Luận văn Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

pdf 95 trang vuhoa 25/08/2022 5640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_cho_vay_cua_ngan_hang_thuong.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

  1. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thủy Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các d0anh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội – 2011
  2. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Thị Thu Thủy Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các d0anh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy Hà nội - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY 6 CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. Khái niệm, đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa 6 1.1.1. Khái niệm 6 1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa 10 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa 13 1.1.4. Vai trò của cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 18 1.1.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động cho vay doanh nghiệp 21 nhỏ và vừa 1.2. Những đặc trƣng trong hoạt động cho vay của ngân 25 hàng thƣơng mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ 28 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIÊP̣ NHỎ VÀ V ỪA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động cho vay 28 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1.1. Điều kiện cho vay 31
  4. 2.1.2. Trình tự, thủ tục vay vốn 33 2.1.3. Phương thức cho vay 34 2.1.4. Hợp đồng tín dụng và giải quyết tranh chấp phát sinh từ 35 Hợp đồng tín dụng 2.1.4.1. Chủ thể vay vốn 36 2.4.1.2. Chủ thể cho vay vốn 37 2.4.1.3. Về lãi suất 39 2.4.1.4. Về bảo đảm tiền vay 46 2.4.1.5. Vấn đề vô hiệu của Hợp đồng tín dụng 59 2.4.1.6. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hơp̣ đồng tín duṇ g 63 2.2 Thực tiễn cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại một số 65 ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 2.2.1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Viêṭ Nam (BIDV) 65 2.2.2. Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) 66 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHO 71 VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TAỊ CÁ C NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1. Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện Nghị định 56/2009/NĐ-CP 71 3.2. Xây dựng cơ chế cho vay của ngân hàng thƣơng mại đối 73 với doanh nghiệp nhỏ và vừa 3.3. Các giải pháp khác 78 3.3.1. Về phía Chính phủ 79 3.3.2. Đối với các tỉnh/thành phố 80 3.3.3. Đối với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa 80 3.3.4. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa 81 KẾ T LUÂṆ 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNNN : Doanh nghiệp nhà nước DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TCTD : Tổ chức tín dụng TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
  6. Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa 9
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện nay đang chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các doanh nghiệp của Việt Nam. Theo một số liệu được công bố thì tính đến tháng 5/2010: Cả nước có thêm 33.982 doanh nghiêp̣ đăng ký thành lập mới, nâng tổng số doanh nghiêp̣ hiện nay lên đến 496.101 doanh nghiêp̣ ; vốn đăng ký gần 2.313.000 tỷ đồng (khoảng 121 tỷ USD); trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 97% với trên 50% lao động trong doanh nghiêp̣ , ước tính đóng góp khoảng trên 40% GDP [15]. Nhìn vào số liệu trên cho thấy tỷ trọng về các chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách chưa tương xứng với tỷ trọng về số lượng doanh nghiệp, tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp này vẫn luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Các DNNVV đã tạo ra một khối lượng lớn hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, góp phần tập trung vốn của xã hội, tạo ra những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút lao động, giải quyết việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt khu vực nông nghiệp, nông thôn Sự phát triển tích cực của DNNVV đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định lại tình hình kinh tế, an sinh xã hội trong những năm vừa qua. Tuy vậy, DNNVV vẫn còn có những khó khăn nhất định mang tính đặc trưng và lâu dài, như về quy mô doanh nghiệp nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, mặt bằng sản xuất kinh doanh nhỏ hẹp, khó khăn, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn tín dụng còn rất hạn chế. Trong thời gian vừa qua, tình hình kinh tế trên toàn cầu và tại mỗi quốc gia có nhiều khó khăn, bất ổn, các doanh nghiệp phải đương đầu với 1
