Luận văn Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam

pdf 91 trang vuhoa 25/08/2022 3240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_hoat_dong_chiet_khau_hoi_phieu_cua_nga.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  TẠ HỒNG HẠNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy HÀ NộI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Tạ Hồng Hạnh
  3. MỤC LỤC LờI CAM ĐOAN DANH MụC CÁC CHữ VIếT TắT MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 6 1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu 6 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu 6 1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 10 1.2.1. Khái niệm hối phiếu 10 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: 14 1.2.3. Phân loại hối phiếu 15 1.2.4. Vai trò của Hối phiếu 18 1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 23 1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 24 1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 27 1.3. Nguyên tắc và phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 29 1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 29 1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 30 1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi. 32 1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn 32 1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu của ngân hàng thương mại 34 1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại và hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 37 Kết luận Chƣơng 1 44
  4. Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 45 2.1 Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại. 45 2.2 Chủ thể tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 50 2.2.1 Bên nhận chiết khấu: 51 2.2.2 Bên được chiết khấu: 52 2.2.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu. 53 1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấu: 53 2.2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu 54 2.3 Hợp đồng chiết khấu hối phiếu 56 2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng chiết khấu hối phiếu 56 2.3.2. Các loại hợp đồng chiết khấu hối phiếu 58 2.3.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu 61 2.3.3.1 Hình thức của hợp đồng chiết khấu hối phiếu 61 2.3.3.2 Nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu 61 Kết luận Chƣơng 2 71 Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 72 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam 72 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam 75 Kết luận Chƣơng 3 82 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT KÍ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1 NHNN : Ngân hàng nhà nước 2 BLDS 2005 : Bộ luật dân sự 2005 3 NHTM : Ngân hàng thương mại 4 ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế Việt Nam sau gần ba mươi năm đổi mới đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn. Việt nam ngày nay được biết đến như một nền kinh tế đang nổi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, ngành tài chính - ngân hàng của Việt Nam những năm trở lại đây đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nền kinh tế đất nước. Nhưng không thể chỉ dừng lại ở đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải nâng cao quy mô và năng lực của mình hơn nữa để có thể bắt kịp với sự phát triển của các ngân hàng trên thế giới. Chính vì vậy, đa dạng hóa và phát triển các hoạt động, dịch vụ ngân hàng là một đòi hỏi cấp thiết của bất cứ ngân hàng nào trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Một trong các sản phẩm dịch vụ đó là chiết khấu hối phiếu. Hoạt động chiết khấu hối phiếu là một trong những nghiệp vụ cấp tín dụng cổ điển của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Nhưng ở nước ta hoạt động chiết khấu hối phiếu tại các ngân hàng thương mại còn diễn ra khá ít, thậm chí có nhiều ngân hàng chưa triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng bằng chiết khấu hối phiếu. Việc ghi nhận hoạt động chiết khấu hối phiếu với tư cách là một trong những hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã tạo ra cơ sở pháp lý ban đầu cho việc xác lập và thực hiện giao dịch này trên thực tế, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tham gia giao dịch. Để điều chỉnh một cách chi tiết và hiệu quả hơn hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng, các nhà làm luật đã cụ thể hóa hoạt động này không những trong các văn bản luật mà còn thể hiện cả ở văn bản dưới luật. Đặc biệt với việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN quy 1
