Luận văn Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam

pdf 101 trang vuhoa 25/08/2022 5780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_dau_tu_trong_giao_duc_dai_hoc_o_viet_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DŨNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Hữu Nghị Hà Nội – 2014 1
  2. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các tài liệu trích dẫn theo các nguồn công bố. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Người cam đoan Trần Dũng 2
  3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 2 MỤC LỤC 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6 MỞ ĐẦU 7 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 12 1.1. Giáo dục đại học: Khái niệm, đặc điểm và tính chất 12 1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học 12 1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học 15 1.2. Đầu tư trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu đặt ra 18 1.2.1. Khái niệm 18 1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học 21 1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam 25 1.3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học 25 1.3.2. Các nguyên tắc của pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học 31 1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam 35 1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học 37 1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học 43 1.4.1. Yếu tố kinh tế 43 3
  4. 1.4.2. Yếu tố chính trị 44 1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, ý thức xã hội 45 1.4.4. Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội 46 1.4.5. Yếu tố hội nhập quốc tế 47 Kết luận chương 1 49 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRONG VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 50 2.1. Các quy định về chủ thể 50 2.1.1. Về nhà đầu tư 50 2.1.2. Về cơ quan quản lý nhà nước 52 2.2. Các quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục 53 2.3. Các quy định về hình thức đầu tư 62 2.4. Các quy định về thủ tục đầu tư 66 2.5. Đánh giá pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học tại Việt Nam 70 2.5.1. Đánh giá pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam từ góc độ bảo đảm các nguyên tắc 70 2.5.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân 74 Kết luận chương 2: 80 CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 82 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam 82 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm thực hiện được chính sách đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới 82 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời gian vừa qua 84 4
  5. 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam đáp ứng các yêu cầu hội nhập 86 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam 88 3.2.1. Giải pháp chung 88 3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam 90 Kết luận chương 3 94 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 5
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) ĐH, CĐ Đại học, Cao đẳng GD Giáo dục GDĐT Giáo dục đào tạo GDĐH Giáo dục đại học UBND Ủy ban nhân dân TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh VN Việt Nam 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển nguồn nhân lực mà trước hết là nguồn nhân lực có trình độ, có kỹ năng cao là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Phát triển giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng là sự lựa chọn cần thiết để đáp ứng đòi hỏi trên. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013; Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục. Bên cạnh Luật Giáo dục, Luật Đầu tư 2005 quy định về chính sách về đầu tư: nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với 7
  8. các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Kể từ ngày gia nhập WTO, đối với dịch vụ giáo dục bậc cao, giáo dục cho người lớn, các dịch vụ giáo dục khác ngoại trừ dịch vụ giáo dục phổ thông (chưa cam kết) hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đã được cở mở, chúng ta thu hút được rất nhiều nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Chính sách của Nhà nước cho phép các nhà đầu tư thành lập liên doanh, cho phép phía nước ngoài sở hữu đa số vốn trong doanh nghiệp liên doanh. Từ ngày 1/1/2009 sẽ cho phép thành lập cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài. Trên thực tế hiện nay, đã có hai mảng pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động đầu tư giáo dục là mảng pháp luật về giáo dục và mảng pháp luật đầu tư, nhưng quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về đầu tư trong giáo dục còn chung chung, thủ tục còn rườm rà, thiếu tính đồng bộ, nhất quán, nặng hành chính dẫn đến việc đầu tư diễn ra một cách manh mún, thiếu kiểm soát về quy mô, chất lượng, hiệu quả thu được không cao. Tổng nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước trong giáo dục vẫn thấp, thậm chí có những những hoạt động đầu tư mang tính lừa đảo ảnh hưởng đến chất lượng các cơ sở giáo dục, người học và niềm tin của các nhà đầu tư. 8
  9. Chính vì vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư giáo dục đại học thực sự có vai trò quan trọng để thu hút được nguồn vốn của những nhà đầu tư, phát triển nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước tiếp cận với kinh tế tri thức. Nhu cầu cần có một hệ thống pháp luật về đầu tư giáo dục đồng bộ, thống nhất có giá trị pháp lý cao sẽ thực sự trở thành đòn bẩy tạo đà cho giáo dục phát triển là cần thiết. Các luận cứ trên đây là lý do để tôi lựa chọn vấn đề vấn đề "Pháp luật về đầu tƣ trong giáo dục đại học ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề đầu tư giáo dục đại học đã thu hút đông đảo các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực kinh tế, quản lý giáo dục đào tạo nghề, khoa học pháp lý và các doanh nghiệp tham gia bàn thảo. Các cuộc hội thảo, báo chí thường xuyên đề cập đến vấn đề này. (GS Ngô Bảo Châu "Đại học Việt Nam làm ngược thế giới" [4]; Giáo sư Phạm Phụ - Nhà giáo dục tâm huyết - đã chia sẻ cùng phóng viên Quốc tế một số đề xuất nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà [29]; Bảng thông kê của Tiến sỹ Vũ Quang Việt, trong bài "So sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam" đăng trên mạng của xemina "Chấn hưng giáo dục", ). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, các bài viết chuyên khảo nêu trên tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là từ giác độ kinh tế học và chuyên môn. Một số công trình nghiên cứu tiếp cận dưới giác độ khoa học pháp lý cũng mới chỉ dừng lại ở việc làm sáng tỏ các yếu tố đơn lẻ liên quan đến các điều kiện đảm bảo chất lượng hoạt động đầu tư giáo dục, cũng như chất lượng hoạt động giáo dục hoặc phản ánh kinh nghiệm xây dựng và điều chỉnh pháp luật về đầu tư và giáo dục của một số nước trên thế 9
