Luận văn Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiển ngành thủy sản tỉnh Cà Mau
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiển ngành thủy sản tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_giai_quyet_viec_lam_tu_thuc_tien_nganh.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiển ngành thủy sản tỉnh Cà Mau
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HUỲNH VĂN ĐẬM PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TỪ THỰC TIỂN NGÀNH THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HUỲNH VĂN ĐẬM PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TỪ THỰC TIỂN NGÀNH THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Dương Anh Sơn TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi tên Huỳnh Văn Đậm, mã số học viên là 7701250431A, là học viên lớp Cao học Luật Kinh tế Khóa 25 - Cà Mau (LOP_K25_MBL_CaMau; Khóa K25-2), chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiễn ngành thủy sản tỉnh Cà Mau” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Huỳnh Văn Đậm
- MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Tổng quan pháp luật về giải quyết việc làm 5 1.1. Việc làm và những nhân tố ảnh hưởng tới việc làm trong ngành thủy sản 6 1.1.1. Quan niệm về việc làm 6 1.1.1.1. Dưới góc độ kinh tế xã hội 6 1.1.1.2. Dưới góc độ pháp lí: 6 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc làm: 9 1.1.2.1 Trên bình diện kinh tế -xã hội: 9 1.1.2.2 Trên bình diện chính trị - pháp lí: 10 1.1.2.3 Trên bình diện quốc gia - quốc tế: 10 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm 11 1.1.3.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên 11 1.1.3.2. Tư liệu lao động và các phương tiện vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất 11 1.1.3.3. Nguồn lực lao động và chất lượng lao động 12 1.1.3.4. Thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất 12 1.1.3.5. Cơ chế chính sách của Nhà nước 13 1.1.4. Đặc điểm việc làm trong ngành thủy sản 14 1.2. Những hình thức tạo việc làm trong ngành thủy sản 14 1.2.1. Nuôi trồng 15 1.2.2. Khai thác 15 1.2.3. Chế biến thuỷ hải sản 16 Kết luận chương 1 17 Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau và kiến nghị hoàn thiện 18 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người tỉnh Cà Mau có ảnh hưởng đến tạo việc làm 18 2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Cà Mau 18 2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên 18 2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế 19
- 2.1.1.3. Đặc điểm xã hội 20 2.1.2. Ngành thủy sản tỉnh Cà Mau 21 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật đối với lao động trong ngành thủy sản ở Cà Mau 24 2.2.1. Thực trạng lao động và đào tạo lao động trong ngành thủy sản Cà Mau24 2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật lao động trong ngành thủy sản 28 2.3. Đánh giá chung thực trạng hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thủy sản Cà Mau 34 2.3.1. Về thành tựu 34 2.3.2. Những hạn chế 35 2.3.3. Nguyên nhân 36 2.4. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới 36 2.4.1. Tình trạng vừa thừa vừa thiếu, bất hợp lý về cơ cấu trình độ đào tạo của nguồn nhân lực 36 2.4.2. Tiềm năng nhân lực còn bị lãng phí, phân bổ sử dụng chưa hợp lý và hiệu quả sử dụng chưa cao trong khi yêu cầu khai thác sử dụng rất lớn 37 3: Một số kiến nghị hoàn thiện 38 3.1. Phương hướng hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thủy sản Cà Mau 38 3.2. Một số giải pháp nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thủy sản Cà Mau 41 3.2.1. Giải pháp về nguồn nhân lực 41 3.2.1.1. Nâng cao nghiệp vụ và năng lực làm việc của lao động ngành thủy sản: 41 3.2.1.2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực 42 3.2.1.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách và chế độ khuyến khích động viên người lao động trong ngành thủy sản thỏa đáng 42 3.2.1.4. Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực 43 3.2.1.5. Chính sách về lao động- tiền lương 44 3.2.1.6. Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng những nhu cầu kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế 45 3.2.2. Giải pháp sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách 46 3.2.2.1. Chính sách đất đai: 46 3.2.2.2. Chính sách thuế: 47
- 3.2.2.3. Chính sách tài chính, tín dụng: 48 3.2.2.4. Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực: 48 3.2.2.5. Chính sách hỗ trợ về khoa học - công nghệ: 50 3.2.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách về lao động- tiền lương 51 3.2.4. Giải pháp về huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng 52 3.2.5. Giải pháp đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ 53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta cùng vớiviệc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng được đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho việc hình thành và phát triển thị trường lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động, nhất là chuyển đổi lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp - nơi có năng suất lao động thấp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên đáp ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp; tiêu chuẩn lao động cơ bản được bảo đảm, quan hệ lao động hình thành và hướng đến sự hài hòa ổn định; vấn đề an sinh xã hội, nhất là việc bảo