Luận văn Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam

pdf 86 trang vuhoa 25/08/2022 6820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_dich_vu_kiem_toan_doc_lap_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KHUYÊN PH¸P LUËT VÒ DÞCH Vô KIÓM TO¸N §éC LËP ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Khuyên
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN VÀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 5 1.1. Khái quát về dịch vụ kiểm toán 5 1.1.1. Khái niệm dịch vụ kiểm toán 5 1.1.2. Phân biệt hoạt động kiểm toán độc lập với hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ 9 1.2. Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập 14 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM 19 2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về dịch vụ kiểm toán độc lập 19 2.1.1. Quy định về doanh nghiệp kiểm toán 19 2.1.2. Quy định về hợp đồng kiểm toán 29 2.1.3. Quy định về kiểm toán viên và tổ chức nghề nghiệp kiểm toán 32 2.1.4. Quy định về báo cáo kiểm toán và hoạt động dịch vụ kiểm toán 41 2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về kiểm toán độc lập 48 2.2.1. Những kết quả đã đạt được trong việc thi hành pháp luật về dịch vụ kiểm toán 48
  4. 2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật dịch vụ kiểm toán 51 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 59 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập 59 3.1.1. Đảm bảo tính độc lập của hoạt động kiểm toán 59 3.1.2. Phù hợp với cam kết của Việt Nam và mở cửa thị trường dịch vụ kiểm toán 61 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán phải đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật về kế toán, tài chính 62 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập 63 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm toán viên, doanh nghiệp kiểm toán 63 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức nghề nghiệp kiểm toán 64 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về báo cáo kiểm toán, hợp đồng dịch vụ kiểm toán 65 3.2.4. Sửa đổi và bổ sung các quy định về chuẩn mực kiểm toán 68 3.3. Một số giải pháp đảm bảo thực thi có hiệu quả pháp luật về dịch vụ kiểm toán 69 3.3.1. Trao thêm quyền cho tổ chức thực hiện chức năng kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập từ bên ngoài 69 3.3.2. Xây dựng mô hình kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập từ bên ngoài 71 3.3.3. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong hoạt động kiểm toán độc lập 73
  5. 3.3.4. Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật kiểm toán 74 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT A&C: Công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán và tư vấn AASC: Công ty dịch vụ, tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán ACCA: Hội Kế toán viên công chứng Anh quốc (Association of Chartered Certified Accountants – viết tắt ACCA) AFC: Công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán Việt Nam AICPA: Viện kế toán viên công chứng Hoa Kỳ BCKT: Báo cáo kiểm toán BCTC: Báo cáo tài chính BTC: Bộ Tài Chính CPA: Hội Kế toán viên công chứng Australia (Certified Practising Accountants Australia) DN: Doanh nghiệp DTL: Công ty TNHH kiểm toán DTT: Hãng kiểm toán quốc tế Deloitte Touche Tohmatsu HKSA: Hiệp hội kế toán Hồng Kông ICAEW: Hiệp hội kế toán chuyên nghiệp Anh và xứ Wales IFAC: Liên đoàn kiểm toán quốc tế IIA: Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ IMA: Hội Kế toán viên quản trị (Institute of management Accountants – viết tắt IMA) ISD: Phòng dịch vụ quốc tế KTĐL: Kiểm toán độc lập KTNB: Kiểm toán nội bộ KTNN: Kiểm toán Nhà nước M&H: Công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán và thẩm định giá NĐ: Nghị định NĐT: Nhà đầu tư QH: Quốc Hội SEC: Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ TT: Thông tư U&I: Công ty TNHH kiểm toán VAA: Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam VACO: Công ty Kiểm toán Việt Nam VACPA: Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam WTO: Tổ chức thương mại thế giới
  7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Phân biệt các loại kiểm toán 12