  10. giới mà chưa nghiên cứu tổng thể cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học. Từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư giáo dục đại học ở Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản pháp luật và thực tiễn của văn bản pháp luật về đầu tư trong giáo dục dại học ở Việt Nam. Về thời gian, đề tài nghiên cứu trong phạm vi từ năm 2005 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Học viên chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống như: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; Chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp tổng hợp, so sách để làm rõ các vấn đề lý luận và thực tế về pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam. Đồng thời học viên sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: Sử dụng phương pháp so sánh để tìm hiểu tính chất của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học so với các hoạt động đầu tư khác, kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học rút ra cho pháp luật đầu tư trong vực 10
  11. giáo dục đại học tại Việt Nam. Tác giả luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích các tài liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của các đề tài, báo cáo khoa học hiện có. 6. Ý nghĩa của luận văn - Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam. - Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về pháp luật giáo dục. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư và pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp về luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam. 11
  12. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 1.1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT 1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học Giáo dục được coi là một hiện tượng phổ biến và luôn tồn tại cùng xã hội loài người. Đã có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày khái niệm về giáo dục, có thể đưa ra một số khái niệm chung nhất về giáo dục như sau: Tác giả Kelly theo quan điểm phát triển cho rằng: “Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển tối đa mọi khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người làm cho con người có khả năng làm chủ được tình huống, đương đầu với những thách thức mà mình sẽ gặp phải trong đời một cách chủ động và sáng tạo”. Theo quan điểm này, giáo dục là quá trình tiếp diễn liên tục, suốt đời [5]. Savin – một nhà giáo dục học đã định nghĩa rằng: “Theo nghĩa rộng, khái niệm giáo dục là tất cả quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên bước vào cuộc sống, bao gồm cả quá trình dạy học và đào tạo”. Theo khái niệm này, giáo dục được hiểu là gồm cả giáo dục và đào tạo, tuy nhiên nó chỉ đề cập đến một mặt: “Quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên ”. Trên thực tế thì giáo dục bao gồm tất cả các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời[5]. Gillis đã đưa ra khái niệm tổng quát hơn về giáo dục: “Theo nghĩa rộng, giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người, hay hẹp hơn đó là một quá trình có ở những nới đã được chuyên môn hóa gọi là trường học”. Giáo dục là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo những khía cạnh khác nhau. Giáo dục với khái niệm rộng hơn gần giống 12
  13. với nghĩa “nghiên cứu”. Theo đó Gillis cho rằng có ba loại giáo dục là giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy và giáo dục không chính thức [5]. Luật Giáo dục Việt Nam 2005, Điều 4 quy định: Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục thường xuyên là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Do vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường xuyên, người ta hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Điều 44 quy định giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự phân loại này trong thực tế chỉ là tương đối nhằm để thuận tiện cho việc tổ chức và quản lý trên cơ sở đa dạng hóa, xã hội hóa cùng bình đẳng thực hiện mục tiêu chung của giáo dục. Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Như vậy, giáo dục đại học là bộ phận kết nối sau cùng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Quan niệm về giáo dục đại học được Tổ chức văn hóa, Giáo dục - Xã hội Liên hợp quốc (UNESCO) đề xuất từ 1968 và được nhiều nước thừa nhận với tên gọi là “Giáo dục bậc ba”. Nhưng từ sau Hội nghị quốc tế về giáo dục đại học ở Paris (Pháp) năm 1998 có quan điểm mới: GDĐH ở thế kỷ 21 là học tập suốt đời và bao gồm tất cả các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào tạo 13
  14. cho nghiên cứu ở đình độ sau bậc trung học được cung cấp bởi các viện đại học hay các tổ chức giáo dục đã được các cấp thẩm quyền công nhận là cơ sở GDĐH [5]. Theo quan điểm đó, GDĐH còn được coi là giáo dục sau trung học bao gồm không chỉ GDĐH truyền thống như cao đẳng, đại học mà còn tất cả trình độ học vấn cung cấp cho những người tốt nghiệp phổ thông trung học. Vậy GDĐH với quan niệm là giáo dục sau trung học, thực chất là không gian mở cho đào tạo đại học và học tập suốt đời. Ở nước ta, theo Điều 38, Mục 4 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định giáo dục đại học bao gồm: Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành; Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học; Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo điểm 8, Điều 4, Chương I Luật Giáo dục đại học: Đaị hoc̣ là cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện 14