  7. định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã tạo một hành lang pháp lý cụ thể và rõ ràng hơn cho nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, gần đây Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã thay thế Quyết định số 63 nêu trên. Có thể nói, đây là văn bản có nhiều điểm tiến bộ hơn Quyết định số 63, tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực còn các điểm hạn chế nhất định cần khắc phục và hoàn thiện. Hiện nay thị trường hối phiếu cũng như hoạt động chiết khấu Hối phiếu diễn ra chưa phổ biến. Chế tài đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu chưa được qui định cụ thể. Hối phiếu chưa phát huy được vai trò là một loại công cụ chuyển nhượng trên thị trường, là cầu nối trong tín dụng thương mại. Mặt khác trong thực tiễn có rất nhiều học giả nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ kinh tế học, chỉ đơn thuần tìm hiểu nó với tư cách là một nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng với những đặc thù mang tính chất kỹ thuật kinh tế, nhưng lại có rất ít các tài liệu nghiên cứu về bản chất pháp lý cũng như tính ưu việt của hoạt động này khiến cho các ngân hàng thương mại rất ít lựa chọn hình thức này để cấp tín dụng cho khách hàng. Do vậy việc nghiên cứu để làm rõ thực trạng pháp luật, những điểm bất cập và hạn chế, trên cơ sở đó nêu ra các giải pháp hoàn thiện và vận dụng một cách có hiệu quả những quy định của pháp luật về chiết khấu hối phiếu là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển được hoạt động chiết khấu, trên cơ sở đó thúc đẩy hoạt động thương mại của doanh nghiệp Trên đây là lý do tôi chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2
  8. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Cho đến thời điểm hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về hối phiếu như bài báo của TS. Lê Hoàng Nga “Thương phiếu ở Việt nam, đôi điều cần trao đổi - Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 7/2002"; Đỗ Thị Hồng Hạnh “Một số bất cập của các quy định pháp luật về thương phiếu hiện nay - Tạp chí Ngân hàng, số 5/2002”; Lê Văn Hải “Tín dụng thương mại góp phần thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế - Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ số 4/1999”; Nguyễn Hải Hà “Thương phiếu với vấn đề lạnh mạnh hoá hoạt động tiền tệ - Tạp chí Thị trường tài chính 7/1999”; TS.Đinh Dũng Sỹ “Khái niệm thương phiếu và Pháp lệnh thương phiếu – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 7/2000” Ngoài ra, giáo trình Luật Ngân hàng Việt nam, Khoa Luật - ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà nội 2005 cũng đã có những phân tích cụ thể về hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng nói chung và hoạt động chiết khấu Hối phiếu và giấy tờ có giá nói riêng; Bên cạnh đó, cuốn sách của GS. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB. Giáo dục năm 2002; cuốn sách của tác giả Phạm Minh, Luật thương phiếu, Nhà xuất bản thống kê, 2002 cũng thể hiện nghiên cứu sâu về Hối phiếu. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại chưa được phân tích rõ trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Các tác giả mới chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu, chưa nêu bật được thực trạng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam, những bất cập và các giải pháp hoàn thiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động chiết khấu hối phiếu từ khi ban hành Thông tư 04/2013/TT – NHNN. Vì vậy, một công trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề về pháp luật chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt động thương mại trong nền kinh tế và tạo sự luân chuyển vốn nhịp nhàng giữa những người thừa và thiếu vốn. 3
  9. 3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu - Trong khuôn khổ của luận văn, mục đích nghiên cứu của đề tài được xác định như sau: Thứ nhất làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại. Thứ hai nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam, so sánh hoạt động chiết khấu hối phiếu với hoạt động cầm cố hối phiếu của Ngân hàng thương mại, so sánh giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng và chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng để từ đó hiểu hơn về bản chất của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại. Thứ ba phát hiện những điểm bất cập của pháp luật về chiết khấu Hối phiếu để từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các qui định pháp luật về chiết khấu Hối phiếu tại Ngân hàng thương mại Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề như lịch sử hình thành, phát triển của Hối phiếu và pháp luật về Hối phiếu, pháp luật về hoạt động chiết khấu Hối phiếu, vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu đối với ngân hàng và khách hàng; Đánh giá những bất cập trong thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam để từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam. 4