  8. nhiều bất lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh một số doanh nghiệp có sức chống đỡ tốt và đứng vững trước cuộc khủng hoảng, nhiều DNNVV là các doanh nghiệp với quy mô nhỏ và năng lực tài chính yếu kém dễ bị tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế, hiện đang ở trong tình trạng khá khó khăn. Thực tế, trong hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp này, bên cạnh nguồn vốn tự có thì vốn vay từ Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đều dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng. Hầu hết các Ngân hàng đều không "nhiệt tình" trong việc cho vay đối với các DNNVV. Các Ngân hàng vẫn nhìn nhận các DNNVV là các khách hàng có nhiều rủi ro nên họ thường thận trọng và dè dặt trong việc cho vay. Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi tín dụng cho các Doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn ưu đãi là "chưa minh bạch" và "không được cập nhật công khai", do vậy, các DNNVV đã có nhiều khó khăn lại càng khó hơn trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Mặc dù hiện nay Nhà nước ta cũng đã có một số quy định để hỗ trợ DNNVV nhưng về cơ bản các quy định mang tính chất chủ trương chung, lại chưa thống nhất và đồng bộ, đặc biệt về vấn đề cấp tín dụng cho các DNNVV thì hiện nay vẫn chưa có một chính sách tín dụng hay cơ chế cho vay riêng biệt đối với khối doanh nghiệp này. Tác giả chọn đề tài "Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam" với mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với các DNNVV. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về cho vay khối DNNVV tại các NHTM của Việt Nam, gắn với việc so sánh với pháp luật, chính sách cho vay DNNVV tại một số nước khác trên thế giới để từ đó rút ra những bất cập của pháp luật trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp hỗ trợ đặc thù trong hoạt động cho vay các DNNVV ở nước ta, hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành, tạo điều kiện cho các DNNVV 2
  9. nâng cao hiệu quả và năng lực hoạt động, xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, một trong các chương trình mà Chính phủ đang tập trung triển khai là hỗ trợ cho các DNNVV. Bên cạnh các giải pháp cần phải thay đổi chính từ phía các doanh nghiệp thì các cơ quan hữu quan cũng đang tích cực đề ra những biện pháp cụ thể để hỗ trợ cho khối doanh nghiệp này. Trong hoạt động ngân hàng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng nên có quy định chính thức về cho vay đối với các DNNVV, làm hành lang pháp lý để các NHTM triển khai việc hỗ trợ tín dụng trong nội bộ đơn vị mình. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần vào việc thực hiện mục tiêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam Hiện nay ở nước ta chưa có công trình (luâṇ văn tiến sĩ , thạc s ĩ ) chính thức nào được công bố về p háp luật cho vay DNNVV tại các NHTM ở Viêṭ Nam . Trên thưc̣ tế cũng đa ̃ có m ột số bài báo, tạp chí đề cập đến DNNVV, tuy nhiên, các bài báo chỉ viết về mô hình DNNVV hoặc chủ yếu liên quan đến khía cạnh "kinh tế" trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM đối với các DNNVV. Ví dụ như: "Mấy vấn đề về đầu tư tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta", của Nguyễn Thị Hải Hằng, (Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 19, 2006); "Doanh nghiệp nhỏ và vừa trước tình hình hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại trong 9 tháng đầu năm 2008", của Đinh Nguyễn Thị Nương (Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 21, 2008). Các bài viết này chủ yếu nói về thực trạng cho vay các DNNVV tại các NHTM (tỷ trọng cho vay so với các khách hàn g khác, tỷ lệ nơ ̣ xấu của các DNNVV ), môṭ số thuận lợi và khó khăn của DNNVV trong việc vay vốn NHTM. Ngoài ra, có một số cuộc Hội thảo, Dự án (năng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam) và những phân tích đánh giá của các nhà kinh tế cũng chỉ đề cập đến thực trạng (số lượng, đặc điểm, điểm mạnh, điểm 3
  10. yếu) của DNNVV trong thời điểm hiện nay mà chưa có một công trình nghiên cứu nào về việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM cho các DNNVV. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của các NHTM đối với các DNNVV tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng tìm hiểu những chủ trương, chính sách có liên quan đến việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau: Phân tích những mặt hạn chế trong quy định hỗ trợ tín dụng cho các DNNVV, những khó khăn của việc tiếp cận vốn tín dụng với các ngân hàng, đưa ra các nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số biện pháp hỗ trợ tín dụng đối với DNNVV của một số NHTM tại Việt Nam, qua đó nêu lên những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, xây dựng pháp luật về DNNVV nói chung và pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM với DNNVV nói riêng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh để nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam, quy định pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới, rút ra những đặc điểm phù hợp với Việt Nam để hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho vay đối với các DNNVV. Kết hợp phân tích, liên hệ với các chủ trương, chính sách có liên quan để lựa chọn những chính sách ưu Việt có thể thể chế hóa thành quy định của pháp luật. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng phương pháp tìm hiểu, điều tra thực tế các chính sách hỗ trợ hiện hành của một số NHTM của Việt Nam đối với các DNNVV. Việc nghiên 4
