Luận văn Pháp luật về đào tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định

pdf 97 trang vuhoa 25/08/2022 8802
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về đào tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_dao_tao_nghe_thuc_trang_trong_cac_doan.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về đào tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  VŨ THỊ HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ - THỰC TRẠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  VŨ THỊ HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ - THỰC TRẠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 60. 38. 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2013 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận lăn là trung thực, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Vũ Thị Hương
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ 7 1.1. Quan niệm về đào tạo nghề 7 1.2. Pháp luật về đào tạo nghề 11 1.2.1. Nguyên tắc về đào tạo nghề 11 1.2.2. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề 15 1.2.3. Ý nghĩa của đào tạo nghề 16 1.3. Pháp luật về đào tạo nghề ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 22 1.3.1. Pháp luật về đào tạo nghề ở một số nước trên thế giới 22 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 29 2.1. Pháp luật về đào tạo nghề cho người lao động để làm việc cho doanh nghiệp theo thời hạn đã cam kết 29 2.1.1 Điều kiện đối với cơ sở thực hiện đào tạo nghề 29 2.1.2. Về chi phí đào tạo nghề và thời hạn người lao động phải làm việc cho doanh nghiệp 32 2.1.3. Về bồi thường chi phí đào tạo nghề trong trường hợp người lao động vi phạm cam kết thời hạn làm việc 36
  5. 2.2. Pháp luật về đào tạo lại nghề cho người lao động 41 2.3. Pháp luật về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ 43 2.4. Giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề 50 2.5. Thực tiễn thực hiện pháp luật đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định. 55 2.5.1. Nhu cầu đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định 55 2.5.2. Tình hình thực hiện pháp luật về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định 60 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 71 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề 71 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề 77 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định 82 KẾT LUẬN 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. BLLĐ: Bộ Luật lao động 2. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 3. HĐLĐ: Hợp đồng lao động 4. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đứng trước những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực, vấn đề đào tạo công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội đang trở thành vấn đề quan trọng và cấp bách của các cơ sở dạy nghề và của các doanh nghiệp. Nhằm góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Ngoài ra mục tiêu phát triển giáo dục nghề nghiệp 2001 – 2010 đã chỉ rõ: Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề với nâng cao ý thức kỷ luật lao động, tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, gắn việc làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, con người là nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo sự chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục trong đó ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Giáo dục đào tạo giữ vai trò then chốt trong phát huy nguồn lực của con người, cần phải đảm đương sứ mệnh đào tạo ra những người lao động có khả năng thích ứng với những thay đổi công nghệ, những biến động của việc làm, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Nhận thức vấn đề này vài năm trở lại đây Việt Nam đã xây dựng và phát triển mạnh hệ thống các trường nghề, các trường kỹ thuật với mong muốn nhanh chóng đạt chuẩn khu vực và thế giới để không ngừng tăng cường nguồn nhân lực cho thị trường trong nước và hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. 1