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dịch vụ kiểm toán độc lập là một hoạt động đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia đặc biệt đối với nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước như ở Việt Nam hiện nay. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có được các thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục tiêu chính là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các kiểm toán viên, thông qua quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói chung. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ thực sự tiếp cận và làm quen với khái niệm kiểm toán, dịch vụ kiểm toán, Công ty kiểm toán độc lập trong khoảng hơn chục năm trở lại đây. Trước đây trong một thời gian dài, do không nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nên nền kinh tế nước ta hoạt động hầu như không có hệ thống kiểm toán, việc này đã khiến cho tài sản của Nhà nước bị thâm hụt, nhiều công ty báo cáo tài chính sai để gian lận thuế, báo cáo kết quả kinh doanh tốt để thu hút nhà đầu tư dẫn đến quyền lợi của nhà đầu tư không được đảm bảo. Hiện nay, hoạt động kiểm toán đã hình thành và phát triển ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu đối hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp. Nhưng chất lượng hoạt động kiểm toán ở Việt Nam còn chưa thực sự tốt vẫn còn nhiều thiếu sót chưa đáp ứng được kỳ vọng của các chủ thể trong nền kinh tế. Nhiều công ty vừa được các công ty kiểm toán thực 1
  9. hiện kiểm toán, xác nhận thực trạng tài chính nhưng ngay sau đó lại phá sản với những khoản lỗ hàng chục tỷ đồng như vụ: Công ty dược phẩm viễn đông DVD, vụ Công ty cổ phần Vinashin Cho thấy, chất lượng dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam chưa thực sự tốt cần phải được nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cùng với sự ra đời của hoạt động kiểm toán, pháp luật kiểm toán đã ra đời ban đầu văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh hoạt động này chỉ là các nghị định và thông tư. Cho đến tận năm 2011 Luật kiểm toán độc lập mới ra đời cùng với hàng loạt các nghị định, thông tư, chấm dứt một thời gian dịch vụ kiểm toán hoạt động vướng vì thiếu luật. Tuy nhiên, pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập còn có nhiều bất cập, thiếu đồng bộ làm cho hoạt động kiểm toán trong quá trình áp dụng pháp luật còn khá nhiều khó khăn. Xuất phát từ đặc thù của dịch vụ kiểm toán và đặc điểm pháp luật kiểm toán ở Việt Nam chính vì vậy, việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về hoạt động kiểm toán, chỉ ra những khiếm khuyết của pháp luật, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật từ đó thúc đẩy hoạt động kiểm toán, nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm toán hiện nay. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát - Nghiên cứu pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. - Đề xuất một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập. 2.2. Mục tiêu cụ thể Hoàn thiện quy định của pháp luật về doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên và kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán. Để hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 2
  10. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động kiểm toán độc lập và pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế, so sánh Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng. 5. Tính mới và đóng góp của đề tài Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quát về pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam và đề xuất một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. 6. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nghiên cứu về pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập cũng có một số tác giả nghiên cứu một số khía cạnh của pháp luật kiểm toán như bài viết của tác giả Mai Thị Hoàng Minh về “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán trong điều kiện luật kiểm toán đã ban hành và áp dụng”, bài viết của tác giả Trần Thị Giang Tân về “Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán độc lập – Bài học kinh nghiệm từ Hoa Kỳ” ở các bài viết này tác giả đi nghiên cứu từng vấn đề pháp lý của hoạt động kiểm toán. Trong luận văn nghiên cứu của mình về “Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam” tác giả đi nghiên cứu khái quát pháp luật kiểm toán độc lập, sau đó tác giả đi phân tích những thành tựu và hạn chế của pháp luật từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương: 3
  11. Chương 1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ kiểm toán và tổ chức kiểm toán độc lập. Chương 2. Thực trạng pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập. 4