đảm ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế, bị tác động trong quá trình công nghiệp hóa, của nền kinh tế thị trường được đặt ra và có sự quan tâm nhất định. Hệ thống chính sách, pháp luật lao động đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả để phát triển và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng tốt hơn cơ hội của thời kỳ dân số vàng cho sự nghiệp phát triển đất nước. Hiện nay quy định của pháp luật lao động về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động trong doanh nghiệp bao gồm: đào tạo nghề cho người lao động trước khi sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp. Những nội dung này chủ yếu được quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Dạy nghề năm 2016; Nghị định 119/2014/NĐ-CP hướng dẫn bộ luật lao động, luật dạy nghề, luật người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo; Nghị định số 03/2014/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về việc làm; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Nhìn chung các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động hiện nay là phù hợp, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng lao động, từ đó nâng cao chất lượng quản trị nhân sự trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng còn một vài nội dung quy định gây khó khăn, vướng mắc hoặc lúng túng cho các doanh nghiệp trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn quản trị nhân sự, nhất là trong việc ràng buộc trách nhiệm của người lao động
- 2 và trách nhiệm bồi thường chi phí đào tạo của người lao động cho doanh nghiệp khi vi phạm cam kết làm việc cho doanh nghiệp. Cà Mau là tỉnh trọng điểm về khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy, hải sản. Sản phẩm thủy, hải sản của tỉnh được xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế tỉnh thì hoạt động nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau đóng vai tṛ rất quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh Cà Mau ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Cà Mau giai đoạn 2011 - 2015. Nguồn nhân lực của tỉnh đã được nâng lên một bước cả về số lượng và chất lượng. Lao động qua đào tạo tăng nhanh, đạt 40%, riêng đào tạo nghề chiếm 26,6% tổng số lao động, có 150 sinh viên trên 01 vạn dân. Chất lượng và hiệu quả lao động sau đào tạo tăng dần. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh phù hợp với cơ cấu kinh tế, cơ bản đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động. Số lượng cán bộ, công chức, giáo viên, giảng viên có trình độ đại học và sau đại học tăng lên. Tỉnh đã đạt và duy trì chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở và thí điểm phổ cập giáo dục trung học phổ thông ở các thị trấn, thị xã, thành phố. Tuy nhiên, lao động của Cà Mau trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhưng phần lớn là dạy nghề ngắn hạn; trình độ trung cấp và cao đẳng nghề còn thấp, kỹ năng nghề nghiệp chỉ đáp ứng cho các ngành, nghề có nhu cầu lao động đơn giản. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là Nhà nước chưa quản lý được lao động xã hội, chưa nắm bắt được nhu cầu xã hội dẫn đến không dự báo được hoặc dự báo chưa chính xác cung - cầu lao động. Đầu tư cho lĩnh vực dạy nghề chưa tương xứng với yêu cầu; cơ cấu, chất lượng đào tạo một số ngành, nghề chưa phù hợp yêu cầu xã hội; cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề còn thiếu, một số đã lạc hậu hoặc chưa phù hợp theo nhu cầu đào tạo bậc cao. Đặc biệt, trong ngành thủy sản, chất lượng nguồn nhân lực vừa yếu, vừa thiếu lại không ổn định. Theo dự báo, nhóm ngành nghề nông nghiệp và ngư nghiệp đang có nhu cầu lao động cao, điều này ảnh hưởng đến yêu cầu tăng năng suất lao động và việc làm bền vững. Tuy nhiên, làm thế nào để lao động ở Cà Mau đáp ứng được về chất lượng và yêu cầu của xã hội lại rất cần sự vào cuộc của các cơ quan chắc năng. Dưới góc nhìn của pháp luật Lao động; Luật Việc làm và các quy định khác của
- 3 pháp luật về việc làm nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị về kinh tế - xã hội ở địa phương. Chính vì thế, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết việc làm từ thực tiễn ngành thủy sản tỉnh Cà Mau” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật đối với lao động trong ngành chế biến thủy sản ở Cà Mau. Thông qua đó đề xuất một số định hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật để hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau 2.2. Mục tiêu cụ thế - Hệ thống hoá chọn lọc một số kiến thức lý luận về phát triển nâng cao chất lượng lao động. - Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau trong những năm qua. - Thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật đối với lao động trong ngành chế biến thủy sản ở Cà Mau - Đề xuất định hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật để hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan đến quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản - Về không gian: Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh sử dụng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau - Về thời gian: Các số liệu phục vụ đánh giá thực trạng chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau từ năm 2014 – 2016. Từ đó có các định hướng và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau; tầm nhìn đến năm 2020.