  8. Theo Điều 6 Luật Dạy nghề 2006, dạy nghề gồm có ba cấp: Sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Mỗi năm hệ thống dạy nghề trong cả nước đào tạo ra hàng triệu người lao động. Tuy nhiên thời gian học nghề trong các trường đó là dài hơn, tốn kém hơn, việc được thực hành ít hơn, sản phẩm trong quá trình học làm ra về không được trả công, học xong người học lại phải tự tìm việc làm Trong khi đó "doanh nghiệp tuyển người vào học nghề, tập nghề theo thời hạn cam kết trong hợp đồng thì không phải đăng ký và không thu học phí. Thời gian học nghề, tập nghề được tính vào thâm niên làm việc tại doanh nghiệp. Trong thời gian học nghề, tập nghề nếu trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp thì được trả công theo thỏa thuận". Như vậy về mặt số lượng người học nghề trong các hệ thống trường là khá khá dồi dào nhưng năng lực của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, dẫn đến lãng phí nguồn ngân sách của nhà nước, cơ hội tìm được việc làm phù hợp với trình độ còn thấp. Trong khi đó việc nhiều doanh nghiệp để có nguồn nhân lực như mong muốn, sau khi tuyển lao động về phải đào tạo lại nghề cho công nhân của mình, người học nghề trong doanh nghiệp sẽ gần với thực tế nhu cầu công việc của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội công tác đào tạo nghề đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên so với đồi hỏi thực tế của thị trường lao động thì công tác đào tạo nghề ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được. Trên thực tế ngoài việc tuyển dụng lao động đã qua đào tạo nghề thì các doanh nghiệp cũng tự tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động. Ở Việt Nam trong nhiều năm qua các doanh nghiệp đã khá tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo nghề dưới các hình thức khác nhau như đào tạo tại doanh nghiệp hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo nghề. Cách thức tổ chức đào tạo nghề như vậy rất có lợi cho người học nghề, vì họ không phải lo 2
  9. tìm việc sau khi học nghề xong. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp lại rất lo ngại việc đào tạo nghề, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động vì lợi ích thu được từ khoản đầu tư này khó thu lại được, và còn lo ngại sau khi đào tạo xong người lao động không tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp. Nhưng cũng phải nói trên thực tế doanh nghiệp nào chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho lao động trong doanh nghiệp mình thì dù trước mắt có thể thấy là chưa có lợi, lại dễ có thể bị mất đi số lao động nhất định đã qua đào tạo, nhưng nhìn cách tổng thể chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp vẫn tăng và quan trọng hơn là doanh nghiệp tạo được sự yên tâm cho người lao động trong doanh nghiệp của mình. Với những ưu thế như vậy thì đào tạo nghề cần được chú trọng phát triển hơn trong thời gian tới. Nhà nước cũng có những chính sách kịp thời, cụ thể để đảo bảo phát triển đào tạo nghề đạt hiệu quả, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới công tác đào tạo nghề. Các chính sách, các quy định của pháp luật Việt Nam cần có thêm những khuyến khích, ưu đãi, đồng thời khắc phục những quy định chưa phù hợp với thực tế để thu hút được doanh nghiệp đầu tư hơn nữa vào việc đào tạo nghề. Chính vì lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về đào tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề trong doanh nghiệp nói riêng. Pháp luật về đào tạo nghề đã được đề cập đến trong luận văn “Chế độ dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam” của Đào Mộng Điệp. Nhưng luận văn đó hoàn thành khi chưa có Luật Dạy nghề và mới chỉ nghiên cứu việc dạy và học nghề theo quy định của Luật Lao động. Khóa luận tốt 3
