Luận văn Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_gop_von_bang_quyen_su_dung_dat_trong_s.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN HÙNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang Hà Nội - 2013 1
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị - cơ sở cho sự tồn tại của một quốc gia mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế. Trong giai đoạn đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai không chỉ là tư liệu sản xuất đặc biệt mà còn là nguồn lực quan trọng để thực hiện “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Kể từ khi Luật Đất đai năm 2003 được ban hành thay thế Luật Đất đai năm 1993 đã kế thừa, sửa đổi và tiếp tục quy định giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và cho phép họ được góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất, thuê đất đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để người sử dụng đất phát huy hiệu quả những tiềm năng đất đai trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Mặt khác, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng tạo điều kiện cho người sử dụng đất tiếp cận được các nguồn vốn vay của Nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn, góp phần đắc lực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn. Tuy nhiên đây là những quy định mới nên thực tế áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Tình trạng người cần đất để sản xuất kinh doanh thì không có đất, còn người có đất thì lại để đất hoang phí, làm cho đất chưa được sử dụng một cách hiệu quả và hợp lý. Chính vì tính cấp thiết như vậy đã khiến em chọn đề tài: Tìm hiểu các quy định của pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh làm Luận Văn Cao học chuyên ngành Luật Kinh tế. 2
- 2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cũng như phân tích sâu hơn các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong các văn bản pháp luật nhằm tháo gỡ những khuyết tật của nó. - Cung cấp cơ sở khoa học cho việc ban hành và sửa đổi bổ sung các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất, đồng thời góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai ở nước ta. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu đề tài. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 [1] thì tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác. Vì vậy, ngoài quyền sử dụng đất ra thì tài sản góp vốn còn những thứ khác. Đề tài không nghiên cứu về việc góp vốn nói chung mà tập trung tìm hiểu việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng và một số kiến nghị cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về vấn đề này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: 3
- - Phương pháp luận khoa học của triết học Mác-Lê nin: phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử. - Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, điều tra xã hội, lịch sử 5. Bố cục đề tài. Ngoài Lời nói đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành các chương sau đây: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về việc góp vốn bằng quyền sử dụng dất trong sản xuất, kinh doanh. - Chương 2: Nội dung các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất, kinh doanh. - Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất kinh doanh. Góp vốn trong sản xuất kinh doanh không phải là vấn đề xa lạ đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nói chung, cũng như đối với các chủ thể kinh doanh ở nước ta nói riêng. Nhưng góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý là một điều khá mới mẻ và chưa hề có tiền lệ ở nước ta. Đây là một vấn đề khó và phức tạp, nó đòi hỏi phải tập trung công sức và trí tuệ nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội ở nước ta. 4
- CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRONG SẢN XUẤT, KINH DOANH 1.1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất, kinh doanh. 1.1.1 Cơ sở lý luận. - Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa cao độ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền tự do kinh doanh của công dân và mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết cần xây dựng đồng bộ các yếu tố cấu thành của nền kinh tế thị trường. Đó là thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường quyền sử dụng đất. Giữa thị trường vốn và thị trường quyền sử dụng đất có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Một lượng giá trị có thể luân chuyển từ thị trường quyền sử dụng đất sang quyền thị trường vốn và ngược lại. Thị trường vốn đã hình thành với nhiều hình thức huy động vốn như thế chấp vay ngân hàng hay góp vốn trong điều kiện đất đai được thừa nhận là một tài sản có giá trị. Do vậy, cần có các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất để xác lập nhiều hình thức huy động vốn cho các chủ thể kinh doanh lựa chọn, đồng thời góp phần thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất phát triển mạnh mẽ ở nước ta. - Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được. Giữa đất đai và lao động có mối quan hệ khăng khít. Mác đã nhấn mạnh vai trò của đất đai và sức lao động: “Đất đai là mẹ, sức lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất” [2]. Như vậy, quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất sẽ giúp cho đất 5