  11. cứu thực tiễn này giúp việc xây dựng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này được thiết thực và hiệu quả hơn. 5. Ý nghĩa lý luận của đề tài Trong thời điểm hiện nay, khi Nhà nước đang đẩy mạnh chương trình xúc tiến hỗ trợ cho các DNNVV để nâng cao vai trò và hiệu quả cho khối doanh nghiệp này thì đề tài luận văn mang một ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất thiết thực. Hi vọng những kiến nghị đề xuất của tác giả sẽ có giá trị nhất định trong việc thực hiện chủ trương trên. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và thực tiễn cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại một số ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 5
  12. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1.1. Khái niệm Nói đến DNNVV là nói đến loại hình doanh nghiệp được phân loại dựa trên độ lớn (hoặc quy mô doanh nghiệp). Việc phân loại DNNVV phụ thuộc vào loại tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hóa các tiêu thức ấy thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Các tiêu thức này không thống nhất và đồng đều ở tất cả các quốc gia, thậm chí tại một quốc gia nó cũng thay đổi theo từng thời kỳ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Thực tế trên thế giới hiện nay không có khái niệm chuẩn mực về DNNVV: Theo Liên minh Châu Âu, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số lượng công nhân không vượt quá 250. Tại Úc, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số lượng công nhân tối đa không vượt quá 300, còn tại Mỹ là không quá 1000. Trong một khu vực, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng không giống nhau. Tại Nam Phi, doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có từ 1 - 500 công nhân. Tại Chi Lê và Colombia con số đó là từ 11 đến 200. Trong khi đó tại Mê-hi-cô thì một doanh nghiệp có 500 công nhân vẫn được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa [43]. Hiện nay, một số nước đã nhận thức được sự cần thiết và đã thực hiện hài hòa hóa khái niệm DNNVV. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về các tiêu thức và tiêu chuẩn cụ thể, song khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau: 6
  13. DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức: vốn, lao động, doanh thu, năng lực sản xuất, tổng tài sản, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. Qua nghiên cứu tiêu thực phân loại ở một số nước cho thấy, một số tiêu thức chung, có tính phổ biến thường được sử dụng trên thế giới để phân loại doanh nghiệp là: Số lượng lao động thường xuyên; Vốn sản xuất kinh doanh; Doanh thu; Lợi nhuận; Giá trị gia tăng. Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Người ta có thể dùng các yếu tố đầu vào, hoặc các yếu tố đầu ra hoặc là kết hợp cả hai yếu tố đó. Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNNVV ở các nước trên thế giới có các đặc điểm chủ yếu sau: - Các nước dùng các tiêu thức khác nhau. Trong số các tiêu thức nêu trên, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn. - Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau. Có nước sử dụng một tiêu thức, nhưng cũng có nước sử dụng đồng thời hai hay nhiều tiêu thức để phân loại DNNVV. - Lượng hóa các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau cũng không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các DNNVV của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNNVV có thể rất nhiều, hoặc ít tùy theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước. 7
  14. - Khái niệm DNNVV mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và phụ thuộc vào: (i) Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước. Thông thường các nước có trình độ phát triển cao thì giới hạn quy định chỉ tiêu quy mô lớn hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. (ii) Các giới hạn tiêu chuẩn này được quy định trong những thời kỳ cụ thể và có sự thay đổi theo thời gian cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng giai đoạn. Chẳng hạn ở Đài Loan trong 30 năm qua đã có 6 lần thay đổi quy định giới hạn các tiêu thức phân loại DNNVV. Sự thay đổi các quy định này thể hiện khả năng thích ứng nhanh của cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với khu vực DNNVV dưới tác động của sự phát triển kinh tế xã hội và môi trường bên ngoài. (iii) Các giới hạn quy mô DNNVV được quy định khác nhau cho các ngành nghề khác nhau. Đa phần các nước có sự phân biệt quy mô các tiêu thức vốn, lao động sử dụng theo từng ngành như công nghiệp, thương mại dịch vụ Một số ít nước dùng chung tiêu thức cho tất cả các ngành. Việc xác định giới hạn các tiêu thức này có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp này. Nói chung, các nỗ lực chuẩn hóa khái niệm này đã giúp cho các nước phát triển DNNVV, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này tiếp cận vốn vay ngân hàng. Tại Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp DNNVV (sau đây viết tắt là Nghị định 56/2009/NĐ-CP) thì DNNVV được chia thành các cấp độ bao gồm: siêu nhỏ, nhỏ và vừa, cụ thể như sau: 8