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN VÀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 1.1. Khái quát về dịch vụ kiểm toán 1.1.1. Khái niệm dịch vụ kiểm toán Khái niệm dịch vụ kiểm toán Ở nước ta khái niệm kiểm toán mới xuất hiện và được sử dụng từ hơn chục năm cuối thể kỷ 20. Từ thời Ai Cập, La Mã cổ đại khái niệm kiểm toán: Kiểm toán có nguồn gốc từ la tinh “Audit”, nguyên bản “Auditing” gắn với văn minh thời Ai Cập, La Mã cổ đại. “Audit” có nghĩa là “Audrie” có nghĩa là “nghe” gợi lên một hình ảnh cổ điển về kiểm toán là các tài khoản về tài sản phần lớn được kiểm tra bằng các người soạn thảo đọc to lên cho một bên độc lập nghe và chấp nhận. Ngày nay có rất nhiều các khái niệm về dịch vụ kiểm toán: Theo Liên đoàn kiểm toán quốc tế (International Federation of accountants – IFAC) thì “dịch vụ kiểm toán là việc kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”. Các tác giả Alvin A.Aen và James K.Loebbecker trong giáo trình “Kiểm toán” đã nêu một định nghĩa chung về kiểm toán như sau: “Dịch vụ kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập” [25]. 5
  13. Tiến sĩ RobertN. Anthor, Giáo sư trường đại học Harvatr cho rằng: “Dịch vụ kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các việc ghi chép kế toán bởi các kiểm toán viên công cộng, được thừa nhận bởi các tổ chức bên ngoài tổ chức kiểm tra”. Điều này cũng phù hợp với định nghĩa được ghi trong phần mở đầu giải thích về chuẩn mực kế toán của Vương quốc Anh: “Dịch vụ kiểm toán là sự kiểm tra độc lập, và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”. Ở Pháp: Dịch vụ kiểm toán là sự nghiên cứu kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình thực tế, không che giấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định. Như vậy, dịch vụ kiểm toán được hiểu chung như sau: dịch vụ kiểm toán là một chức năng quản lý, là một quá trình mà trong đó, các kiểm toán viên có thẩm quyền, những người được đào tạo để có trình độ thích hợp, tiến hành một cách độc lập việc thu thập, xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến các hoạt động kinh tế - tài chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp của các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực về kinh tế, tài chính và kế toán đã được thiết lập và pháp luật thừa nhận. Qua đó, kiểm toán còn đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả sử dụng nguồn tài chính cũng như hiệu năng quản lý của cá nhân, tổ chức. Theo pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1, Điều 5 Luật Kiểm toán 2011: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp 6
  14. kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán” [20, Điều 5, Khoản 1]. Các loại dịch vụ kiểm toán + Kiểm toán báo cáo tài chính: “Là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán” [20, Điều 5, Khoản 9]. + Kiểm toán tuân thủ: “là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về việc tuân thủ pháp luật, quy chế, quy định mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện” [20, Điều 5, khoản 10]. + Kiểm toán hoạt động: “là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của một bộ phận hoặc toàn bộ đơn vị được kiểm toán” [20, Điều 5, khoản 11]. + Kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích thuế và công việc kiểm toán khác. + Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính, thông tin tài chính và dịch vụ bảo đảm khác. Các dịch vụ liên quan đến hoạt động kiểm toán Tư vấn kinh tế, tài chính, thuế. Tư vấn quản lý, chuyển đổi và tái cơ cấu doanh nghiệp. Tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị của doanh nghiệp, 7
  15. tổ chức. Dịch vụ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán. Thẩm định giá tài sản và đánh giá rủi ro kinh doanh. Dịch vụ liên quan khác về tài chính, kế toán, thuế theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của dịch vụ kiểm toán Về chủ thể thực hiện dịch vụ là công ty kiểm toán độc lập: Không phải bất kỳ công ty nào cũng có thể cung cấp dịch vụ này cho khách hàng mà chỉ có công ty kiểm toán độc lập mới được thực hiện chức năng này. Dịch vụ kiểm toán là một loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện: Để thực hiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán công ty kiểm toán khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải có đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thì công ty mới được hoạt động. Pháp luật điều chỉnh: Chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành và phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt động đặc thù mà pháp luật quy định. Dịch vụ được thực hiện thông qua hợp đồng kiểm toán được ký kết giữa khách hàng và công ty kiểm toán. Mục đích của kiểm toán là xác nhận mức độ tin cậy của thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và các hồ sơ tài chính kế toán. Chức năng của kiểm toán Chức năng về kiểm tra và thẩm định thông tin kinh tế - tài chính: Đây là chức năng cơ sở mà kiểm toán viên sẽ sử dụng các phương pháp đặc thù để tiến hành kiểm tra thẩm định tính đúng đắn, trung thực, hợp thủ tục, hợp pháp, hợp lý của thông tin. Chức năng này gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng kiểm tra, thẩm định thông tin của kiểm toán cũng không ngừng phát triển và được thể hiện khác nhau tùy theo đối tượng của kiểm toán. Kiểm tra và thẩm định là hình 8