- đai tích tụ tập trung vào những hộ gia đình, cá nhân có nguồn lao động dồi dào có khả năng và điều kiện sử dụng đất có hiệu quả. Trên cơ sở đó, tạo ra được nhiều của cải vật chất và cải thiện đời sống của chính những người nhận vốn góp cũng như người góp vốn thông qua việc phân chia lợi nhuận theo tỉ lệ phần trăm vốn góp. - Điều 57 Hiến pháp năm 1992 [3] quy định công dân có “quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”, mà muốn kinh doanh thì một trong những điều kiện vật chất ban đầu là họ phải có vốn. Chính vì vậy, việc quy định cho người sử dụng đất được góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng chính là cụ thể hóa quy định trên đây của Hiến pháp. - Quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai trong nền kinh tế thị trường các nhà làm luật Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn giữa lý luận và thực tế đòi hỏi của cuộc sống. Về mặt nguyên lý đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, không cho phép tư nhân hóa đất đai, mua bán đất đai. Tuy nhiên thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi đất đai phải có sự chuyển dịch. Để giải quyết “bài toán” này, các nhà làm luật nước ta đã tìm ra lời giải là cho phép người sử dụng đất chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Về mặt lý luận, thừa nhận đất đai là một tài sản đặc biệt thì pháp luật cần ghi nhận và bảo hộ góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người sử dụng đất. Bởi lẽ đất đai hội tụ trong bản thân nó các yếu tố giá trị và giá trị sử dụng. Nếu mà không cho phép người sử dụng đất được góp vốn bằng quyền sử dụng đất là một sự vô lý. 6
- Mặt khác, các bất động sản trên đất như nhà xưởng, công trình xây dựng có tính đặc thù là không di dời được, và nó luôn gắn liền với đất. Vì vậy, nếu chỉ cho phép góp vốn bằng các tài sản trên đất mà không cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất là chưa phù hợp với thực tế và gây khó khăn cho đại đa số người dân trong việc “tiếp cận” các nguồn vốn. Trong cơ chế thị trường, đất đai trở thành một yếu tố không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hóa. Đất đai từ chỗ là điều kiện sinh tồn, chuyển thành tư liệu sản xuất - điều kiện vật chất cần thiết của hoạt động sản xuất, kinh doanh và vận động không ngừng, nhằm mang lại nhiều lợi nhuận cho người sử dụng đất. Đây là những điều kiện tiền đề cho việc ra đời quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người sử dụng. 1.1.2 Cơ sở thực tiễn của quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Một là, sau khi xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách về kinh tế. Kinh tế trang trại ra đời là sản phẩm của sự đổi mới các chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển nhằm khai thác có hiệu quả đất trống, đồi núi trọc và đất hoang hóa. Kinh tế trang trại là hình thức sản xuất mới có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. Mà một trong những tiền đề của việc phát triển kinh tế trang trại là nhu cầu vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết nhu cầu này Nhà nước cần quy định cho hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. 7
- Hai là, hiện nay Nhà nước ta thực hiện chính sách “mở cửa” nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được góp vốn liên doanh để sản xuất, kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế do khả năng tài chính hạn chế nên doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn về nguồn vốn trong thực hiện liên doanh đối với các đối tác trong và ngoài nước để sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó, các doanh nghiệp này lại được Nhà nước giao hoặc cho thuê những diện tích đất rất lớn có giá trị hàng ngàn tỉ đồng. Do đó, để giải quyết khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp này được quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Ba là, trên thực tế có một bộ phận gia đình, cá nhân ở nông thôn là các hộ nghèo. Để giúp các hộ gia đình, cá nhân này nâng cao mức sống và giảm sự nghèo đói, Nhà nước thực hiện chủ trương cho các hộ gia đình, cá nhân nghèo được vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư cho sản xuất. Tuy nhiên để vay được nguồn vốn của Nhà nước thì một trong những biện pháp nhằm bảo toàn nguồn vốn cho vay là hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng yêu cầu