  10. nghiệp “Đào tạo nghề - thực trạng và một số kiến nghị” của Lê Thị Thanh Nhàn, Trường Đại Học Luật Hà Nội năm 2010. Ở đề tại này tác giả mới đi phân tích và đưa ra được các thực trạng của pháp luật Việt Nam về thực trạng đào tạo nghề và một số kiến nghị. Luận văn “Hợp đồng học nghề theo luật dạy nghề ở Việt Nam” của Trần Thị Thoa, Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà nội năm 2012. trong luận văn cũng có đề cạp tới đào tạo nghề nhưng chỉ là những quy định về hợp đồng học nghề theo Luật Dạy nghề là chủ yếu mà chưa đi sâu, phân tích cụ thể về các quy định của pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề nói chung. Ngoài các đề tài và luận văn trên còn phải kể tới các bài viết như: “Quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động” của Ths Đỗ Thị Dung, đăng trên tạp chí Luật học số 7/ 2009. Bài viết “Tình hình dạy nghề và một số vấn đề về giới trong dạy nghề tại doanh nghiệp” của PGS.TS Cao Văn Sâm – Phó Tổng cục trưởng – Tổng cục dạy nghề đăng trên báo Lao động và công đoàn số 448 kỳ 2 tháng 3 – 2010. Bài viết “chế độ đào tạo nghề cho các lao động đặc thù” của TS Nguyễn Xuân Thu đăng trên website: ngày 21 tháng 01 năm 2009. Các đề tài, bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các nội dung riêng lẻ về đào tạo nghề và đào tạo nghề trong doanh nghiệp mà chưa nghiên cứu đầy đủ các quy định hiện hành của pháp luật về đào tạo nghề. Để xây dựng được một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh về đào tạo nghề, điều cần thiết là phải chỉ ra được những vướng mắc, những điểm không phù hợp với thực tế và bổ sung những quy định cho hợp lý. Từ đó, ta mới có cơ sở để thảo luận đánh giá, đề ra phương hướng và phương pháp giải quyết các vướng mắc chính xác và có hiệu quả cao. Cùng với sự ra đời của Bộ Luật Lao động năm 2002 và Luật Dạy nghề năm 2007, các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực này cũng đã 4
  11. được xây dựng và bổ sung kịp thời đáp ứng nhu cầu của hoạt động thực tiễn phát sinh. Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo đánh giá kết quả đạt được của việc thực hiện luật này, cũng như những điểm còn hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới cho phù hợp. Dựa trên những cơ sở đó, người viết lựa chọn đề tài “Pháp luật về đào tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định” làm luận văn với suy nghĩ có thể tìm hiểu rõ hơn về đào tạo nghề và đào tạo nghề trong doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý hiện hành về đào tạo nghề, những vướng mắc, bất cập trong các quy định pháp luật, đồng thời đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về đào tạo nghề. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về việc dạy và học nghề, các quy định của pháp luật về đào tạo nghề, thực tế dạy và học nghề trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định. Luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho các quy định của pháp luật về đào tạo nghề, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện về việc đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Nam Định. Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đào tạo nghề và pháp luật về đào tạo nghề. Đây chính là cơ sở cần thiết cho việc nhìn nhận các cơ sở dạy và học nghề hiện nay. Thứ hai: Nghiên cứu và phân tích thực trạng pháp luật về đào tạo nghề và việc dạy và học nghề tại các doanh nghiệp của tỉnh Nam Định. Thứ ba: Căn cứ vào cơ sở lý luận và các phân tích nêu trên, luận văn sẽ đưa ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về dạy và học nghề, đồng thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật trong việc dạy và học nghề tại các doanh nghiệp của Tỉnh Nam Định. 5
  12. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một bản luận văn thạc sỹ, với khả năng nghiên cứu và nguồn tài liệu còn hạn chế, luận văn chưa thể nghiên cứu bao quát các vấn đề về dạy và học nghề trong các doanh nghiệp tại Việt Nam mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận, đánh giá ban đầu trên cơ sở thực tế của một số doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định. Luận văn cũng đưa ra đánh giá một cách tổng quát dưới góc độ pháp lý về các quy định của pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề và thực tế của các doanh nghiệp trong việc dạy và học nghề tại Nam Định. Trên cơ sở đó luận văn cũng đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện khung pháp luật về đào tạo nghề. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, cải cách hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Khái quát chung về đào tạo nghề và pháp luật về đào tạo nghề Chương 2: Thực trạng pháp luật về đào tạo nghề và thực tiễn thực hiện trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định 6