  10. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu sau để làm rõ các nội dung trong đề tài: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn gắn với từng nội dung nghiên cứu của đề tài. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được bố cục thành ba chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam. 5
  11. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu Hối phiếu (bao gồm hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ). Trước đây Hối phiếu được gọi là thương phiếu. Hối phiếu ra đời khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, việc giao lưu buôn bán cả nội địa và quốc tế của các thương nhân diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhưng không phải lúc nào người mua cũng có tiền mặt để thanh toán cho người bán vì vậy mà họ phải tìm ra một giải pháp phù hợp đó là mua bán chịu, tức là thỏa thuận người bán giao hàng trước, còn người mua sẽ thanh toán sau khi nhận hàng với một thời hạn nhất định theo sự thỏa thuận của các bên, từ đó tín dụng thương mại được hình thành và tín dụng thương mại được thể hiện qua việc tạo lập và thanh toán bằng hối phiếu. Hối phiếu chính là một phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt mà các thương nhân đã sáng tạo ra." Hối phiếu ra đời từ thế kỷ XII khi nền kinh tế hàng hóa đã phát triển phá vỡ kiểu sản xuất tự cung tự cấp đã tồn tại hàng ngàn năm" [30]. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại nói chung và hối phiếu nói riêng có vai trò rất to lớn. Một mặt, nó được sử dụng như phương tiện thanh toán để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ mua bán chịu, trả chậm. Mặt khác, thông qua việc phát hành và lưu thông hối phiếu, hối phiếu được sử dụng như một công cụ tín dụng giữa người ký phát và người bị ký phát, giữa người ký phát và người thụ hưởng, giữa người thụ hưởng và ngân hàng chiết khấu. Đồng thời, việc thể hiện quan hệ tín dụng thương mại bằng hối phiếu tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. 6
  12. "Trong lịch sử, hối phiếu được biết đến từ rất xa xưa, như là bản ghi nhận khoản nợ khi các thương gia mua bán hàng hóa chịu. Các thương gia ở thành phố cảng Italia là những người đầu tiên phát hành, sử dụng thương phiếu ở thế kỷ XII. Các chứng chỉ này được ghi nhận là thương phiếu đầu tiên được phát hành và sử dụng" [30]. Việc sử dụng hối phiếu trở thành phổ biến ở thế kỷ XVI, khi hối phiếu đã được chuyển nhượng. Thông qua hình thức chuyển nhượng, hối phiếu đã được sử dụng như một phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại, mua bán hàng hóa. Ngày nay, hối phiếu được sử dụng rộng rãi như là phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại quốc tế và trong quan hệ thương mại nội địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra hối phiếu còn được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch vay nợ quốc tế như là văn bản cam kết nhận nợ và cam kết thanh toán đối với các khoản vay [30]. Cùng với sự phát triển kinh tế, thương mại và công nghệ, hối phiếu ngày càng hoàn thiện hơn về hình thức và nội dung, dần thoát ly khỏi cơ sở kinh tế ban đầu của nó là quan hệ thương mại, nghĩa là, sau khi được ký phát hối phiếu trở thành một loại giấy tờ có giá có hiệu lực độc lập hoàn toàn với giao dịch kinh tế “sản sinh” ra nó. Vì là chứng từ có giá lại chuyển nhượng được, nên hối phiếu không chỉ dừng lại ở quan hệ tín dụng thương mại mà còn được sử dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng, chiết khấu, cầm cố, thế chấp và là phương tiện thanh toán trong các giao dịch khác. Hơn nữa, ngày nay hối phiếu còn trở thành một loại hàng hóa để mua bán trên thị trường tiền tệ, đặc biệt ở một số nước, việc mua bán hối phiếu đã phát triển mạnh thành một thị trường riêng biệt. 1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu Để Hối phiếu trở thành phương tiện thanh toán và nâng cao hiệu quả sử dụng của hối phiếu, ngoài việc phải chứng chỉ hóa hối phiếu thì pháp luật về 7