  15. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau [11, Điều 3]: Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa Quy mô Doanh nghiệp Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa siêu nhỏ Tổng Tổng Số lao động Số lao động Số lao động Khu vực nguồn vốn nguồn vốn I. Nông, lâm Từ trên 10 Từ trên 20 tỷ Từ trên 200 10 người 20 tỷ đồng nghiệp và người đến đồng đến 100 người đến trở xuống trở xuống thủy sản 200 người tỷ đồng 300 người II. Công Từ trên 10 Từ trên 20 tỷ Từ trên 200 10 người 20 tỷ đồng nghiệp và người đến đồng đến 100 người đến trở xuống trở xuống xây dựng 200 người tỷ đồng 300 người Từ trên 10 Từ trên 10 tỷ Từ trên 50 III. Thương 10 người 10 tỷ đồng người đến 50 đồng đến 50 người đến mại và dịch vụ trở xuống trở xuống người tỷ đồng 100 người Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV. So với Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNNVV (sau đây viết tắt là Nghị định 90/2001/NĐ-CP) trước đây thì tiêu chí xác định DNNVV đã có sự thay đổi. Nghị định 90/2001/NĐ-CP phân loại doanh nghiệp dựa trên vốn đăng ký và số lao động bình quân năm không quá 300 người, nhưng số vốn đăng ký ban đầu không phải bất biến mà thay đổi theo thời gian qua quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, tiêu chí dựa vào tổng nguồn vốn và số lao động bình quân theo quy định mới là phù hợp với tiêu chí của các nước trên thế giới. 9
  16. 1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa Với cách xác định DNNVV như trên, gắn với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam thì DNNVV có những đặc điểm tiêu biểu như sau: - Quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ Các DNNVV được thành lập dưới hầu hết các loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH(, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã. Tuy nhiên, với đặc điểm là được hình thành từ ý tưởng của một nhóm người có quan hệ gia đình hoặc bạn bè, đồng thời, với ngành nghề sản xuất đa dạng, nhất là ngành nghề thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ, hầu hết các DNNVV thành lập và hoạt động với số vốn hạn chế, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Tuy vậy, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hiện nay các doanh nghiệp đã biết liên kết với nhau để sản xuất kinh doanh theo hướng mỗi doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hóa một loại sản phẩm, đặc biệt là sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài đã mở ra cơ hội mới cho các DNNVV, hạn chế những khó khăn về quy mô và vốn đầu tư sản xuất của các DNNVV trong nước. - Mặt bằng sản xuất khó khăn: Mặc dù đã có các chủ trương, chính sách khuyến khích, ưu tiên cho các DNNVV, đồng thời phía chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực, xong vẫn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trong các lĩnh vực như đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn tín dụng dẫn đến tình trạng DNVVN thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ.Mặt bằng sản xuất khó khăn là vấn đề khó khăn khách quan và rất phổ biến của các DNNVV. Rất nhiều doanh nghiêp̣ cần mặt bằng sản xuất nhưng lại không có "một miếng đất cắm dùi". Hiện, doanh nghiệp muốn có mặt bằng sản xuất thường có ba phương án lựa chọn: thuê của Nhà nước; thuê của các tổ chức, cá nhân khác; dùng ngay chính đất đang 10
  17. ở để tổ chức sản xuất. Nhưng chính sách đất đai đang làm khó cho các DNVVN. Đồng thời, các DNVVN mới thoát khỏi khủng hoảng nên còn rất yếu. Hơn nữa, DNVVN thường có quy mô nhỏ, địa bàn hoạt động hẹp, có khi chỉ trong phạm vi vài xã chứ chưa đến một huyện nên kênh lập dự án để thuê đất của Nhà nước cũng không đủ điều kiện để đáp ứng, nếu đi thuê đất của Nhà nước ở những nơi được gọi là ưu đãi thì lại mất rất nhiều thời gian, hơn nữa các khu vực đất mà Nhà nước cho thuê không nhiều. Chủ trương chính sách thì có nhưng rõ ràng đây là một trong những khó khăn lớn của các DNNVV. - Công nghệ lạc hậu: DNNVV có thể sử dụng các loại máy móc, thiết bị sản xuất trong nước, dễ dàng thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí, có thể kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công