  13. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ 1.1. Quan niệm về đào tạo nghề Hiện nay khái niệm Đào tạo nghề đã được nhiều nước đề cập đến trong đó phải nói tới luật của một số nước sau: Theo Luật Dạy nghề của Đài Loan: “Dạy nghề là bao gồm việc đào tạo trước khi tham gia quan hệ lao động cho những người chưa có việc làm và đào tạo trong công việc cho những người đang có việc làm” [14,Điều 3]. Như vậy theo quy định trên thì việc dạy nghề của Đài Loan là đào tạo trước và trong quá trình người lao động làm việc. Cũng quy định về đào tạo nghề nhưng Luật Dạy nghề của Hàn Quốc chỉ quan tâm tới đào tạo nghề đối với những người lao động đang làm việc với mục đích nhằm nâng cao tay nghề của họ: “Đào tạo nghề là hoạt động đào tạo được thực hiện đối với người lao động nhằm nâng cao khả năng thực hiện công việc của họ” [16,Điều 2]. Còn theo Bộ Luật Lao động của Pháp thì đào tạo nghề có ý nghĩa rộng hơn: Đào tạo nghề là nghĩa vụ quốc gia, mục đích giúp người lao động thích ứng với những thay đổi kỹ thuật và điều kiện lao động, giúp cho người lao động tiếp cận những trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp khác nhau và giúp cho sự đóng góp tích cực của người lao động vào sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội” [38,Điều 9] Trong khi đó Trung Quốc thì cho rằng giáo dục dạy nghề là bộ phận quan trọng của nến giáo dục quốc gia và cũng là con đường quan trọng cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội và tạo việc làm: Thông qua việc giáo dục dạy nghề thì các quy định Nhà nước sẽ được 7
  14. thực hiện đó là: giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, kiến thức về dạy nghề sẽ được phổ biến, các kỹ năng nghề nghiệp được bồi dưỡng và các hướng dẫn về dạy nghề được cung cấp tới người học cũng như nâng cao chất lượng dạy nghề. [38,Điều 4] Như vậy các nước khác nhau có quan niệm về đào tạo nghề là khác nhau, do điều kiện lịch sử và điều kiện thực tế cũng như nhu cầu của xã hội về lĩnh vực đào tạo nghề. Còn ở Việt Nam thì để tìm hiểu các quy định của pháp luật về đào tạo nghề trước tiên phải nói tới quy định của Hiến pháp. Theo Hiến pháp 1992 của Việt Nam thì học nghề được coi là một trong những quyền cơ bản của công dân: “Công dân có quyền học văn hóa và học nghề dưới nhiều hình thức” [18,Điều 59]. Và cụ thể từ quy định trên của Hiến Pháp 1992 nhiều bộ luật ở Việt Nam đã có quy định về vấn đề đào tạo nghề cụ thể: Luật Giáo dục Việt Nam thì cho rằng đào tạo nghề nằm trong khái niệm giáo dục nghề nghiệp và được gọi là dạy nghề. Và “Dạy nghề là nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo”. [21,Điều 33 ]. Như vậy có thể thấy Luật Giáo dục chú trọng tới việc truyền đạt kiến thức cho người học mà không nhấn mạnh vào trách nhiệm của cơ sở đào tạo nghề Luật Dạy nghề cũng có quan điểm như Luật Giáo dục coi đào tạo nghề là dạy nghề: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.[22,Điều 5] Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả 8
  15. năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [22,Điều 4]. Như vậy Luật Dạy nghề lại quan tâm tới các quy định về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia vào hoạt động đào tạo nghề, đến tổ chức và hoạt động của đào tạo nghề. Ngoài ra còn có cách tiếp cận khác “học nghề là quá trình trong đó diễn ra các hoạt động học tập, làm quen, rèn luyện của người học nhằm đạt được trình độ nhất định về nghề nghiệp, nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất định, nâng cao trình độ tay nghề ” [36,tr 189]. Như vậy với các cách tiếp cận khác nhau nhưng đào tạo nghề vẫn là tạo lập một đội ngũ công nhân kỹ thuật, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị kỹ thuật hiện đại, sau khoá học người học nghề được cung cấp kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết, có khả năng cạnh tranh thị trường