  13. hối phiếu và các hoạt động thương mại liên quan đến hối phiếu cần phải được ban hành đầy đủ và hoàn thiện hơn. Thực tế thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đã ban hành luật về hối phiếu. Tuy nhiên, ngày nay thương mại quốc tế đã phát triển rất nhiều, từ đó làm phát sinh nhu cầu sử dụng hối phiếu làm phương tiện thanh toán quốc tế gia tăng, do đó nếu không có sự quy định thống nhất pháp luật về hối phiếu trong khi Người ký phát và Người bị ký phát lại ở hai quốc gia khác nhau thì việc sử dụng và thanh toán hối phiếu sẽ rất khó khăn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một Luật quốc tế thống nhất về hối phiếu. Hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Den Haag năm 1912 đã ra kiến nghị về việc cần ký kết một hiệp định giữa các nước, trong đó, các nước thành viên cam kết sẽ soạn thảo và thi hành pháp lệnh hối phiếu ở nước mình. Tại thời điểm đó, Mỹ và Khối liên hiệp Anh đã tự tách khỏi cam kết thống nhất này. Tuy nhiên do xảy ra thế chiến lần thứ nhất nên các nước dự hội nghị không thể đi tới việc ký hiệp định về Luật hối phiếu. Tới năm 1930, hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Geneve, các nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về Luật hối phiếu, gọi là Công ước Geneve 1930 về Luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bills of Exchange – Geneve Convention 1930, ULB 1930). Ngày nay, Luật hối phiếu thống nhất ULB 1930 có hiệu lực tại tất cả các nước (ngoại trừ Anh). Nhiều nước khác mặc dù không tham gia công ước Geneve, nhưng vẫn xây dựng Luật hối phiếu của họ tương thích với ULB 1930, chính điều đó càng làm cho tính hiệu lực quốc tế của ULB ngày càng được thừa nhận trong cuộc sống. Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam "là nền kinh tế tự cung, tự cấp, bế quan tỏa cảng" [30], các quy định pháp luật về kinh doanh thương mại còn chưa được chú trọng ban hành, do đó hối phiếu chưa ra đời ở Việt Nam trong thời kỳ này. 8
  14. Đến thời kỳ pháp thuộc, do thương mại phát triển cho nên luật về thương mại mới được ban hành. Năm 1864, Luật thương mại của Pháp được áp dụng ở Nam kỳ và đến năm 1888 thì được áp dụng ở Bắc kỳ. Ở Trung bộ, triều đình Nguyễn ban hành Bộ Luật thương mại Việt Nam Trung phần năm 1942. Trong thời kỳ này, sau khi phê chuẩn công ước Geneva vào cuối năm 1935, tháng 12 năm 1937 Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã ban hành Nghị định chính thức áp dụng Luật thương phiếu của Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Từ 1945 đến 1954, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đất nước lúc này chia thành hai khu vực, khu vực do thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng và Khu vực kháng chiến. Trong khu vực do thực dân Pháp chiếm đóng thì thương phiếu nói chung và hối phiếu nói riêng vẫn được sử dụng trong cả nội thương và ngoại thương. Còn trong khu vực kháng chiến thì không sử dụng thương phiếu bởi vì lúc đó kinh tế chủ yếu để phục cho kháng chiến, không còn cơ sở cho thương phiếu hình thành và phát triển. Từ năm 1954 đến 1972, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền, Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chịu ảnh hưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa do sự chiếm đóng của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Nam Việt Nam sử dụng thương phiếu theo Luật thương mại của Pháp. Năm 1972, Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã ban hành Luật thương mại, trong đó đã dành riêng một chương quy định về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Chi phiếu (Séc). Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Luật thương mại Sài Gòn 1972 không còn được sử dụng nữa. Từ năm 1954 đến 1999, thương phiếu chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành Hối phiếu đòi nợ đều áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu (ULB 1930). Ngày 24/12/1999, Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của lưu thông thương phiếu tại Việt Nam. Tuy 9
  15. nhiên, sau khi được ban hành, pháp luật Thương phiếu đã bộc lộ nhiều hạn chế, khiến cho pháp lệnh này khó được áp dụng trong thực tiễn. Trước yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi các quy định trong pháp lệnh thương phiếu 1999 để nó phù hợp hơn với các hoạt động thương mại trên thực tế. Vì vậy Luật các công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 đã đánh dấu một bước phát triển mới đối với pháp luật về hối phiếu của Việt Nam. Ngoài ra, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 hiện cũng là cơ sở pháp lý quan trọng, cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, trong đó có Hối phiếu. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa hoạt động chiết khấu Hối phiếu, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ – NHNN quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định này đã được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Có thể nói, các văn bản trên tạo hành lang pháp lý quan trọng để phát triển thị trường Hối phiếu nói chung và hoạt động chiết khấu của ngân hàng thương mại nói riêng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Khái niệm hối phiếu Cho đến hiện nay vẫn còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau về nội hàm của khái niệm hối phiếu: Theo cách hiểu thông thường: Hối phiếu là giấy nợ được lập ra trong một quan hệ thương mại giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với những người không phải thương nhân 10
