Luận văn Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

pdf 79 trang vuhoa 25/08/2022 5060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_cho_vay_co_bao_dam_bang_cam_co_giay_to.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ TRÀ MY PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY CÓ BẢO ĐẢM BẰNG CẦM CỐ GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đam luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được tôi thực hiện một cách độc lập dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Thị Thu Thủy. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn chính xác, có trích dẫn rõ rang và đầy đủ. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Ngô Thị Trà My
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam 7 1.1 Những vấn đề lý luận về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại 7 1.2 Khái niệm, nội dung của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại 16 1.3 Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại 17 Chương 2: Thực trạng pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam 24 2.1 Trình tự, thủ tục cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá 24 2.2 Đối tượng của cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá 25 2.3 Điều kiện của cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá 26 2.4 Hợp đồng tín dụng và hợp đồng cầm cố giấy tờ có giá 28 2.5 Xử lý tài sản cầm cố trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 45 Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam . 54 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam 54 3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam 58 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cầm cố giấy tờ có giá trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam 66 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự GTCG: Giấy tờ có giá HDCC: Hợp đồng cầm cố HĐTD: Hợp đồng tín dụng NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng Thương mại TCTD: Tổ chức tín dụng
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng, mà tiêu biểu nhất là sự phát triển của các ngân hàng thương mại (NHTM). Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa XII thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Bản chất là một tổ chức đặc thù có chức năng kinh doanh tiền tệ, NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các quan hệ tín dụng. Trong đó, hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động này chứa nhiều rủi ro, do đó nếu không có những thiết chế cơ bản để đảm bảo các khoản tiền cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những rủi ro khó lường. Lúc này, ngân hàng sẽ lựa chọn một trong bảy biện pháp bảo đảm theo Điều 318 Bộ luật dân sự 2015, bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Theo đó, biện pháp cầm cố tài sản trong đó có cầm cố giấy tờ có giá (GTCG) được ngân hàng sử dụng phổ biến. Cho dù việc cầm cố GTCG để vay tiền tại các NHTM là một giải pháp hữu hiệu, lợi ích, tuy nhiên trên thực tế thì hoạt động cầm cố GTCG vẫn đang gặp phải một số vướng mắc nhất định, làm cho các bên tham gia giao kết hợp đồng còn e ngại khi xác lập. Do tài sản cầm cố ở đây là GTCG- là một loại tài sản có tính rủi ro vì giá cả biến động theo diễn biến tình hình kinh tế xã hội, chỉ một tác động nhỏ của nền kinh tế cũng có thể làm cho giá trị của chúng bị ảnh hưởng, ví dụ GTCG là chứng khoán. Ở Việt Nam thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có 1
  6. giá. Cụ thể như Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12; Bộ luật dân sự 2015; Thông tư 17/2011/TT-NHNN Quy định về việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng; Thông tư 37/2011/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 17/2011/TT-NHNN ngày 18 tháng 8 năm 2011 quy định về việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng; Nghị định 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm; Nghị định 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT- NHNN về hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm. Các quy định của pháp luật cũng tương đối đầy đủ nhưng trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tế vẫn còn nảy sinh một số vướng mắc, những điểm chưa thống nhất, gây lúng túng, khó khăn cho các bên tham gia giao dịch cũng như đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết các tranh chấp dẫn đến hiệu quả áp dụng pháp luật chưa cao, một số chủ thể không nắm bắt được quy định của pháp luật. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại Ngân hàng Thương mại Việt Nam” là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài GTCG là một loại quyền tài sản có giá trị thiết thực và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Hiện nay, trong các quan hệ tín dụng giữa người vay vốn và các tổ chức tín dụng, cụ thể là các ngân hàng thương mại thì loại tài sản này đang được sử dụng phổ biến và có hiệu quả. Do pháp luật về cho vay cầm cố GTCG có vai trò quan trọng đối với hoạt động cho vay và thu hồi vốn của các ngân hàng nên đây là vấn đề được một số nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: Cuốn sách 2