sức lao động trong nước và quốc tế. Từ những quan niệm trên về đào tạo nghề ta có thể thấy cùng là quá trình đào tạo con người nhưng đào tạo nghề có những đặc điểm riêng cụ thể như sau: Bên cạnh các hình thức đào tạo khác như: đào tạo đại học, đào tạo trung học chuyên nghiệp, đào tạo phổ thông thì đào tạo nghề là hình thức đào tạo cung cấp chính nguồn nhân lực cho xã hội. Bất cứ hình thức đào tạo nào cũng nhằm mục đích giúp người được đào tạo có khả năng đảm đương được một hoặc một số công việc nhất định, có những kỹ năng nghề nghiệp nhất định, tạo cho xã hội nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Đào tạo nghề gắn liền với quá trình sản xuất. Trong quá trình dạy học, người học muốn nắm được nội dung nghề nghiệp thì phải trực tiếp nhìn thấy quá trình sản xuất. Đào tạo nghề là đào tạo thực hành sản xuất. Mục tiêu quan 9
  16. trọng nhất của đào tạo nghề là sau khi được đào tạo người học có thể trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, vì vậy trong quá trình đào tạo kỹ năng thực hành nghề phải được đặc biệt quan tâm. Điều này được thể hiện rất rõ trong nội dung, phương pháp và thời gian đào tạo. Trong nội dung đào tạo có cả lý thuyết và thực hành nhưng thời gian thực hành bao giờ cũng phải dài hơn trong quá trình đào tạo người học được tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nên họ cũng có thể tạo ra sản phẩm hoặc góp phần tạo ra sản phẩm nên họ phải được trả công tương xứng. Đào tạo nghề muốn có kết quả cao phải có các điều kiện như: trang thiết bị máy móc, nguyên vật liệu và thời gian để thực hành, có đội ngũ giáo viên lý thuyết và thực hành vừa giỏi lý thuyết, vừa thành thạo trong thực hành và có nghiệp vụ sư phạm tốt. Như vậy trong quá trình đào tạo nghề phải đặc biệt quan tâm tới yếu tố thực hành. Đây là điều kiện quyết định để đào tạo nghề đạt hiệu quả cao đó là phải sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, tổ chức học và sản xuất theo khoa học. Khoa học ngày một phát triển như vũ bão nên phải liên tục đổi mới công nghệ sản xuất và việc cập nhật các nghề đào tạo mới cũng là vấn đề hết sức quan trọng của việc đào tạo nghề. Đây là điểm khác biệt giữa đào tạo nghề với đào tạo phổ thông. Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy những nét khác biệt của đào tạo nghề với các hình thức đào tạo khác ở mục đích đào tạo, điều kiện đào tạo và tính chất của quá trình đào tạo. Như vậy đào tạo nghề là tạo lập một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có chất lượng cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, tiến tiến, có khả năng cạnh tranh với sức lao động quốc tế. Điều này góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Phải thực sự coi dạy nghề là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển nguồn 10
  17. nhân lực, đồng thời coi dạy nghề cũng là bồi dưỡng nhân tài. Phát triển dạy nghề phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Không phải ai cũng có điều kiện để học cao đẳng, đại học hoặc cao hơn nữa. Nhu cầu học nghề của thanh niên hiện nay ngày một gia tăng. Thực tế cho thấy đại đa số thanh niên sau khi học hết trung học phổ thông mà không vào được đại học thì phần lớn trong số họ đã lựa chọn là đến với các cơ sở dạy nghề để học nghề và để có cơ hội tìm việc làm. Nên quan điểm “phi đại học bất thành nhân” trong xã hội ngày nay đang dần được thay đổi, đồng thời góp phần khắc phục được bất cập bấu lâu của xã hội Việt Nam là: “tìm bằng cấp thì có, tìm tay nghề thì khó”. Như vậy có thể nói đào tạo nghề là một chiến lược quan trọng, nó đã tạo ra nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế xã hội. 1.2. Pháp luật về đào tạo nghề 1.2.1. Nguyên tắc về đào tạo nghề Theo quy định của các Công ước quốc tế về đào tạo nghề và Bộ Luật Lao động Việt Nam về học nghề thì pháp luật về đào tạo nghề phải tuân theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc được tự do học nghề và dạy nghề. Nguyên tắc này được quy định cụ thể: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ ”[19,Điều 5]. Còn theo quy định của BLLĐ 2012 thì: “Người lao động được lựa chọn nghề, học nghề tại nơi làm việc phù hợp với nhu cầu việc làm của mình” [20,Điều 59]. Học nghề và việc làm là những nhu cầu thiết yếu của tất cả mọi người và việc pháp luật quy định mọi người đều có quyền học nghề để nâng cao trình độ, tự do lựa chọn nghề để học cũng như hướng tìm việc làm cho mình sau này là rất đúng đắn và phù hợp với quy luật. “Doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có đủ điều 11