  15. nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học [16]. Trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học được quy định tại Điều 6: Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc thù; Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học được thực hiện theo hai hình thứ c là giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học trong hê ̣thống giáo duc̣ quốc dân gồm: Trường cao đẳng; Trường đại học, học viện; Đại học vùng, đại học quốc gia;Viện nghiên cứu khoa học. 1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học - Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc sau cùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các trình độ khác nhau. GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy, không trực tiếp không tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên theo phân công lao động xã hội, GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội, gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc với năng suất lao động cao hơn của mỗi người. Theo Manuel (1991), GDĐH có 3 chức năng quan trọng. Trước hết, nó bao gồm các nền văn hóa và tri thức nhân loại; tái tạo hoặc phản biện ý thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, nó lựa chọn những người ưu tú giới thiệu 15
  16. cho đất nước và cuối cùng, nó sáng tạo ra kho tàng tri thức mới. GDĐH không chỉ tái tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống cho toàn bộ các thành viên trong xã hội; góp phần xóa bỏ khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo thông qua việc trang bị cho người học những tri thức và kỹ năng cần thiết để kiếm sống. GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh tế hiện đại – nền “kinh tế tri thức”, được dự báo sẽ ngày càng có ý nghĩa quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai. Liên hợp quốc xác định giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng là quyền con người, là phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một phương tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội. Như vậy, về mặt nhận thức tính chất của GDĐH có thể nêu ra hai thuộc tính về mặt kinh tế và mặt xã hội: - GDĐH vừa thực hiện chức năng phúc lợi vừa thực hiện chức năng dịch vụ Dưới góc độ xã hội, đối với nước ta hay bất kỳ quốc gia nào, xuất phát từ truyền thống ham hiểu biết, hiếu học của mỗi dân tộc chính sách công bằng xã hội được trong giáo dục cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật, mọi người đều có quyền được học tập, nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người dân tham gia vào quá trình học tập. Xem xét trên góc độ này lĩnh vực giáo dục đã thực hiện chức năng phúc lợi, giáo dục đảm bảo quyền được học tập của mọi người. Dưới góc độ lý thuyết kinh tế, sản phẩm GDĐH được thực hiện dưới hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và 16
  17. người học mua sức lao động của người dạy bằng phí, học phí hoặc đóng thuế để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dựa trên phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư bản. Theo K. Marx , đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi nó được mua bán như một dịch vụ và hàng hóa thông thường. K.Marx viết: “Trong trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản xuất ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như một dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà lao động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hóa khác”. GDĐH là loại sản phẩm đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không theo một tỉ lệ nhất định với năng suất lao động. Đối với một sản phẩm bất kỳ, khi lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó để khuyến khích tiêu dùng xã hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho chi phí cá nhân.Việc bù đắp thuộc trách nhiệm của nhà nước hoặc của ai đó theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác động bởi năng xuất lao động. - GDĐH là sản phẩm mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội GDĐH có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với các loại sản phẩm dịch vụ khác. Sản phẩm dịch vụ GDĐH là những người công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Người mua sản phẩm GDĐH không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như loại sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn. GDĐH là một loại sản phẩm dịch vụ có đầy đủ các tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp với việc mua bán hàng hóa. 17
  18. 1.2. Đầu tƣ trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu đặt ra 1.2.1. Khái niệm Khái niệm đầu tư “Đầu tư” không còn là khái niệm xa lạ hay trừu tượng, tuy nhiên trên thế giới không có khái niệm “đầu tư” duy nhất và bất biến. WTO – Tổ chức thương mại thế giới là mô hình tối cao của hội nhập cũng không quy đình gì về vấn đề đầu tư. Nhiều vòng đàm phán không giải quyết được bất đồng xung quanh khái niệm “đầu tư” nên mặc dù có ý định soạn thảo Hiệp ước đa phương tiện về các vấn đề đầu tư vào năm 1978 nhưng OECD – Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - cũng không thành công. Pháp luật các nước trên thế giới có các cách nhìn nhận khái niệm “đầu tư” khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng 2003, tr301) khái niệm đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội”. Trong kinh tế học, đầu tư là hoạt động được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã sử dụng để đạt được những kết quả đó. Theo quan điểm của các nhà luật học, hoạt động đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn sử dụng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, theo Black’s Law bản chất là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận. 18