các hộ gia đình, cá nhân này phải có tài sản thế chấp. Mà đối với các hộ gia đình, cá nhân nghèo không có tài sản có giá trị nào khác ngoài đất đai. Tuy nhiên, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý; người sử dụng đất chỉ được quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài. Vì vậy cho phép các hộ gia đình, cá nhân nghèo được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất của đối tượng sử dụng này. Bốn là, hiện nay nhu cầu về nhà ở đang có chiều hướng ngày càng gia tăng trong xã hội, do Nhà nước xóa bỏ chế độ bao cấp về nhà ở đối với cán bộ, công nhân viên chức khiến số lượng người có nhu cầu về nhà ở tăng lên. Trước đòi hỏi thực tế, nhiều tổ chức kinh tế đã được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê 8
- đất để xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm giải quyết các nhu cầu về nhà ở cho nhân dân. Tuy nhiên để thực hiện được mục đích này, đòi hỏi các tổ chức kinh tế phải có tiềm lực tài chính dồi dào. Các tổ chức kinh tế này thường có xu hướng hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hoặc vay vốn tại các tổ chức tín dụng nhằm huy động các nguồn vốn. Vì vậy phải có các quy định để tạo thuận lợi cho các tổ chức sử dụng đất này được thực hiện việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh. Năm là, Nhà nước thực hiện công khai hóa quy hoạch, kế hoạch, cùng những chính sách thông thoáng khác đã tạo nên sự an tâm cho các tổ chức, cá nhân mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh. Bằng các nguồn vốn khác nhau như tiền mặt, giá trị quyền sử dụng đất các chủ thể trên tham gia vào thị trường ở các mức độ khác nhau, có thể là độc lập tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hay hợp tác với nhau. 1.2. Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong sản xuất, kinh doanh. 1.2.1 Định nghĩa. Luật Đất đai năm 2003 (Điều 109, 110 và Điều 113) [4] đã quy định cho người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, hiện nay khoa học pháp lý nước ta chưa đưa ra một khái niệm chính thức về góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Vậy chúng ta nên hiểu thuật ngữ “góp vốn bằng quyền sử dụng đất” như thế nào cho đúng? 9
- Theo quy định Luật đất đai năm 2003 thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất phải trả tiền sử dụng đất, cho thuê đất mà trả tiền thuê đất cả thời gian thuê hoặc trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 05 năm có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất, cho thuê đất. Như vậy, từ các quy định của pháp luật hiện hành chúng tôi nhận thấy rằng góp vốn bằng quyền sử dụng đất là trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp được Nhà nước cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, và cá nhân trong nước. Qua sự phân tích các quy định của pháp luật về vấn đề này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất như sau: Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức, chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai quy định, theo đó người sử dụng đất góp phần vốn của mình bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức khác ở trong nước hoặc nước ngoài. Vào thời điểm Luật đất đai năm 2003 được ban hành, cơ chế thị trường đang từng bước được xác lập và các quan hệ đất đai bắt đầu vận động trong cơ chế mới. Các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất chưa được pháp luật đề cập. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của tình hình kinh tế - xã hội, pháp luật đất đai được bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Qua hai lần sử đổi bổ sung Luật đất đai năm 1993 vào các năm 1998, 2001 và Luật Đất đai năm 2003, các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất được xây dựng và dần hoàn thiện thông qua việc ban hành các Nghị định quy định về điều kiện, trình tự và thủ tục của việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất. 10
- 1.2.2 Đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Qua nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề góp vốn bằng quyền sử dụng đất, chúng tôi nhận thấy nó có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, để có thể thực hiện việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì trước tiên hộ gia đình, cá nhân phải có quyền sử dụng đất hợp pháp. Điều đó có nghĩa là họ phải được Nhà nước giao hoặc cho thuê hoặc nhận chuyển quyền một cách hợp pháp. Thứ hai, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước. Đây là một trong những quyền mà pháp luật quy định cho người sử dụng đất trong nước. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam thì không được pháp luật cho hưởng quyền này. Trong khi đó pháp luật không hạn chế đối với bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi góp vốn bằng các tài sản để sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, do ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước sử dụng ổn định lâu dài nên đối tượng của quan hệ góp vốn là quyền sử dụng đất chứ không phải là bản thân đất đai. Sau khi góp vốn để sản xuất, kinh doanh thì quyền sử dụng đất trở thành tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp phá sản thì quyền sử dụng đất này bị xử lý để giải quyết các khoản nợ. Thứ tư, giá trị vốn góp được xác định không chỉ bao gồm quyền sử dụng đất mà cả giá trị tài sản thuộc sở hữu của bên góp vốn gắn liền với đất. Bởi vì, thực tế sử dụng đất cho thấy đất đai luôn gắn liền với các tài sản trên đất và trong 11