  7. chuyên khảo về giao dịch bảo đảm đã được tập thể tác giả (TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên) xuất bản năm 2006 với tựa đề: “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng”. Trong cuốn sách này, tác giả phân tích các biện pháp bảo đảm trong đó có biện pháp cầm cố tài sản và những quy định hiện hành của pháp luật về cầm cố tài sản; Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong Luật Dân sự Việt Nam, NXB Trẻ TPHCM. Một số bài viết đăng trên các tạp chí cũng thể hiện quan điểm liên quan đến cầm cố tài sản như: Bùi Đức Giang (2014), “Sửa đổi chế định cầm cố tài sản- góc nhìn từ thực tiễn”, Tạp chí ngân hàng số 5 tháng 3/2014; “Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong dự thảo BLDS”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 5/2005; “Pháp luật về cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 11; Nguyễn Quốc Vinh (2009), “Giao dịch bảo đảm những kẽ hở và rủi ro”, thời báo kinh tế sài gòn online ngày 07/06/2009. Bên cạnh đó, một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch bảo đảm bằng GTCG được đăng tải trên trang web như bài viết: "Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: một số nhận định từ góc độ pháp lý đến thực tiễn" của ThS. Nguyễn Thùy Trang đăng tải trên trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một số luận văn cao học như: “Pháp luật về biện pháp bảo đảm bằng các loại giấy tờ có giá trị trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam” của Nguyễn Thị Nga (2011); “Các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng” của Phạm Đình Chi (2002); “Cầm cố – Biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự” của Trần Công Thịnh (2001); “Giấy tờ có giá - Một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự” của Nguyễn Thị Anh Thơ (2006). 3
  8. Trên cơ sở những công trình khoa học kể trên, học viên có sự tổng hợp và kế thừa để nghiên cứu một cách có hệ thống, từ đó phân tích và đưa ra những đánh giá, giải quyết những vướng mắc phát sinh trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, học viên thấy việc nghiên cứu về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các NHTM Việt Nam có ý nghĩa rất lớn trong tình hình hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trình bày cơ sở lý luận về biện pháp cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng pháp luật để từ đó thấy được những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Để đạt được mục đích ấy, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, các vấn đề lý luận về cho vay có bảo đảm bằng GTCG tại các NHTM Việt Nam: về hoạt động cho vay, về hoạt động cầm cố, về giấy tờ có giá, giao dịch bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tín dụng có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá của các NHTM Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng cho vay cầm cố GTCG tại TCTD ở Việt Nam. Thứ ba, đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm GTCG tại NHTM Việt Nam. 4
  9. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Pháp luật về cho vay có bảo đảm trong hoạt động tín dụng của các NHTM có nội hàm rộng và phức tạp. Do vậy, trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, học viên chỉ nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện quy định của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng biện pháp cầm cố GTCG, đặc biệt là nghiên cứu những quy định liên quan trực tiếp đến cầm cố GTCG trong hoạt động tín dụng của NHTM, cụ thể được quy định tại Bộ luật dân sự 2005, Luật các tổ chức tín dụng 2010, các Nghị định, Thông tư liên quan. Mặt khác, hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại có phạm vi rộng. Chính vì thế phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về hoạt động cho