dẫn về tài khoản thanh toán nói riêng. Do đó, hiện tại các ngân hàng đều thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản thanh toán dựa trên các quy định của Nghị định số 64/2001/NĐ-CP và Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN. Theo đó, tài khoản tiền gửi thanh toán (theo định nghĩa của Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN) vẫn có thể thực hiện dưới hình thức số dư có kỳ hạn. Hơn nữa, tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng được coi là một tài khoản thanh toán. Trong khi đó, Khoản 6 Điều 6 Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004 của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế về tiền gửi tiết kiệm quy định: "Tài khoản tiền gửi tiết kiệm là tài khoản đứng tên một cá nhân hoặc một số cá nhân và được sử dụng để thực hiện một số giao dịch thanh toán" [21]. Mặt khác, theo Điều 11 Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN thì tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện các giao 20
  20. dịch thanh toán mà chỉ được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó. Như vậy, tài khoản tiền gửi tiết kiệm chỉ được sử dụng để thực hiện 02 giao dịch thanh toán đặc thù nêu trên. Ngoài hai giao dịch thanh toán đặc thù đó, mục đích chính của tài khoản tiền gửi tiết kiệm là gửi, giữ tiền và hưởng lãi. Do đó, tài khoản tiền gửi tiết kiệm không có đầy đủ các đặc trưng (i) và (iii) theo khái niệm tài khoản thanh toán của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã nêu ở trên. Ngoài tài khoản tiền gửi tiết kiệm, chỉ được áp dụng cho khách hàng cá nhân, Ngân hàng có thể ký‎ kết các hợp đồng tiền gửi với cả khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp cũng với mục đích để gửi, giữ tiền và hưởng lãi. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước chưa có văn bản quy phạm hướng dẫn cũng như điều chỉnh hợp đồng tiền gửi giữa khách hàng và Ngân hàng. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn theo hình thức hợp đồng tiền gửi đang được ngân hàng thương mại thực hiện dưới sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Để quản lý các hợp đồng tiền gửi, Ngân hàng mở các tài khoản tương ứng. Tuy nhiên, cũng tương tự như tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản mở theo hợp đồng tiền gửi không có đầy đủ các đặc trưng (i) và (iii) theo khái niệm tài khoản thanh toán của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã nêu ở trên. 1.1.2.2. Đặc điểm của tài khoản thanh toán Có thể nói, hai loại tài khoản phổ biến nhất trong các nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời cũng là hai loại tài khoản được khách hàng sử dụng nhiều nhất là tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Bởi vậy, việc nghiên cứu những đặc điểm của tài khoản thanh toán trong sự so sánh với tài khoản tiền gửi tiết kiệm sẽ giúp làm sáng rõ hơn những đặc trưng của loại tài khoản này. 21