  16. thức kiểm tra sau khi các hoạt động tài chính đã diễn ra. Quan hệ diễn ra giữa kiểm tra và thẩm định với các hoạt động kiểm toán là quan hệ giữa “cái chung và cái riêng”, giữa cái tổng thể và phương diện biểu hiện ra với tính chất là các nghiệp vụ cụ thể của tổng thể đó. Chức năng xác nhận và giải toả trách nhiệm: Thông qua chức năng kiểm tra và thẩm định thì kiểm toán viên dựa trên các bằng chứng xác thực thẩm định hay còn gọi là xác nhận thực trạng tài chính của đơn vị, xác nhận tính đúng đắn của thông tin đã được ghi nhận trên báo cáo tài chính (tính khách quan, trung thực ). Việc xác nhận đó đồng nghĩa với việc giải tỏa trách nhiệm cho những người cung cấp thông tin này. Chức năng tư vấn của kiểm toán Thông qua kiểm tra và xác nhận từ góc nhìn của kiểm toán, kiểm toán viên sẽ thấy được những mặt mạnh, mặt yếu của thực trạng tài chính và đưa ra những ý kiến tư vấn cho cán bộ, nhân viên, cán bộ quản lý nhằm thiết lập lại kỉ cương tài chính và hướng tới hiệu quả, chất lượng. Thông qua hoạt động kiểm toán thì tổ chức kinh tế sẽ phát hiện ra những nội dung mà các định chế hay các quy phạm pháp luật còn có sơ hở, bất cập để kiến nghị các cơ quan hữu trách sửa đổi phù hợp. Trong quá trình kiểm toán nếu phát hiện những dấu hiệu nghiêm trọng về vi phạm pháp luật thì kiểm toán phải tư vấn với cơ quan pháp luật để họ thực hiện nhiệm vụ của họ. 1.1.2. Phân biệt hoạt động kiểm toán độc lập với hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ Kiểm toán độc lập do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện. Kiểm toán Nhà nước kiểm toán các hoạt động tài chính nhà nước. Kiểm toán nội bộ kiểm toán trong từng đơn vị, cơ quan. 9
  17. Kiểm toán Nhà nước là hoạt động kiểm toán do cơ quan Kiểm toán Nhà nước tiến hành. Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động, xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính, kiểm tra việc chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà nước và đánh giá hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của Nhà nước và kiểm toán viên Nhà nước là các viên chức Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước được thành lập và hoạt động năm 1994 theo Nghị định 70/CP, ngày 11/07/1994 của Chính phủ và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003. Sau đó Luật Kiểm toán nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2006. Luật Kiểm toán nhà nước đã quy định: Kiểm toán Nhà nước “là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính Nhà nước do Quốc hội thành lập hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật; Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước” [21, Điều 13, 14]. Kiểm toán Nhà nước bằng hoạt động kiểm toán có trách nhiệm đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí của nhà nước cụ thể như sau: Kiểm toán Báo cáo quyết toán Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Kiểm toán báo cáo tài chính của các Bộ, các cơ quan thuộc Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí của Nhà nước, 10
  18. báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc có vốn đầu tư của nhà nước và các cơ quan tổ chức khác. Kế hoạch kiểm toán hàng năm do Kiểm toán Nhà nước quyết định và báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện. Ngoài việc, nhận xét, đánh giá và xác nhận việc chấp hành chính sách, chế độ tài chính, kế toán ở các đơn vị. Kiểm toán Nhà nước còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm, đề xuất với Chính phủ những sửa đổi về cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết. Kiểm toán Nhà nước được đảm bảo tính độc lập trong quá trình hoạt động và thực hiện các cuộc kiểm toán. Kiểm toán độc lập (hay còn gọi là dịch vụ kiểm toán)vđược thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập, hành nghề trong các Công ty kiểm toán. Hoạt động chủ yếu của kiểm toán độc lập là kiểm toán báo cáo tài chính. Thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng và còn có thể thực hiện các dịch vụ tư vấn về tài chính – kế toán thuế. Kiểm toán độc lập là loại hoạt động dịch vụ tư vấn dưới sự bảo hộ, thừa nhận và điều chỉnh của pháp luật. Ở những nước có nền kinh tế phát triển, kiểm toán độc lập là một hoạt động rất phổ biến, là một loại hình dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp rất phát triển. Ở Việt Nam, hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành từ những năm đầu của thập kỷ 90 trong thế kỷ trước. Văn bản pháp lý đầu tiên điều chỉnh hoạt động này là Nghị định 07/CP, ngày 29/11/1994, tiếp sau đó Chính phủ ban hành hàng loạt các Nghị định, Thông tư và đặc biệt năm 2011 Luật kiểm toán độc lập ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động kiểm toán chấm dứt một thời gian dài kiểm toán độc lập hoạt động thiếu luật. Năm 1991 hai Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty dịch 11