vay- một hình thức của cấp tín dụng, từ đó phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật tại NHTM ở Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên nền tảng của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, học viên sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật. - Phương pháp so sánh pháp luật: So sánh các quy định của pháp luật trước đây và các quy định của pháp luật hiện hành. - Phương pháp thống kê thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về cho vay cầm cố GTCG tại các tổ chức tín dụng để đánh giá khái quát, chỉ ra những rủi ro mà tổ chức tín dụng có thể gặp phải khi thực hiện các giao dịch này 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về pháp luật cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các NHTM Việt Nam. - Phân tích đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện nay về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các NHTM Việt Nam 5
  10. - Góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật cho vay cầm cố GTCG của NHTM ở Việt Nam 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại ngân hàng thương mại Việt Nam 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY CÓ BẢO ĐẢM BẰNG CẦM CỐ GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá 1.1.1.1 Khái niệm cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Hoạt động cho vay của NHTM tiềm ẩn những rủi ro vô cùng lớn, thậm chí có thể gây sụp đổ hệ thống ngân hàng, tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế đất nước. Do đó, NHTM có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba. Nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả và hạn chế đến mức tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay, ở tất cả các nước trên thế giới đều có các quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, trong đó chú trọng đến các vấn đề cho vay có bảo đảm bằng việc cầm cố tài sản và cụ thể là cầm cố giấy tờ có giá. Theo quy định tại Điều 326 Bộ luật dân sự 2005, “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”[12]. Đặc trưng quan trọng nhất của việc cầm cố tài sản là bên cầm cố giao tài sản của mình, cụ thể ở đây là giấy tờ có giá cho bên cho vay để đảm bảo khoản vay. Theo điểm 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, “giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”[14]. Vì vậy, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ 7
  12. có giá là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố là giấy tờ có giá. Cách bảo đảm này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp các khách hàng vay không trả được nợ hay không muốn trả nợ khi đến hạn. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là hình thức cấp tín dụng được các NHTM sử dụng phổ biến vì tính đơn giản, dễ hiểu và thời gian thực hiện nhanh của nó. Mặc dù giấy tờ có giá là tài sản cầm cố có tính thị trường tức là có khả năng thanh lý để thu hồi nợ nhưng hình thức này vẫn có rủi ro nhất định bởi tài sản có thể bị mất giá. 1.1.1.2 Đặc điểm cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là việc ngân hàng Thương mại nắm giữ bản gốc giấy tờ có giá của khách hàng vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho một hay nhiều khoản vay cầm cố tại NHTM. Như vậy, sẽ tồn tại hai mối quan hệ trong nghiệp vụ này, đó là quan hệ cho vay và quan hệ cầm cố giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay. Quan hệ cho vay là một quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai bên: Một bên là người đi vay, một bên là người cho vay (Ngân hàng Thương mại). Trong quan hệ này ngân hàng thương mại chuyển giao quyền sở hữu tiền trong một thời gian nhất định cho bên vay. Sau khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả số tiền gốc và lãi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả. Mối quan hệ thứ hai là quan hệ cầm cố. Đó là một quan hệ pháp luật được hình thành từ rất sớm trong lịch sử pháp luật dân sự. Khái niệm cầm cố cũng được nhắc đến trong Bộ luật Manu của Ấn Độ (thế kỷ II trước công nguyên). Quan hệ cầm cố được điều chỉnh đồng thời bởi quy định của pháp luật về dân sự, kinh tế và ngân hàng. 8