nghệ lạc hậu lại khá phổ biến trong các DNNVV. Do nguồn vốn hạn chế, các DNNVV thường phải sử dụng các máy móc công nghệ cũ, lạc hậu, dẫn đến năng suất lao động kém, lãng phí nguyên liệu. Bên cạnh đó, với thói quen tư duy cũ và hạn chế về đầu tư, DNNVV thường đầu tư dần, mỗi năm mua một vài loại máy, thiết bị và khi thấy không ổn thì cũng thay thế dần. Điều này làm cho máy móc thiết bị đang được sử dụng trong các DNNVV trở nên chắp vá, không đồng bộ. Việc đổi mới công nghệ cũng gặp khó khăn một phần do hạn chế về nhận thức của các ông chủ doanh nghiệp về việc cần phải cải tiến công nghệ máy móc cũng như khả năng lập kế hoạch tiếp nhận và sử dụng hiệu quả công nghệ, một phần do thiếu vốn và nguồn thông tin tư vấn tiếp cận công nghệ mới. - Về nguồn nhân lực và năng lực quản trị, điều hành doanh nghiệp: Đối với cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp: Các DNNVV Việt Nam thường có xuất phát điểm từ doanh nghiệp gia đình hoặc từ ý tưởng của một nhóm bạn bè, một cá thể, vì vậy ngoài khó khăn về vốn có hai đặc điểm khá rõ: Một là, thường bị các yếu tố tình cảm kiểu gia đình chi phối, nhiều 11
  18. doanh nghiệp vẫn quản lý doanh nghiệp theo kiểu hộ gia đình; hai là, do yếu tố kỷ luật và tính hệ thống đều yếu nên khi giải quyết công việc thường mang tính mệnh lệnh, cấp trên nói sao, cấp dưới làm vậy. Rất ít doanh nghiệp sử dụng được nguồn trí lực của cán bộ nhân viên. Các lãnh đạo đưa ra đề án rồi tự quyết định luôn; những người cùng làm trực tiếp ít dám can thiệp dẫn đến việc quản lý kinh doanh mang tính tự chủ quá nhiều và hiệu quả không cao. Những nghiên cứu cho thấy những người chủ doanh nghiệp thuộc khu vực này có trình độ hộc vấn ở mức khá thấp, phần lớn cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm là chính, chưa được đào tạo qua trường lớp căn bản nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý kinh tế cũng như thực hiện các quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động và kinh doanh. Đối với lực lượng nhân công lao động: Các DNNVV thu hút nhiều lao động, đặc biệt là ở nước ta có lực lượng lao động dồi dào với giá lao động thấp. Tuy nhiên, với mức độ ưu đãi trung bình, các DNNVV thường khó thuê được các lao động có trình độ cao. Trên thực tế, trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp còn thấp, chưa được quan tâm đào tạo thường xuyên, phần lớn người lao động được truyền dạy thông qua gia đình hoặc các kỹ thuật viên của doanh nghiệp, do vậy, tính năng động sáng tạo trong việc phát huy sáng kiến cải tiến mẫu mã hàng hóa chưa cao. Đồng thời, các doanh nghiệp phải đối mặt với một nan giải khác là lượng công nhân đáng kể chuyển sang làm cho các công ty lớn hơn hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực cũng là một khó khăn lớn của các DNNVV trong xu thế cạnh tranh hiện nay. - Khó khăn về tài chính: Vấn đề lớn nhất của khối doanh nghiệp này là nguồn vốn kinh doanh và quản lý tài chính. Các doanh nghiệp này chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về tầm quan trọng của quản lý tài chính, nên tiềm lực kinh doanh chưa 12
  19. được phát huy một cách tối đa, thậm chí với các đặc điểm như đã phân tích ở trên, một thực trạng tất yếu của các DNNVV là khó khăn về tài chính. Ngoài ra, khó khăn về tài chính còn xuất phát từ khó khăn từ mặt bằng sản xuất kinh doanh, khó khăn từ môi trường kinh doanh và khó khăn từ trong chính nội tại của doanh nghiệp (về nhân lực quản lý và nhân lực sản xuất). Hầu hết các DNNVV có quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn tự có cao. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các DNNVV khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, là kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp. Chính vì sự khó khăn trong việc tiếp cận vốn như vậy, các DNNVV ít tuân theo các chuẩn mực kế toán theo quy định, mất đi tính trung thực, làm báo cáo tài chính sai lệch, không thống nhất giữa báo cáo tài chính gửi cơ quan thuế và báo cáo tài chính gửi các ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin từ phía ngân hàng khi xét duyệt cho vay. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV có vị trí và vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện như vậy, sự phát triển của chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mà thay vào đó là các DNNVV là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp. Các DNNVV là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. Hiện nay, trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thì các DNNVV không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp này trong nền kinh tế càng trở nên chặt chẽ. Các DNNVV tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn 13