  16. Theo điều 3 Luật Hối phiếu Anh 1882: Hối phiếu là một lệnh không điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong tương lai một khoản tiền nhất định cho một người xác định hoặc theo lệnh của người này hoặc cho người cầm hối phiếu. Luật hối phiếu của Đức năm 1933 không định nghĩa thế nào là hối phiếu nhưng lại có những quy định rất rõ ràng về các yếu tố cấu thành nên hối phiếu. Cụ thể, tại điều 1 Luật hối phiếu Đức ban hành ngày 21.6.1933 quy định: Một hối phiếu đòi nợ gồm có: - Chữ “Hối phiếu” trong nội dung của chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được sử dụng khi phát hành chứng chỉ; - Chỉ thị thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định; - Họ và tên người phải thanh toán (người bị ký phát); - Hạn định thanh toán hối phiếu; - Địa điểm thanh toán hối phiếu - Họ và tên người được thanh toán hoặc theo lệnh của người này; - Ngày, tháng và địa điểm ký phát; - Chữ ký của người ký phát hối phiếu [3]. Tương tự như vậy Điều 75 Luật hối phiếu Đức 1933 quy định về các cấu thành hối phiếu tự nhận nợ như sau: - Chữ “Hối phiếu” trong nội dung chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được sử dụng khi phát hành chứng chỉ; - Cam kết thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định; - Hạn định thanh toán hối phiếu; - Địa điểm thanh toán hối phiếu; - Họ và tên người được hưởng thanh toán hoặc theo lệnh của người này; - Ngày, tháng và địa điểm ký phát; 11
  17. - Chữ ký của người ký phát [3]. Luật hối phiếu của Singapore năm 1965 định nghĩa về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ như sau: - Hối phiếu đòi nợ là một lệnh yêu cầu thanh toán không điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người xác định hoặc trả cho người cầm hối phiếu [20]. - Một công cụ không phù hợp với các điều kiện trên hoặc một công cụ ra lệnh thực hiện thêm bất kỳ một hành động nào ngoài việc thanh toán tiền không phải là hối phiếu đòi nợ. - Hối phiếu nhận nợ là một cam kết không điều kiện được lập thành văn bản do người lập ký cho một người khác, cam kết sẽ thanh toán ngay khi có yêu cầu hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người cụ thể hoặc cho người cầm hối phiếu. Theo nghĩa của điều này, một công cụ có hình thức giống hối phiếu nhận nợ trả theo lệnh của người ký phát không được coi là hối phiếu nhận nợ, trừ khi được ký hậu bởi người lập hối phiếu. Theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ năm 1995 thì: “Hối phiếu là phiếu qua đó một người (chủ nợ) yêu cầu một người khác (con nợ) trả một món tiền theo kỳ hạn nhất định cho một người thứ ba ” Theo Bộ Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 thì: “Thương phiếu (bao gồm hối phiếu, lệnh phiếu và chi phiếu) là một thứ phiếu có thể chuyển dịch được, dùng để xác nhận cho người cầm phiếu một trái quyền ngắn hạn” Theo Luật thương mại Việt Nam năm 1997 thì: “Thương phiếu (gồm hối phiếu và lệnh phiếu) được hiểu là chứng từ ghi nhận sự thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định”. 12
  18. Theo Pháp lệnh thương phiếu năm 1999 thì: Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tại điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 thì: Hối phiếu bao gồm hai loại là Hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ: - Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. - Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Vậy từ định nghĩa về Hối phiếu trong Luật các công cụ chuyển nhượng cũng như trong các văn bản khác cho thấy Hối phiếu bao gồm hai loại: nhận nợ và đòi nợ, thể hiện một số đặc thù sau: - Một là, hối phiếu là một chứng chỉ có giá, phương tiện thanh toán; - Hai là, hối phiếu ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định; - Ba là, thời hạn thanh toán của hối phiếu là khi có yêu cầu hoặc sau một thời hạn có thể xác định trong tương lai. Về bản chất, hối phiếu là một hành vi pháp lý được thực hiện bởi bên có quyền hoặc bên có nghĩa vụ – để ràng buộc nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với việc thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên chỉ khi hành vi pháp lý ấy được thực hiện dưới hình thức và nội dung theo luật định thì nó mới ràng buộc nghĩa vụ thanh toán hối phiếu của chủ thể đó. Hành vi pháp lý bao gồm: hành vi ký phát hành, ký chấp nhận, ký bảo lãnh (nếu có) và ký chuyển nhượng hối phiếu của người ký phát hành, người bị ký phát, người bảo lãnh, người chuyển nhượng 13