  13. Trong quan hệ cầm cố như đã nói ở trên, bên vay có nghĩa vụ giao giấy tờ có giá là động sản thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng thương mại để đảm bảo cho khoản tiền vay tại ngân hàng. Mối quan hệ này phát sinh từ quan hệ cho vay và nó là quan hệ phụ nhưng có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của quan hệ cho vay. Nếu không có quan hệ cầm cố nghĩa là không có nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng ngân hàng do đó sẽ không thể có quan hệ cho vay. Vì vậy, đối với việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá luôn tồn tại 2 mối quan hệ song song là quan hệ cho vay và quan hệ cầm cố. Thứ hai, đó là vấn đề sở hữu. Dựa trên định nghĩa cầm cố, giấy tờ có giá phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay bởi vì nếu việc xử lý tài sản cầm cố diễn ra thì sẽ dẫn tới việc quyền sở hữu giấy tờ có giá sẽ được chuyển giao cho bên khác, cho nên bên vay phải có quyền định đoạt tài sản này để việc chuyển giao đó có hiệu lực [3]. Do đó, việc cầm cố giấy tờ có giá thuộc sở hữu của người khác là không có giá trị pháp lý. Hơn trên hết, đặc trưng của hình thức cho vay bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là bên vay chỉ cam kết đem cầm cố giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại như một tài sản bảo đảm cho khoản vay chứ không thỏa thuận “bán đứt” giấy tờ có giá cho NHTM. Vì vậy, dựa theo khoản 4 Điều 17 Thông tư 17/2011/TT- NHNN, “sau khi ngân hàng đã hoàn trả hết nợ vay gốc và lãi, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoàn trả các giấy tờ có giá đã sử dụng làm tài sản cầm cố tổ chức tín dụng”[8]. Bên cạnh đó, Điều 340 Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định “Khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 339 của Bộ luật này thì tài sản cầm cố, giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, nếu không có thoả thuận khác”[12]. Như vậy, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá là thỏa thuận từ hai bên về tài sản và nghĩa vụ của các bên. Bên vay chỉ cầm cố giấy tờ có giá để đảm bảo khoản 9
  14. vay chứ không chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại. Đặc điểm thứ ba là về xác lập hợp đồng trong hoạt động cho vay của NHTM: Như phân tích ở trên, do hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tồn tại 2 mối quan hệ đó là cho vay và cầm cố nên giữa NHTM và khách hàng vay sẽ có hai loại hợp đồng: Hợp đồng tín dụng (1 dạng của hợp đồng vay tài sản) và hợp đồng cầm cố tài sản. Điều 471 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”[12]. Như vậy có thể hiểu trong hình thức cấp tín dụng này cơ sở của nó là hợp đồng vay tiền và khi hết hạn của hợp đồng, khách hàng có nghĩa vụ trả lại cho ngân hàng thương mại số tiền tương đương với số tiền đã vay đồng thời trả thêm một số lợi ích vật chất nếu 2 bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Đặc điểm tiếp theo là về nghĩa vụ thanh toán. Khoản 3 Điều 330 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác”[12]. Điều đó có nghĩa là khi hết hạn hợp đồng tín dụng, khách hàng phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng đã ký kết với ngân hàng. Phải trả đủ tiền đã vay và tiền lãi theo thỏa thuận giữa 2 bên. Trong số các nghĩa vụ của khách hàng vay thì nghĩa vụ trả nợ này là quan trọng nhất. Nghĩa vụ này không bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất khả kháng. 10
  15. 1.1.2. Nguyên tắc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Việc cấp tín dụng bằng hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá trước hết phải tuân theo nguyên tắc cho vay chung của Điều 6 Quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN: “1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”.[7] Nguyên tắc thứ nhất là sử dụng vốn vay đúng mục đích: Cho vay để thực hiện mục đích hợp pháp và hiệu quả. Tức là, các đơn vị có nhu cầu vay vốn của ngân hàng đều phải có kế hoạch, đơn xin vay gửi ngân hàng với đầy đủ các nội dung sau: Số tiền vay, thời hạn sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn vay và tính hiệu quả của vốn vay ngân hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng kiểm tra xem xét, nếu thấy đồng vốn vay ngân hàng đem lại hiệu quả kinh tế và trả nợ đúng hạn thì mới quyết định cho vay. Mặt khác trên cơ sở kế hoạch xin vay vốn của người xin vay, bản thân ngân hàng phải xây dựng kế hoạch cho vay vốn của mình để chủ động trong việc đầu tư tín dụng. Trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn phát sinh ngoài kế hoạch, ngân hàng xét thấy cần thiết và hợp lý, cân đối với nguồn vốn của mình, có thể cho vay bổ sung cho người vay. Vốn vay phải sử dụng đúng cam kết và mục đích. Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ bên vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm nguyên tắc này thì bên cho vay có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự điều chỉnh theo pháp luật. Nguyên tắc thứ hai là hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận: Bên vay vốn phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn và lãi. Bởi vì, nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn tập trung và huy 11