  19. Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, khái niệm đầu tư trong kinh doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Hoạt động đầu tư được điều chỉnh bởi Luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”[14]. Luật đầu tư thống nhất và có phân biệt về thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được hiểu là hoạt động của các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Dưới góc độ điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, có thể thấy hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2005 chính là một bộ phận của hoạt động thương mại, phù hợp với khái niệm của Luật thương mại (Khoản 1 Điều 3). Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung đó chính là mục đích lợi nhuận, đồng thời hoạt động đầu tư cũng có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động thương mại khác nhau như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, Tuy nhiên, hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập, là sự bỏ vốn, tài sản nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. Khái niệm đầu tư trong giáo dục đại học Hoạt động đầu tư trong giáo dục nói chung và đầu tư trong giáo dục đại học nói riêng là một hoạt động đầu tư đặc thù, là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, chủ yếu liên quan đến sự điều chỉnh của Luật Đầu tư 2005, Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục đại học 2012. 19
  20. Điều 5, Luật Đầu tư 2005 quy định về áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế: Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó; Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó; Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [14]. Cũng theo Luật đầu tư 2005“Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo” được quy định là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Điều 27) và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điều 29). Theo Luật giáo dục 2005, “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”(Điều 9); “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” (Điều 13); “Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học” (Điều 12 Luật Giáo dục đại học 2012). Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, việc đầu tư cho giáo dục được quy định theo hướng thống nhất, đồng bộ giữa Luật đầu tư và Luật giáo dục, là hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nhưng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục lại được thực hiện theo quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành. Đầu tư cho giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Hoạt động cho giáo dục có những đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư nói chung, đều là sự hy sinh nguồn lực trong hiện tại để tiến hành những hoạt động trong môi trường giáo dục nhằm thu được những kết quả trong tương lai và kết quả thu được từ hoạt động đó phải lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. 20
  21. Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn); tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, quản lý, khoa học, ) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một trường học được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời xã hội cũng được hưởng thành quả của hoạt động đầu tư này. Hoạt động đầu tư cho giáo dục không chỉ đem lại kết quả cho nhà đầu tư mà còn cả nền kinh tế-xã hội được thụ hưởng chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua đóng góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối do kết quả của hoạt động đầu tư phát triển tạo ra thì đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Như vậy, đầu tư cho GDĐH là một bộ phận của đầu tư nói chung, đều mang lại những lợi ích tăng thêm cho nhà đầu tư và góp phần mang lại cho xã hội những giá trị quan trọng như nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tƣ trong giáo dục đại học - Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư. Là việc chi dùng trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị ) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng ) vì mục tiêu phát triển. 21
  22. Đầu tư phát triển đòi hỏi phải có nhiều loại nguồn lực. Với xu hướng phát triển hiện tại, nguồn lực đầu tư có thể đến từ nhà nước, cũng có thể do tổ chức cá nhân trong và ngoài nước bỏ ra. Phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư ngoài nhà nước mở rộng theo lộ trình xã hội hóa giáo dục. Hoạt động đầu tư có hiệu quả cao là kết quả của việc huy động tích cực nguồn lực đầu tư trong xã hội. Đa số đầu tư nguồn lực nhằm mục đích sinh lời, cũng có chủ đầu tư vì tâm huyết với sự học, vì trách nhiệm với xã hội. Đối tượng của đầu tư trong giáo dục là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm của phân công lao động xã hội thì đây là đầu tư theo ngành. Dưới góc độ tính chất đầu tư thì đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng thì yêu cầu đặt ra đối với đầu tư trong giáo dục đại học phải đảm bảo tính chất phi lợi nhuận (mục tiêu lợi nhuận không phải là tuyệt đối). Trên góc độ xem xét sự quan trọng, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có đối tượng được khuyến khích đầu tư. Kết quả của đầu tư cho GDĐH là sự tăng thêm về tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật ), tài sản vật chất (trường học, trang thiết bị ) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, công trình khoa học ). Các kết quả của hoạt động đầu tư cho GDĐH góp phần làm tăng thêm những giá trị và chất lượng cho xã hội. Đặc thù của kết quả đầu tư cho GDĐH so với các hoạt động đầu tư khác chính là tương quan so sách kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét trên cả phương diện đối với chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích, khuyến khích vai trò chủ động của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước các cấp. Đầu tư trong GDĐH tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động 22