  19. vụ, tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán (AASC) trực thuộc Bộ Tài chính ra đời, tính đến năm 2013 có 155 công ty kiểm toán đã đăng ký hành nghề, gồm: 04 Công ty 100% vốn nước ngoài (E&Y, PwC, KPMG, Grant Thornton), 05 Công ty có vốn đầu tư nước ngoài (E Jung, Mazars, HSK, Immanuel, S&S), 145 Công ty TNHH và 01 Công ty hợp danh (CPA VN). Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của giám đốc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị. Kiểm toán nội bộ có phạm vi thực hiện, như sau: Kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên; kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động. Bảng 1.1: Phân biệt các loại kiểm toán Kiểm toán Kiểm toán độc lập Kiểm toán nội bộ Nhà nước Chủ thể thực Cơ quan Bộ phận kiểm toán Công ty kiểm toán hiện kiểm toán Nhà nước trong đơn vị Viên chức Nhà KTV hành nghề độc Nhân viên của đơn Kiểm toán viên nước lập vị Đối tượng kiểm Kiểm toán:Tuân thủ Kiểm toán báo cáo Kiểm toán hoạt toán chủ yếu và Hoạt động tài chính động Phương thức Thỏa thuận Theo yêu cầu Bắt buộc tiến hành (Hợp đồng) của giám đốc Phí dịch vụ theo Hợp Phí Không có Không có đồng Kiểm toán Với Nhà nước, với Với HĐQT, Ban Trách nhiệm Với bên thứ ba nhân dân giám đốc Trình Quốc hội, Báo cáo Công khai cho các Cho giám đốc, ban HĐND, Chính phủ, Kiểm toán đơn vị liên quan quản lý đơn vị UBND (Nguồn: Đặng Văn Thanh, Mối quan hệ giữa Kiểm toán Nhà nước với kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ - Thực trạng và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật kiểm toán nhà nước). 12
  20. Ba loại hình kiểm toán: kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ có sự khác nhau nhất định về chủ thể tiến hành kiểm toán, về phạm vị và đối tượng kiểm toán, về phương thức tiến hành, về tính chất, địa vị pháp lý nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Thứ nhất, cả ba đều là kiểm toán, là hoạt động kiểm tra, đánh giá và xác nhận độ tin cậy của thông tin kinh tế tài chính do kế toán tổng hợp và cung cấp. Thứ hai, các loại kiểm toán đều tiến hành theo những quy trình và những phương pháp tương đối giống nhau. Nếu có sự khác biệt chỉ là những công việc cụ thể, những cách thức cụ thể trên các đối tượng kiểm toán có tính chất quy mô hoạt động khác nhau. Trong quy trình kiểm toán, hoạt động kiểm toán nhà nước rất quan tâm kế hoạch tổng thể trong một năm và thực hiện các kiến nghị của kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến những bất hợp lý, những khiếm khuyết của cơ chế và chính sách quản lý kinh tế - tài chính và luôn đề xuất các ý kiến, các giải pháp để hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi các quy định pháp lý, các chế độ, chính sách và cơ chế quản lý. Ngược lại, Kiểm toán độc lập lại quan tâm đến chiến lược dài hạn cho việc tạo uy tín với khách hàng và phát triển khách hàng, quan tâm ý kiến tư vấn thỏa mãn yêu cầu của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng quản lý. Kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ quan tâm nhiều hơn tới việc giúp doanh nghiệp tuân thủ luật pháp nhưng vận dụng và áp dụng chính sách, chế độ có lợi nhất cho doanh nghiệp. Thứ ba, các loại hình kiểm toán có thể sử dụng kết quả kiểm toán của nhau mặc dù có sự khác nhau về phạm vi và đối tượng kiểm toán trong trường hợp cần thiết. Phạm vi kiểm toán của kiểm toán Nhà nước rất rộng, mỗi năm Kiểm toán Nhà nước chỉ kiểm toán được một số lượng nhất định các đơn vị. Trong những trường hợp cần thiết, Kiểm toán Nhà nước có thể thuê dịch vụ kiểm toán độc lập. 13
  21. Thứ tư, hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, mọi quy trình nghiệp vụ đều được công khai, minh bạch, mọi hoạt động đều được kiểm tra và kiểm soát một các chặt chẽ sẽ là vòng bảo vệ trong hoạt động tài chính của các tổ chức tài chính nhà nước, của các doanh nghiệp. Giúp cho hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập tiến hành nhanh chóng và chính xác hơn. 1.2. Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập Khái niệm Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong hoạt động kiểm toán. Vị trí, vai trò của pháp luật Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập là một ngành luật chuyên ngành, điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kiểm toán độc lập. Pháp luật kiểm toán độc lập là khung pháp lý điều tiết hoạt động kiểm toán độc lập thực hiện đúng vai trò, chức năng của kiểm toán độc lập và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tạo môi trường kiểm toán lành mạnh, hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Nội dung pháp luật điều chỉnh Như các lĩnh vực hoạt động khác, hoạt động kiểm toán chỉ có thể thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao trong khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Hệ thống pháp lý cần thiết cho hoạt động kiểm toán bao gồm: các luật lệ, cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động của các đối tượng kiểm toán và các luật lệ, cơ chế chính sách của bản thân hoạt động kiểm toán. Khuôn khổ pháp lý của bản thân hoạt động kiểm toán bao gồm: Những quy định mang tính pháp lý là những quy định bắt buộc của Nhà nước được qui định trong các Luật, hoặc văn bản pháp quy (Nghị định, Thông tư ). Những qui định mang tính pháp lý đảm bảo sự thống nhất trong việc 14
  22. thực hiện công tác kế toán ở các đơn vị, mặt khác tạo ra một khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý thống nhất việc thực hiện công tác kiểm toán trong toàn bộ quốc gia. Luật Kiểm toán độc lập (Luật KTĐL) số 67/2011/QH12 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/3/2011. Việc ban hành Luật KTĐL tạo ra khung pháp lý cao nhất về kiểm toán độc lập, góp phần nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; tăng cường quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán (DNKT), kiểm toán viên (KTV) hành nghề và đơn vị được kiểm toán cũng như của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập. Luật cũng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với dịch vụ kiểm toán, đặc biệt là đơn vị có lợi ích công chúng, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, Nhà nước và tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật KTĐL gồm 8 chương, 64 điều, quy định về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động kiểm toán độc lập; quyền, nghĩa vụ của KTV hành nghề, DNKT, chi nhánh DNKT nước ngoài tại Việt Nam và đơn vị được kiểm toán. Luật cũng quy định một số nội dung liên quan đến kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng; quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong hoạt động kiểm toán độc lập. Nghị định 17/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kiểm toán độc lập. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 05 năm 2012. Thông tư số 183/2013/TT-BTC về kiểm toán độc lập đối với đơn vị có lợi ích công chúng và các văn bản pháp lý khác. Những quy định về tính độc lập là nguyên tắc cơ bản nhất của kiểm toán chỉ được đảm bảo khi cơ chế luật pháp được đảm bảo. Hiện nay các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động kiểm toán ở Việt nam đã được ban hành tương đối đồng bộ như: Nghị định số 105/2004 NĐ-CP Về kiểm toán độc lập, 15
  23. Nghị định số 30/2009 và số 16/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 105/2004 thay thế Nghị định 07/CP ngày 29 tháng 01 năm 1994 của Chính phủ ban hành “Quy chế Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân, Thông tư số 22/TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Thông tư 129/2012/TT-BTC ngày 09/08/2012 Quy định về việc thi và cấp Chứng chỉ kiểm toán viên và Chứng chỉ hành nghề kế toán có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/09/2012; Thông tư 150/2012/TT-BTC ngày 12/09/2012 Hướng dẫn cập nhật kiến thức hàng năm cho kiểm toán viên (KTV) đăng ký hành nghề kiểm toán có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013; Thông tư 202/2012/TT-BTC ngày 19/11/2012 Hướng dẫn về đăng ký, quản lý và công khai danh sách KTV hành nghề kiểm toán có hiệu lực thi hành từ ngày 01/03/2013. Thông tư 203/2012/TT-BTC ngày 19/11/2012 về trình tự, thủ tục cấp, quản lý, sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán có hiệu lực thi hành từ ngày 01/05/2013; Thay thế cho Quyết định số 237TC/QĐ/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về qui chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán; Thông tư số 107/2000/TT-BTC ngày 25/10/2000 về hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán; và nhiều luật văn bản pháp qui khác liên quan đến doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân Những qui định mang tính chuẩn mực đó là các nguyên tắc căn bản của kiểm toán, qui trình nghiệp vụ của các cuộc kiểm toán, hệ thống phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Theo tài liệu thuật ngữ kế toán - kiểm toán của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (IFAC) thì: “Chuẩn mực kiểm toán là những văn kiện mô tả các nguyên tắc cơ bản về nghiệp vụ và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong quá trình kiểm toán mà trong quá trình hành nghề các kiểm toán viên buộc phải tuân theo”. Các chuẩn mực kiểm toán là yêu cầu tất 16