  16. động từ các thành phần kinh tế trong xã hội. Do vậy, những người vay vốn của ngân hàng sau một kỳ hạn nhất định nào đó đều phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đơn vị vay vốn sau một thời gian nhất định phải trả cho ngân hàng một khoản lợi tức thoả thuận, vì đó là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân hàng và là một cơ sở cho ngân hàng tiến hành hạch toán kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, đến thời kỳ trả nợ mà đơn vị vay vốn không trả cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và đơn vị phải chịu lãi suất cao hơn lãi suất thông thường. Đồng thời nó đảm bảo sự thống nhất giữa vận động của vật tư, hàng hoá và sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả. Với nguyên tắc này ngân hàng bảo toàn được vốn , kịp thời đưa vốn vào hoạt động kinh doanh của mình, có thu để bù đắp chi và có lãi nhằm duy trì và phát triển hoạt động của bản thân ngân hàng. Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có thể trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp thuận, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng thời gian đã gia hạn. Trên đây là nguyên tắc chung để ngân hàng cho vay. Trong những trường hợp nhất định cho vay có thể có bảo đảm. Tài sản bảo đảm có thể đa dạng, trong đó có các giấy tờ có giá. Các GTCG này phải thỏa mãn các điều kiện sau: a) Được phép chuyển nhượng; b) Thuộc sở hữu hợp pháp của bên cầm cố; c) Có thời hạn còn lại tối thiểu bằng thời gian vay; Vậy cho vay cầm cố GTCG nhằm đảm bảo nhu cầu về vốn tạm thời của khách hàng. Khách hàng vay cầm cố phải hoàn trả vốn vay cho NHTM (cả gốc và lãi) đầy đủ và đúng hạn. 12
  17. 1.1.3. Ý nghĩa của cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá 1.1.3.1 Đối với bên đi vay Cầm cố giấy tờ có giá tạo điều kiện để giải quyết nhu cầu về vốn của khách hàng. Khi dùng giấy tờ có giá để bảo đảm nghĩa vụ giúp cho bên đi vay tập trung được vốn kinh doanh, giảm chi phí huy động và chủ động trong việc hoàn trả gốc và lãi theo hợp đồng. Bên cạnh đó việc thoả thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng vay khi hết hợp đồng tín dụng tạo điều kiện cho khách hàng vay hoạt động kinh doanh tiếp như gia hạn hợp đồng. Thêm vào đó, việc cầm cố hướng cho khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại giấy tờ có giá. Bên vay chỉ có thể nhận lại giấy tờ có giá khi đã trả hết cả nợ gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Như vậy, với việc đem giấy tờ có giá ra để xin vay, bên vay sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay, cùng với đó vốn vay sẽ thực sự đem lại lợi ích cho khách hàng. Mặt khác, việc cầm cố giấy tờ có giá này không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng. Như vậy, khách hàng đem cầm cố giấy tờ có giá đáp ứng đầy đủ những yêu cầu thiết yếu đó là: nhu cầu vốn được giải quyết một cách thuận lợi, linh hoạt đúng quy định của pháp luật; đồng thời là động lực để khách hàng chủ động tiến hành kinh doanh có hiệu quả và phát huy tác dụng của việc vay vốn, tránh những hậu quả pháp lý bất lợi khi không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đối với khoản vay dẫn đến việc ngân hàng thương mại xử lý giấy tờ có giá để thu hồi nợ. 1.1.3.2 Đối với bên cho vay Cầm cố giấy tờ có giá là biện pháp phòng ngừa rủi ro. Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn rủi ro nghĩa là khả năng bên vay không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Do vậy để đảm bảo an toàn hiệu quả trong cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với ngân hàng, pháp luật cho 13