  18. kiện theo quy định của pháp luật thì được mở cơ sở dạy nghề” [19,Khoản Điều 20]. Pháp luật cũng quy định về điều kiện để được mở cơ sở dạy nghề khi có đủ điều kiện. Như vậy theo quy định trên trong Bộ Luật Lao động Việt Nam thì mọi người có quyền tự do lựa chọn nơi dạy nghề. Vì trên thực tế các cơ sở đào tạo nghề rất nhiều nhưng không phải cơ sở nào cũng có cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên giảng dạy và các nghề đào tạo là giống nhau. Nguyên tắc bình đẳng và không bị phân biệt đối xử khi học nghề. Nguyên tắc này được quy định trong Bộ Luật Lao động cụ thể “ không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”.[19,Điều 5]. Để nguyên tắc này đi vào thực tế đòi hỏi mọi cơ sở nghề đều phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, khi đã là người học học nghề thì họ được đối xử bình đẳng như nhau về mọi chế độ trong quá trinh học, không nên có sự phân biệt, kỳ thị giữa các dân tộc, tôn giáo, giới tính cũng như các thành phần xã hội trong quá trình học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề. Nguyên tắc khuyến khích các hoạt động đào tạo nghề gắn với việc làm. Để thực hiện được nguyên tắc này Nhà nước phải có những chính sách linh hoạt để tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề và nhất là các cơ sở đào tạo nghề có hoạt động đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người học nghề như đào tạo nghề tại doanh nghiệp. Tùy vào điều kiện cụ thể của nước mình mà có những quy định tương ứng. Ở Việt Nam theo quy định tại Điều 6 Nghị Định số 23/CP ngày 18 – 4 – 1996 của Chính Phủ có chính sách vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia về việc làm cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được quy định ở Điều 7 của Nghị Định số 23/CP ngày 18 – 4 – 1996 của Chính Phủ hay hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho các đối tượng đặc biệt như: thương binh, bệnh binh, người tàn tật, người dân tộc thiểu số . 12
  19. Nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi trong đào tạo nghề. Theo quan điểm của ILO thì các hoạt động cưỡng bức trong lao động bao gồm bất cứ công việc nào, được trả công hay không được trả công, phải làm một cách không tình nguyện hoặc vì bị đe dọa trừng phạt. Ở Việt Nam thì nguyên tắc này được thể hiện trong BLLĐ và Luật Dạy nghề cụ thể. Theo Luật Dạy nghề năm 2006 về các hành vi bị cấm trong hoạt động dạy nghề như: “Lợi dụng dạy nghề để trục lợi, lạm dụng sức lao động. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên của cơ sở dạy nghề và người học nghề”[22,Điều 9]. Ngoài ra còn quy định “Nghiêm cấm mọi doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lợi dung danh nghĩa dạy nghề, truyền nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, tập nghề vào những hoạt động trái pháp luật”[19, Điều 25]. Các quy định trên đòi hỏi cả hai bên bên học nghề và bên dạy nghề đều phải tôn trọng nhau và thực hiện theo quy định của pháp luật về những điều cấm trong đào tạo nghề Nguyên tắc xã hội hóa trong đào tạo nghề: Để thực hiện được nguyên tắc này thì Việt Nam phải “Khuyến khích các cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá nhân, tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành lập cơ sở dạy nghề và tham gia hoạt động dạy nghề các cơ sở dạy nghề bình đẳng trong hoạt động dạy nghề và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước theo quy định của pháp luật”. [22,Điều 7]. Phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập bao gồm các cơ sở dạy nghề tư thục, dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài, cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp và dạy nghề tại nơi sản xuất. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp thành lập trường nghề, trung tâm dạy nghề; liên kết với trường nghề trong đào tạo và giải quyết việc làm; nhận học sinh, sinh viên của nhà trường đến doanh nghiệp thực hành, thực tập. Xây dựng các mô hình, hình thức và phương thức hợp tác, gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để 13