- 4 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý thuyết lao động và việc làm hiện đại. Nhằm đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau, đề tài đã sử dụng kết hợp những phương pháp bao gồm Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn nhằm cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực trạng chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau trong những năm qua. Bên cạnh đó nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng pháp luật đối với lao động trong ngành chế biến thủy sản ở Cà Mau. Từ đógópphần có những định hướng thiết thực nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau - Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh đặc biệt là ngành thuỷ sản có thể tham khảo để thực hiện tốt và ban hành các chính sách và quy định pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thuỷ sản Cà Mau 6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu Với đề tài trên, tôi đặt các câu hỏi nghiên cứu chính sau đây: - Tỉnh Cà Mau áp dụng các quy định của pháp luật để đào tạo và hỗ trợ để nâng cao chất lượng lao động trong ngành chế biến Thủy sản hiện nay như thế nào? - Thực trạng về chính sách tạo việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau trong thời gian qua ra sao? Giải pháp hoàn thiện như thế nào? 6.2. Giả thuyết nghiên cứu - Một số chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành Thủy sản Cà Mau hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập. Đặc biệt các
- 5 chính sách về hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực còn bao quát và chưa phù hợp với thực tiễn tại các doanh nghiệp thủy sản Cà Mau - Để hoàn thiện chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ và nâng cao chất lượng lao động trong ngành thủy sản Cà Mau cần đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm góp phần nâng cao chất lượng lao động trong ngành thủy Sản Cà Mau 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm 2 chương với nội dung cơ bản như sau: Chương 1: Tổng quan pháp luật về giải quyết việc làm Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm trong ngành thuỷ sản tỉnh Cà Mau và kiến nghị hoàn thiện.
- 6 Chương 1: Tổng quan pháp luật về giải quyết việc làm 1.1. Việc làm và những nhân tố ảnh hưởng tới việc làm trong ngành thủy sản 1.1.1. Quan niệm về việc làm 1.1.1.1. Dưới góc độ kinh tế xã hội Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trong nhất của thế giới nói chung và con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm. Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu của bản thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia công việc nào đó để được trả công hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm như dùng các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm những công việc cho hộ gia đình mình. Ngoài vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của xã hội Sở dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phải là vấn đề mà lúc nào mỗi cá nhân người lao động (NLĐ) cũng quyết định được. Sự phát triển quá nhanh của dân số, mức độ tập trung tư liệu sản xuất ngày càng cao vào tay một số cá nhân dẫn đến tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người không có khả năng tự tạo việc làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân phải huy động mọi khả năng của bản thân để tự tìm việc làm cho mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm. Tóm lại, xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận. 1.1.1.2. Dưới góc độ pháp lí: * Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Theo Tổ chức Lao động Quốc tế người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Các công ước của ILO về mặt pháp lý có tính chất khuyến nghị về các chính sách việc làm, thất nghiệp, cũng như điều kiện lao động cho các quốc gia tham gia