  18. vay các nước đều có những quy định nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay. Việc tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tại Việt Nam, theo Khoản 1 Điều 2 nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng: “Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”[2]. Trên thực tế, hầu hết các khoản cho vay của ngân hàng đều có bảo đảm. Giao dịch bảo đảm được định nghĩa là hợp đồng mà theo đó một bên (gọi là bên bảo đảm) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về việc sẽ thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu đến hạn mà nghĩa vụ hoặc các nghĩa vụ đó không được người có nghĩa vụ thực hiện. Trong 7 biện pháp bảo đảm được liệt kê trong Nghị định163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, cầm cố tài sản được lựa chọn phổ biến cho các giao dịch dân sự, đặc biệt là trong các quan hệ cho vay. Việc cho vay cầm cố giấy tờ có giá có nhiều điểm thuận lợi, cho vay cầm cố dễ dàng xác định giá trị hơn cho vay thế chấp. Giấy tờ có giá là loại tài sản bảo đảm tuy không chiếm số lượng lớn trong các giao dịch của ngân hàng, song về tỷ trọng lại không nhỏ khi các giao dịch đều có giá trị lớn [22]. Như vậy ngân hàng thương mại áp dụng biện pháp cầm cố giấy tờ có giá có ý nghĩa phòng ngừa rủi ro vì tài sản bảo đảm này có độ an toàn cao và đem lại lợi nhuận nếu được đầu tư và khai thác hiệu quả. Cụ thể, sổ tiết kiệm đang được coi là một trong những tài sản bảo đảm có tính an toàn cao nhất đối với các ngân hàng vì giá trị khoản vay thường chiếm tỷ lệ cao so với giá trị của sổ tiết kiệm. Hoặc khi giấy tờ có giá là các loại chứng khoán, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận nếu đầu tư hiệu quả. Đồng thời giao dịch cho vay cầm cố giấy tờ có giá còn được đảm bảo an toàn về mặt pháp lý bởi chính các quy định cụ thể, chặt chẽ về trình tự, thủ tục đăng ký cầm cố. Khi hợp đồng cầm cố được 14
  19. thiết lập, ngân hàng có ngay quyền quản lý giấy tờ có giá và quyền ưu tiên theo đuổi giấy tờ có giá khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Do đó ngân hàng tránh được rủi ro một cách có hiệu quả vì đã có tài sản là giấy tờ có giá phòng bị nếu khách hàng vay không trả được nợ. 1.1.3.3 Đối với nền kinh tế, xã hội Khi ngân hàng cấp tín dụng bằng hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá thì các khách hàng vay giải quyết được nhu cầu về vốn và tiếp tục kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động này thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó sẽ có nhiều hàng hoá đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Như vậy, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đã góp phần điều hoà cung cầu sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, nó còn mở rộng quá trình phân công lao động và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế. Bởi vì khi được đẩy mạnh quy mô sản xuất kinh doanh, các tổ chức, cá nhân sẽ sử dụng nhiều lao động hơn góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển xã hội. Qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh đồng thời thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích lũy vốn, tạo cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, đưa nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Một cách tổng quát, tổ chức tín dụng thu hút tập trung mọi nguồn vốn, tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để cho vay đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững. 15
  20. 1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá tại các ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Đó là một bộ phận của pháp luật về ngân hàng, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành, điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong quá trình xác lập, thực hiện, thay đổi và chấm dứt hợp đồng tín dụng và hợp đồng cầm cố giấy tờ có giá để bảo đảm tiền vay giữa ngân hàng thương mại và các bên liên quan. 1.2.2 Đặc điểm của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Đặc điểm của pháp luật về cho vay đó là quyền tự chủ, tự quyết định của ngân hàng thương mại; tự do thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại với khách hàng. Chủ yếu là những quy phạm trao quyền, tạo điều kiện cho các thủ thể để có thể ký kết và thực hiện hợp đồng chứ không phải bộ phận pháp luật thể hiện sự can thiệp của công quyền. Hơn trên hết, pháp luật về cho vay gắn với quyền bình đẳng, tự do thỏa thuận với các chủ thể tham gia các hoạt động này. 1.2.3 Cấu trúc của pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá cấu thành bởi các nhóm quy phạm về cho vay và nhóm quy phạm về bảo đảm tiền vay.Cụ thể: + Các quy định về trình tự, thủ tục cho vay + Các quy định về hợp đồng tín dụng + Các quy định về hợp đồng cầm cố bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá + Các quy định về xử lý tài sản cầm cố bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá 16