  19. 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: Hối phiếu là một loại giấy tờ có giá, có các đặc điểm cơ bản sau đây: Một là: Hối phiếu được nhìn nhận là trái vụ của một bên, do hối phiếu được hiểu là một lệnh trả tiền hoặc cam kết trả tiền vô điều kiện của người phát lệnh (người ký phát, người phát hành) cho người thụ hưởng. Khi đó câu hỏi được đặt ra là: tính chất vô điều kiện của việc trả tiền được thiết lập đối với ai và thiết lập từ khi nào: Đối với người ký phát: Kể từ khi lập hối phiếu Đối với người bị ký phát: Kể từ khi chấp nhận hối phiếu Đối với người bảo lãnh: Kể từ khi ký bảo lãnh Đối với người nhận chuyển nhượng: Kể từ khi hối phiếu được chuyển nhượng hợp lệ. Hai là: Hối phiếu có tính trừu tượng. Xuất phát từ hình thức và nội dung của hối phiếu, ta thấy trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả hoặc cam kết trả mà không ghi nguyên nhân. Trong lưu thông, giá trị của hối phiếu không bị ràng buộc vào nguyên nhân phát sinh ra nó. Điều đó có nghĩa là khi một hối phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì nó trở thành một chứng thư độc lập và được phép lưu thông mà không phụ thuộc vào việc có tồn tại hay không một giao dịch cơ sở, miễn là trong thời hạn còn hiệu lực. Ba là: Hối phiếu có tính lưu thông (là một công cụ có tính chuyển nhượng) trong thời hạn hối phiếu có hiệu lực, hối phiếu được mua, bán trong giao lưu thương mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với ngân hàng. Bốn là: Hối phiếu là một công cụ thanh toán. Ngoài ra hối phiếu còn là một công cụ tín dụng, nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Các thương nhân sử dụng hối phiếu thay cho tiền mặt vì nhiều mục đích khác, có thể là trong quan hệ mua bán trả chậm có bảo đảm, có thể là nhằm tạo sự thuận lợi cho các bên trong quan hệ kinh doanh mà khi 14
  20. sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không đạt được, vì hối phiếu có thể đem ra mua bán, trao đổi hay đem chiết khấu tại ngân hàng hay lưu thông trong dân sự. Chính đặc điểm này đã giúp hối phiếu ngày càng được sử dụng rộng rãi. Năm là: Hối phiếu có thời hạn thường là ngắn hạn (đến 1 năm). Việc quy định này trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng, thời gian càng dài rủi ro càng lớn, bởi vậy quy định một thời hạn thanh toán ngắn tạo nên một tâm lý an tâm cho thương nhân khi sử dụng và cầm giữ hối phiếu. Mặt khác, việc quy định một thời hạn thanh toán ngắn còn thúc đẩy sự lưu thông hối phiếu, qua đó việc sử dụng hối phiếu trở nên thông dụng hơn. Thời hạn thanh toán ngắn giúp cho người ký phát có thể chuyển nhượng hối phiếu với khả năng thanh khoản cao. 1.2.3. Phân loại hối phiếu - Căn cứ vào người tạo lập hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành: "Hối phiếu đòi nợ là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu" [4]. Hối phiếu đòi nợ được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong các trường hợp sau: Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng phục vụ người mua trả tiền cho người thứ ba. Hối phiếu đòi nợ do người mua lập yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trả tiền cho người bán Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng thanh toán tiền theo thư tín dụng (L/C) Hối phiếu đòi nợ lại có thể chia thành hai loại: 15
  21. Hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát chấp nhận: Là loại hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát ký chấp nhận sẽ thực hiện yêu cầu thanh toán của người ký phát. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu của người bị ký phát chưa hình thành. Nếu Hối phiếu loại này được chuyển nhượng mà đến hạn lại không được thanh toán, thì người thụ hưởng có quyền truy đòi người ký phát Hối phiếu. Hối phiếu đòi nợ đã được người bị ký phát chấp nhận: Sau khi đã ký chấp nhận trên Hối phiếu, người bị ký phát có nghĩa vụ thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền ghi trên Hối phiếu đòi nợ khi đến hạn thanh toán. Điều đó có nghĩa là hành vi chấp nhận đã làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu (một phần hoặc toàn bộ) của người bị ký phát. Hối phiếu nhận nợ là cam kết thanh toán một số tiền nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. - Căn cứ vào thời hạn thanh toán hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành: Hối phiếu thanh toán ngay sau khi xuất trình là loại Hối phiếu có cam kết hoặc được yêu cầu thanh toán khi xuất trình hoặc trên Hối phiếu không qui định thời hạn thanh toán. Hối phiếu thanh toán sau một thời gian xác định Hối phiếu thanh toán vào một ngày cụ thể nhất định Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này vào ngày 30/5/2013. Hối phiếu thanh toán vào một ngày có thể xác định được trong tương lai Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này sau 30 ngày kể từ ngày ký chấp nhận Hối phiếu. Việc qui định thời hạn thanh toán một cách linh hoạt như vậy nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. 16