- 7 công ước. Ngoài ra, nó còn có tính chất định hướng cho các quốc gia trong việc xây dựng các quy định của pháp luật lao động về vấn đề việc làm và lựa chọn việc làm. Trong thời gian vừa qua, ILO đã thể hiện được các tác động tích cực trong việc kêu gọi các nước thành viên khi giải quyết việc làm phải hướng tới các cấp độ hiệu quả khác nhau như Công ước số 122, năm 1964 về chính sách việc làm (1), ILO kêu gọi các quốc gia thành viên khi giải quyết việc làm thì phải bài bảnđầyđủ hướng tới các cấp độ hiệu quả khác nhau ILO còn đưa ra khái niệm "việc làm nhân văn" được xuất phát từ việc đấu tranh cho sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về vấn đề việc làm, nhằm tạo sự bình đẳng về việc làm và mang lại chất lượng việc làm cao hơn. Khái niệm "việc làm nhân văn" là khá mới mẻ và là khái niệm chứa đựng nhiều giá trị tốt đẹp cho việc ra các quyết định, chính sách về việc làm của ILO và các quốc gia trong những năm gần đây, là một bước tiến lớn và đánh dấu sự thay đổi to lớn về nhận thức của loài người về vấn đề việc làm. Các đại biểu ở cuộc họp khu vực châu Á lần thứ 13 của ILO tổ chức tại Bangkok năm 2001 đã công nhận tầm quan trọng của việc làm nhân văn trong cải thiện chất lượng cuộc sống của người lao động trong khu vực và hỗ trợ phát triển kinh tế của các nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hội nghị đã khuyến nghị các nước thành viên xây dựng chương trình hành động quốc gia về Việc làm nhân văn thông qua cơ chế ba bên với 4 yếu tố cấu thành là quyền tại nơi làm việc, cơ hội có việc làm chất lượng, bảo đảm xã hội và đối thoại xã hội. ILO cũng đã thông qua nhiều Công ước và khuyến nghị nhằm giải quyết tốt hơn việc làm cho người lao động. Điển hình là Công ước số 88 và Khuyến nghị số 83 đã quy định về những tiêu chuẩn, chức năng và việc tổ chức các trung tâm dịch vụ việc làm ở các quốc gia. Về chính sách việc làm đã có Công ước số 122, về hoạt động xúc tiến việc làm và bảo vệ thất nghiệp có Công ước số 163 v.v Như vậy, cho đến thời điểm này, quốc tế và từng quốc gia đã xác định được vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề cơ bản trong đời sống kinh tế xã hội, mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động là mục tiêu cơ bản và hướng tới của các quốc gia. * Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm theo pháp luật Việt Nam Điều 57 Hiến Pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.”(2) (1).Công ước số 122, năm 1964 về chính sách việclàm (2) Hiến pháp năm 2013
- 8 Từ quan niệm nay đã mở ra bước chuyển căn bản trong nhận thức về việc làm. Trên cơ sở này, Bộ luật Lao động Việt Nam đã quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 13 Bộ luật lao động)(3). Khái niệm trên nói chung khá bao quát, nhưng chúng ta cũng thấy rõ hai hạn chế cơ bản. Thứ nhất, hoạt động nội trợ không được coi là việc làm, trong khi đó hoạt động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không hề nhỏ. Thứ hai, khó có thể so sánh tỷ lệ người có việc làm giữa các quốc gia với nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau, phụ thuộc vào luật pháp, phong tục tập quán. Có những nghề ở quốc gia này thì đượccho phép và được coi là việc làm, nhưng ở quốc gia khác, ví dụ đánh bạc ở Việt Nam bị cấm, nhưng ở Thái Lan và Mỹ lại được coi là một nghề. Thậm chí nghề này rất phát triển, vì nó thu hút khá đông tầng lớp thượng lưu. Tóm lại, dưới góc độ pháp lý, việc làm được hiểu là hoạt động hợp pháp, tạo ra thu nhập chính đáng nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân, quan niệm việc làm cũng bao hàm cả việc làm của những người nội trợ gia đình, tuy họ không tạo ra nguồn thu nhập trực tiếp nhưng cũng được pháp luật thừa nhận là việc làm vì nó đã gián tiếp tạo ra nguồn thu nhập góp phần vào việc ổn định gia đình và xã hội. Người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm phù hợp với nguyện vọng và