  20. nâng cao khả năng có việc làm cho người lao động sau khi được đào tạo. Phát triển mạnh các cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp để đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp và cho xã hội; khuyến khích phát triển dạy nghề theo dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Huy động doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo nghề, như: xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy nghề; xây dựng danh mục nghề, tiêu chuẩn nghề; tham gia giảng dạy và đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động. Nguyên tắc kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong đào tạo nghề. Theo nguyên tắc này thì các quy định của pháp luật về đào tạo nghề phải là sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội và được thể hiện thành các nội dung như: các ưu đãi về thuế với các doanh nghiệp có đào tạo nghề, trách nhiệm đào tạo lại nghề cho lao động, trách nhiệm đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ để tránh trường hợp các doanh nghiệp chịu thiệt thòi về kinh tế khi thực hiện các nghĩa vụ mang tính xã hội. Nguyên tắc hội nhập quốc tế về đào tạo nghề. Việt Nam nên mở rộng hợp tác quốc tế để trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước trong phát triển dạy nghề. Tăng cường hợp tác quốc tế về dạy nghề, lựa chọn các đối tác chiến lược trong lĩnh vực dạy nghề là những nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và châu Á. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về dạy nghề, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ dạy nghề tiên tiến để nâng cao chất lượng dạy nghề. Tích cực tham gia các hoạt động quốc tế về dạy nghề. Khuyến khích các cơ sở dạy nghề trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển các cơ sở dạy nghề chất lượng cao tại Việt Nam. 14
  21. 1.2.2. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề Nội dung pháp luật về đào tạo nghề gồm những nội dung sau: Thứ nhất: Pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo nghề cho người lao động để làm việc cho doanh nghiệp theo thời hạn đã cam kết. Đây là trường hợp đào tạo nghề khá đặc biệt vì một bên trong quan hệ đào tạo nghề bao giờ cũng là doanh nghiệp, sau khi được đào tạo nghề người được đào tạo sẽ phải làm việc cho doanh nghiệp theo một thời hạn đã cam kết. Chính vì vậy nên pháp luật về đào tạo nghề cần có những quy định tương ứng để điều chỉnh quan hệ này cho phù hợp. Xuất phát từ chủ thể đào tạo là chủ thể đặc thù đó là doanh nghiệp nên những quy định về điều kiện đối với doanh nghiệp có hoạt động đào tạo nghề trên cũng phải mềm dẻo và ít khắt khe hơn so với các cơ sở đào tạo nghề thông thường khác và nhất là các quy định liên quan đến chi phí đào tạo nghề có nhiều điểm khác. Thứ hai: Pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo lại nghề cho người lao động. Như chúng ta biết do nhu cầu sản xuất, kinh doanh nên các doanh nghiệp phải thay đổi cơ cấu tổ chức, công nghệ sản xuất và các trang thiết bị máy móc. Các thay đổi đó có thể dẫn tới một số lao động bị mất chỗ làm việc. Vì vậy doanh nghiệp phải có trách nhiệm với những người lao động này. Đào tạo lại nghề cho người lao động bị mất chỗ làm việc trong trường hợp này là nghĩa vụ bắt buộc của các doanh nghiệp. Để các doanh nghiệp chủ động hơn trong đào tạo lại nghề cho người lao động, pháp luật về đào tạo lại nghề trong doanh nghiệp cũng quy định cụ thể trong những trường hợp nào doanh nghiệp phải đào tạo lại nghề cho người lao động. Thứ ba: Pháp luật điều chỉnh về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ. Mục đích là nhằm tạo cơ hội cho lao động nữ khi họ không thể tiếp tục công việc cũ và để ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp khi sử dụng 15