  20. xuyên quốc gia. Mặc dù trong thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước đầu qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới hết sức quan trọng để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNNVV. DNNVV với quy mô nhỏ và vừa, với mức độ đầu tư không lớn, linh hoạt, tỏ ra rất phù hợp cho phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện nay. Xây dựng và phát triển đội ngũ DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích, tạo thuận lợi cho DNNVV phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DNNVV có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung, qua thực tiễn hoạt động và phát triển của DNNVV ở Việt Nam cho thấy, DNNVV có vai trò quan trọng đối với kinh tế - xã hội, cụ thể như sau: - Các DNNVV cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong xã hội: Một trong các số liệu thống kê cho thấy: GDP của khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) từ chiếm 45,6% tổng GDP năm 2006 đã tăng lên khoảng 48% trong năm 2010. Khu vực kinh tế tư nhân cũng tạo ra 50,2% việc làm của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân khu vực này đạt trên 10%, cao hơn mức 8% của cả nền kinh tế giai đoạn 2006 -2010 [15]. Như vậy, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng, quy mô hoạt động, khối DNNVV đã có những đóng góp to lớn trong tăng trưởng kinh tế, 14
  21. thay đổi cơ cấu kinh tế, tạo việc làm. Ngay trong thời gian kinh tế chịu tác động lớn của khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới, số lượng DNNVV vẫn tăng rất nhanh. Các DNNVV thường hướng vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua cao, dung lượng thị trường lớn, nên huy động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn tiềm ẩn trong dân. Thực tế cho thấy DNNVV cung cấp một khối lượng lớn, đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Các loại hàng hóa, các sản phẩm dịch vụ mà DNNVV cung cấp bao gồm các hàng tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng xuất khẩu, các dịch vụ giải trí, dịch vụ xã hội đáp ứng tối đa các nhu cầu của mọi tầng lớp người dân. - DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động: Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1 triệu người đến tuổi lao động nhưng khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhà nước lớn ngày càng hạn chế. Thêm vào đó, trong tiến trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp nhà nước đã khiến cho nhiều người lao động bị mất việc. Đồng thời, với đặc điểm rõ nét là ngành nghề kinh doanh đa dạng, đặc biệt là các ngành cần nhiều lao động (công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp ), các DNNVV đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc thu hút số lượng lớn lao động tại khu vực thành thị và nông thôn, tạo nguồn thu nhập ổn định cho dân cư trong các vùng, góp phần quan trọng trong việc giảm bớt khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các vùng trong nước. Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xét trên tổng thể thì tổng số lao động trong các DNNVV chiếm tỉ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội hiện nay. 15
  22. - Các DNNVV thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế: Với số lượng doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các doanh nghiệp, với địa bàn hoạt động rộng lớn cả ở thành thị và nông thôn, với ngành nghề kinh doanh đa dạng, khối DNNVV đã thu hút một số vốn đầu tư lớn trong nền kinh tế. Các DNNVV cũng là một khu vực tiềm tàng có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài, đặc biệt là các DNNVV của khối tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân ngày càng năng động và phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Trong số đó, có một số không ít doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và đang trở thành những thương hiệu mạnh của Việt Nam. Tương lai phát triển của các doanh nghiệp này càng trở nên rõ ràng hơn sau khi hai đạo luật mới là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đang ngày càng đi vào thực tiễn và phát huy tác dụng là hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Ngoài các doanh nghiệp tư nhân và thuộc sở hữu Nhà nước, những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng đang là những đầu mối hút vốn gián tiếp quan trọng, trong khi thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bắt đầu có những sự khởi sắc nhất định trong giai đoạn vừa qua. - Hoạt động của các DNVVN tạo nguồn vốn lớn cho ngân sách nhà nước, góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt hiệu quả kinh tế cao: Mặc dù là một yếu điểm của DNNVV khi quy mô vốn và lao động không lớn nhưng nó cũng là yếu tố khiến các DNVVN dễ dàng được thành lập, chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề để phù hợp với xu thế thị trường, làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Điều đó cho thấy, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, với thực tế sản xuất là các DNNVV thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, hoạt động sản 16