sở trường của mình, họ cũng có quyền tự do giao kết hợp đồng lao động và làm nhiều công việc khác nhau miễn là không ảnh hưởng đến nhau và không vi phạm các điều cấm của pháp luật. Ngược lại, người sử dụng lao động cũng có quyền tự do tuyển dụng lao động và chấm dứt hợp đồng lao động với bất cứ ai trong phạm vi và giới hạn pháp luật không cấm. Họ cũng có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm để tuyển chọn lao động vào làm việc, quan điểm này đã đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường, các quy luật của thị trường lao động và có tác động tích cực đối với nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề việc làm và lao động đã được luật hóa và việc giải quyết việc làm dưới góc độ pháp lý chính là việc Nhà nước ban hành các chính sách để thực thi pháp luật lao động về việc làm bằng các cơ chế pháp luật góp phần tạo ra việc làm cho người lao động, đảm bảo đời sống cho họ cũng như góp phần ổn định an ninh, chính trị, trật tự xã hội, đưa đất nước ta ngày càng giàu đẹp, nhân dân ấm no, hạnh phúc (3)Trích Điều 13 Bộ luật lao động năm 2012
- 9 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc làm: 1.1.2.1 Trên bình diện kinh tế -xã hội: Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, ), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp ). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có. Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bềnvững, ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động. Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội, không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu
- 10 nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị. Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này. 1.1.2.2 Trên bình diện chính trị - pháp lí: Hậu quả của việc thất nghiệp, thiếu việc làm không những ảnh hưởng tới kinh tế- xã hội mà còn đe dọa lớn đối với an ninh vã sự ổn định của mỗi quốc gia Chính vě vậy ở bất kě quốc gia nŕo, việc lŕm đã, đang và luôn là vấn đề gay cấn nhạy cảm đối với từng cá nhân, từng gian đình đồng thời cũng là vấn đề xã hội lâu dài, vừa cấp bách nếu không được giải quyết tốt có thể trở thành vấn đề chính trị. Còn trên bình diện pháp lý, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con người, đóng vai trò là cơ sở hình thành, duy trì và là nội dung của quan hệ lao động. Khi việc làm không còn tồn tại, quan hệ lao động cũng theo đó mà triệt tiêu, không còn nội dung, không còn chủ thể. 1.1.2.3 Trên bình diện quốc gia - quốc tế: Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và giải quyết việc làm là bộ phận có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các chính sách xã hội nói riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung. Chính sách xã hội của nhà nước ở hầu hết các quốc gia đều tập trung vào một số các lĩnh vực như thị trường lao động, bảo đàm việc làm, bhxh Chính sách việc làm là chính sách cơ bản nhất của quốc gia, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, vấn đề lao động việc làm không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà nó còn có tính toàn cầu hóa, tính quốc tế sâu săc. Vấn đề hợp tác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng được đặt ra đồng thời với việc chấp nhận lao động ở nước khác đến làm việc tại nước mình. Điều này giúp cân bằng lao động. Lao động từ nước kém phát triển sang làm việc ở nước phát triển, từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao động. Trong thị trường đó, cạnh tranh không chỉ còn là vấn đề giữa những NLĐ mà còn trở thành vấn đề giữa các quốc gia. Từ đó vấn đề lao động việc làm còn được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng chi phối của các công ước quốc tế về lao động. Các nước dù muốn hay không cũng phải áp dụng hoặc tiếp cận với những “luật chơi chung” và “sân chơi chung” càng ngày càng khó khăn và quy mô hơn.