- nhiều trường hợp giá trị của các tài sản này được thừa nhận chỉ khi nó gắn liền với đất. Thứ năm, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất không làm thay đổi quan hệ sở hữu đất đai, bởi lẽ trong quan hệ góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì người góp vốn không phải là chủ sở hữu đất đai. Ngược lại, đối với các quan hệ góp vốn bằng các tài sản khác thì người góp vốn đồng thời là chủ sở hữu các tài sản này. Do đó, khi doanh nghiệp bị phá sản, thì có sự thay đổi chủ sở hữu đối với các tài sản này thông qua việc xử lý phần tài sản vốn góp. Thứ sáu, việc góp vốn bằng các tài sản khác được thực hiện theo ý chí của chủ sở hữu và không bị pháp luật hạn chế về các điều kiện thực hiện. Còn đối với trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất hoặc cho thuê đất. Thứ bảy, khoa học pháp lý nước ta quan niệm quyền sử dụng đất được coi là một loại quyền về tài sản và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý xác định quyền về tài sản của người sử dụng đất, nên việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi người sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Hơn nữa việc góp vốn này có thể bị chấm dứt bởi ý chí của Nhà nước khi các bên vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật. Thứ tám, xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của đất đai đối với con người và do đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý nên việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thứ chín, giá trị của các tài sản khác đem đi góp vốn do các bên thỏa thuận, trong khi đó thì đối với trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì pháp luật quy định giá trị quyền sử dụng đất góp vốn do các bên thỏa thuận, nhưng không thấp hơn khung giá đất do Nhà nước ban hành. 12
- 1.2.3 Ý nghĩa của việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Trong những năm đầu thực hiện công cuộc “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước, việc pháp luật quy định cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất có một ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm giúp người sử dụng đất giải quyết các nhu cầu về vốn để mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Quy định này góp phần chuyển quan hệ đất đai từ trạng thái “tĩnh” (giao đất-thu hồi đất) sang trạng thái “động”, đất đai từ chỗ chỉ là nơi cư trú của cộng đồng, trở thành một nguồn lực to lớn để phát triển đât nước. Mặt khác, việc tổ chức hộ gia đình, cá nhân được góp vốn bằng quyền sử dụng đất đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc “tiếp cận” các nguồn vốn vay để đầu tư cho sản xuất, đồng thời giúp hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng ở nước ta mở rộng tối đa phạm vi và đối tượng cho vay, nâng cao hiệu quả đồng vốn vay, góp phần trực tiếp vào công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta. 1.3.1 Giai đoạn trƣớc khi ban hành Luật Đất đai năm 1993. Sau khi thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quốc hữu hóa đất đai “mỗi bước tiến của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ thuật bóc lột người lao động mà còn là một bước tiến về mặt 13
- làm cho đất đai bị kiệt quệ” [5] , chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta không nhận sự tồn tại của tình trạng người bóc lột người. Để thực hiện điều này thì chúng ta phải xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nói chung vào chế độ tư hữu nói riêng. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1980 [6] đã quy định: “đất đai, rừng núi, sông hồ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 19). Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa, tập trung. Quan hệ đất đai trong thời kỳ này mang nặng cơ chế “xin - cho”, Nhà nước quản lý đất đai theo phương pháp mệnh lệnh, hành chính. Pháp luật đất đai trong thời kỳ này không cho phép mua bán, chuyển nhượng đất đai. Với cách thức quản lý đất đai như vậy, nên người sử dụng đất không được quyền làm chủ thực sự đối với đất đai. Chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh chưa ra đời trong thời kỳ này. Quán triệt đường lối đổi mới mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã xác định, pháp luật đất đai đã có những thay đổi quan trọng, đánh dấu bằng việc ra đời của Luật đất đai năm 1987 và Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ngày 05/4/1988. Luật đất đai năm 1987 [7] đã cụ thể hóa nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý của Hiến pháp năm 1980. Tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đã được pháp luật cụ thể hóa một bước cho phù hợp với việc sử dụng từng loại đất cụ thể. Đặc biệt Luật đất đai năm 1987 đã quy định rõ các quyền của người sử dụng đất, như sử dụng ổn định lâu dài, được hưởng thành quả lao động trên đất nhưng quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì chưa được ghi nhận trong Luật đất đai năm 1987. 14
- 1.3.2 Giai đoạn ban hành Luật Đất đai năm 1993 đến trƣớc khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998. Ngày 14/7/1993 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua toàn văn Luật Đất đai [8], (sau đây gọi tắt là Luật Đất đai năm 1993) thay thế Luật Đất đai năm 1987, vì nó đã bộc lộ nhiều quy định không còn phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình kinh tế-xã hội của đất nước. Với chủ trương đưa đất đai tham gia vào quan hệ thị trường, coi đó là một động lực quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, Luật Đất đai năm 1993 đã quy định về các quyền của người sử dụng đất như chuyển đổi, chuyền nhượng cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, nhưng chưa đề cập đến quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã thu hút được một nguồn đầu tư nước ngòai góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, do khả năng tài chính của phần lớn các đối tác Việt Nam còn hạn chế, gây khó khăn, trở ngại khi liên doanh với các đối tác nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Mặt khác, do Luật Đất đai năm 1993 chưa có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Nên ngày 14/10/1994 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh quyền và nghĩa vụ của các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất, và được sửa đổi, bổ sung một số điều ngày 27/8/1996 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1994, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1996) nhằm bổ sung, điều chỉnh các lĩnh vực mà Luật Đất đai chưa quy định. Căn cứ vào mục đích, thời hạn, cách thức thanh toán tiền sử dụng đất, Pháp lệnh năm 1994 phân loại các tổ chức trong nước thành: các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng và các tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất. Các quyền và nghĩa vụ (trong đó có quyền góp vốn 15
- bằng quyền sử dụng đất) của tổ chức trong nước sử dụng đất được xác định tương ứng với mục đích sử dụng đất và việc thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước của các tổ chức này. Như vậy, chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất lần đầu tiên được ra đời tại Pháp lệnh năm 1994. Theo điều 4 của Pháp lệnh này thì các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp quốc phòng-an ninh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức kinh tế tập thể được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối có quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước; với tổ chức, cá nhân nước ngoài để tiếp tục sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, mở rộng công nghiệp chế biến, dịch vụ nhằm phát triển sản xuất theo quy định của Chính phủ. Và theo điều 10 “Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp quốc phòng an ninh trong thời hạn cho thuê đất có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước; với tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của Chính phủ”. Mặc dù một trong những căn cứ để phân loại các tổ chức sử dụng đất ở trong nước là nghĩa vụ “phải trả tiền hay không trả tiền sử dụng khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất” song các quy định của Pháp lệnh năm 1994 lại không “cá biệt hóa” quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất của từng loại tổ chức theo căn cứ này. Do vậy đã dẫn đến tình trạng “cào bằng” về quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của từng loại tổ chức sử dụng đất nói chung và quyền được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nói riêng. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1996 ra đời đã khắc phục các thiếu sót trên bằng việc “cá biệt hóa” quyền của từng loại tổ chức được Nhà nước giao đất theo hướng: mở rộng 16