- 11 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm 1.1.3.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên trong ngành thủy sản bao gồm: đất đai và những tài nguyên thiên nhiên khác. Nếu nơi nào tài nguyên thiên nhiên càng phong phú và đa dạng thì càng dễ cho người lao động có những cơ sở điều kiện tự tạo việc làm cho các cá nhân, gia đình họ. Nếu ngược lại nơi nào có tài nguyên thiên nhiên ít và kém đa dạng thì sẽ khó khăn cho lao động tìm việc làm cũng như tạo việc làm cho họ như: ở những vùng có rừng có biển, những vùng gần sông, rạch thuỷ triều ổn định thì người lao động có thể tự tạo việc làm bằng nghề khai thác (đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản ) cùng với đó, ở những nơi tài nguyên thiên nhiên càng phong phú, đa dạng thì cơ cấu ngành nghề ở nơi đó cũng rất đa dạng thì khi đó càng thuận tiện cho người lao động trong việc tìm kiếm việc làm cũng như tạo việc làm cho chính bản thân mình. Đồng thời tài nguyên thiên nhiên còn là lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những nước có điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi sẽ có lợi thế để thu hút các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tham gia bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ. Từ đó thuận lợi cho việc giải quyết việc làm cho người lao động. 1.1.3.2. Tư liệu lao động và các phương tiện vật chất phục vụ cho quá trình sản xuất Tư liệu lao động là các loại công cụ lao động từ thủ công, nửa cơ khí, cơ khí hiện đại mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đối tượng lao động theo mục đích của con người. Tư liệu lao động bao gồm các công cụ lao động trực tiếp tác động vào đối tượng lao động và bộ phận phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình sản xuất như: nhà xưởng, cầu cảng, phương tiện vậntải, điện, nước, thông tin liên lạc đây là những phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy tư liệu lao động và các phương tiện vật chất nói trên là yếu tố cơ bản để kết hợp sức lao động của con người với đối tượng lao động để tạo nên quá trình sản xuất, tức là tạo ra việc làm cho người lao động. Nếu không có phương tiện lao động và các phương tiện vật chất đó thì sức lao động và đối tượng lao động chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên không biến thành của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu con người và cho xã hội. Chính vì vậy muốn tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động trong
- 12 ngành thuỷ sản thì trước hết phải có các loại tư liệu lao động cần thiết, phù hợp với trình độ của người lao động với tính chất và đặc điểm của từng loại hình để thu hút lao động, nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. 1.1.3.3. Nguồn lực lao động và chất lượng lao động Nguồn nhân lực trước hết được hiểu là lực lượng lao động, nó bao gồm toàn bộ những người lao động, đang phục vụ cho xã hội, từ những người lao động trực tiếp, đến các nhà quản lý, nhà khoa học, từ những người công tác văn phòng, đến lực lượng lao động dự trữ đều thuộc nguồn nhân lực. Mà hiện nay nguồn nhân lực đang trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải là những người lao động có trí tuệ, có sức khoẻ, có phẩm chất đạo đức, so với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực có ưu thế nổi bật đó là không bị khai thác cạn kiệt trong quá trình khai thác và sử dụng còn có khả năng tái sinh, nếu chúng ta có chính sách bồi dưỡng và sử dụng đúng đắn. Đây là yếu tố làm cho con người trở thành nguồn lực cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, do đó hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Vấn đề có việc làm là đòi hỏi bản thân của người lao động, là con đường để người lao động tồn tại, phát triển và tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình. Tạo được nhiều việc làm tức là đã thu hút đông đảo nguồn lực quý giá của xã hội. Và quá trình sản xuất đã tạo ra nhiều của cải cho xã hội, là phát huy động lực cơ bản cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, điều kiện và quy mô tạo việc làm lại tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng của nguồn lực lao động. Nếu lao động ít, tài nguyên thiên nhiên nhiều thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất, để lãng phí tài nguyên. Nếu tài nguyên nhiều, trình độ lao động thấp thì năng suất, chất lượng và hiệu quá sản xuất, kinh doanh thấp, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn; nếu lao động nhiều tài nguyên thiên nhiên ít, nếu biết cách bố trí, sử dụng nguồn nhân lực phù hợp phù hợp với từng đặc điểm của từng loại hình sản xuất, kinh doanh sẽ tạo ra được nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Từ đó vấn để giải quyết việc làm cho người lao động đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao. 1.1.3.4. Thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất Chúng ta biết rằng thị trường là lĩnh vực trao đổi, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, với sự tham gia của hàng triệu người mua, bán hàng hoá dịch vụ. Nếu không có thị trường thì sẽ không có nền kinh tế hàng hoá.