- quyền cho các tổ chức Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1996 lại chưa quy định cụ thể quyền của từng loại tổ chức được Nhà nước cho thuê đất theo hướng “cá biệt hóa” tương ứng với cách thức trả tiền thuê đất. Đây cũng là một khiếm khuyết cản trở các quan hệ đất đai phát triển. Năm 1996, Luật Đầu tư nước ngoài [10] tại Việt nam cũng được ban hành. Trong đó ghi nhận quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất của bên Việt Nam trong liên doanh: “Bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 85/CP ngày 17/12/1996 quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1996. Nghị định này không chỉ quy định cụ thể việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà còn đưa ra căn cứ để xác định giá trị quyền sử dụng đất, đó là tiền thuê đất hay thỏa thuận trên cơ sở khung giá tìên đất do Nhà nước ban hành. Mặc dù vậy, vấn đề xác định giá trị quyền sử dụng đất là một vấn đề phức tạp nên Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 70 TC/QLCS ngày 07/10/1997 [11] hướng dẫn việc nộp tiền thuê đất góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất của các tổ chức trong nước. Tại thông tư này, việc xác định giá trị quyền sử dụng đất được quy định chi tiết hơn so với Nghị định số 85/NĐ-CP. Trong giai đoạn này, quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân chưa được đề cập tới. Điều này tạo sự bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể sử dụng đất đai và gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, cá nhân. 1.3.3 Giai đoạn từ khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 đến Luật Đất đai năm 2003. Đất đai là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, sau hơn 05 năm thi hành Luật Đất đai năm 1993 bên cạnh những thành công nhất định còn bộc lộ những 17
- mặt hạn chế chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường. Thực tế đòi hỏi Nhà nước cần phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung Luật đất đai để khắc phục những hạn chế này và thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày 02/12/1998, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 [12] (sau đây gọi là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998). Theo đó quyền của các đối tượng sử dụng đất cũng có nhiều sửa đổi, bổ sung, đặc biệt lần đầu tiên quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người sử dụng đất được ghi nhận trong Luật Đất đai. Mặc dù Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/1993, nhưng không có văn bản hướng dẫn thi hành nên năm quyền năng của hộ gia đình, cá nhân đối với đất đai cũng không thể hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Thị trường quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân đã có thể chế nhưng cuộc sống chưa được tiếp nhận. Mặt khác, Luật Đất đai năm 1993 chưa đề cập cơ chế tham gia thị trường quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, ngày 14/10/1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Quyền và Nghĩa vụ của tổ chức kinh tế trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và Pháp lệnh về Quyền và Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về chế độ quản lý, sử dụng đất phi nông nghiệp và cụ thể hóa về quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế sử dụng đất. Qua các quy định trong những văn bản này, có thể thấy thị trường quyền sử dụng đất mới chỉ được xác lập như một yếu tố gắn thị trường các tài sản đã đầu tư trên đất thuê của Nhà nước. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc khóa VIII [13] đã quyết định chủ trương đổi mới chính sách đất đai và thị trường bất động sản với nội dung là: 18
- Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không tư nhân hóa, không cho phép mua bán đất đai. Thực hiện đúng Luật Đất đai, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính sách về đất đai. Trong việc giao quyền sử dụng đất hay cho thuê đất phải xác định đúng giá các loại đất có hiệu quả, duy trì và phát triển quỹ đất, đảm bảo lợi ích toàn dân. Khắc phục tình trạng đầu cơ đất và những tiêu cực, yếu kém trong quản lý và sử dụng đất. Năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội ban hành, trong đó đã bổ sung quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; bổ sung các trường hợp tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất và quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Quy định hộ gia đình, cá nhân thuê đất mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê có quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình gắn liền với đất thuê để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của pháp luật. Luật này cũng quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tiếp tục và mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, mở rộng công nghệ chế biến, dịch vụ nhằm phát triển sản xuất theo quy định của Chính phủ. Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất có quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản gắn liền với đất đó để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật. Đối với doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cho thuê đất mà đã trả tiền thuê đất hàng 19