Luận văn Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam

pdf 75 trang vuhoa 25/08/2022 3540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_boi_thuong_thiet_hai_trong_linh_vuc_bu.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN CHUNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VĂN CHUNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Nhƣ Phát HÀ NỘI - 2015 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Lê Văn Chung 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG 15 THIỆT HẠI 1.1. Bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự 15 1.1.1. Khái lược về quá trình phát triển của trách nhiệm bồi 15 thường thiệt hại 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại 17 1.1.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại 18 1.1.4. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại 20 1.1.5. Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại 23 1.2. Bồi thường thiệt hại trong pháp luật bưu chính 24 1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính 24 1.2.2 . Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh 28 vực bưu chính 1.2.3. Các mức bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính 30 1.2.3. Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực 30 bưu chính Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT 36 HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH 2.1 . Quy định về bồi thường thiệt hại của một số doanh 36 nghiệp bưu chính đang tham gia cung ứng dịch vụ tại Việt Nam 4
  5. 2.1. 1 Quy định của Tổng công ty Bưu điện Việt Nam 37 2.1.2. Quy định của Công ty cổ phần bưu chính Viettel 37 2.1.3. Quy định của Công ty cổ phần bưu chính Hợp Nhất 37 2.1.4 Quy định của một số doanh nghiệp bưu chính quốc tế 38 2.1.5. Một số đánh giá, nhận xét 41 2.2. Quy định về bồi thường thiệt hại của Bưu chính một số 43 quốc gia trên thế giới 2.2.1. Quy định của Bưu chính Nga 43 2.2.2. Quy định của Bưu chính Singapore 43 2.2.3. Quy định của Bưu chính New Zealand 44 2.2.4. Quy định của Bưu chính Thái Lan 44 2.3. Quy định về bồi thường thiệt hại ở một số lĩnh vực 44 tương đồng 2.3.1. Lĩnh vực hàng hải (vận tải đường biển) 44 2.3.2. Lĩnh vực hàng không 46 2.3.3. Lĩnh vực vận tải đa phương thức 46 2.4. Tham chiếu một số quy định quốc tế về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính mà Việt Nam tham gia ký 48 kết 2.4.1 Quy định của Liên minh bưu chính thế giới 50 2.4.2. Quy định của Công ước Warsaw (1929) 50 2.4.3. Quy định của Công ước Montreal (1999) 50 2.4.4. Quy định của Công ước CMR (1956) 50 2.4.5. Quy định của Công ước Liên hợp quốc (1980) 51 2.4.6. Quy định của Quy tắc Hague Visby (1968) 51 2.5. Đánh giá, nhận xét quy định pháp luật về bồi thường thiệt 52 hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam hiện nay 2.5.1. Thực trạng môi trường kinh doanh dịch vụ bưu chính 52 5
  6. 2.5.2. Đánh giá, nhận xét các quy định về bồi thường thiệt hại 52 trong lĩnh vực bưu chính Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN 59 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG LĨNH VỰC BƢU CHÍNH Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về 59 bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính 3.2. Một số ý kiến cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định 60 pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính 3.2.1. Quy định về bồi thường thiệt hại đối với dịch vụ bưu 60 chính quốc tế vận chuyển bằng đường thủy bộ 3.2.1.1. Sự cần thết quy định về bồi thường thiệt hại theo đường 61 thủy bộ 3.2.1.2. Nguyên tắc xây dựng mức bồi thường thiệt hại đối với 62 dịch vụ bưu chính quốc tế vận chuyển bằng đường thủy bộ 3.2.1.3. Tính toán mức bồi thường thiệt hại dịch vụ bưu chính 62 theo đường thủy bộ 3.2.2. Quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi 63 phạm hợp đồng đã giao kết do không đảm bảo chỉ tiêu toàn trình 3.2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Tổng Công ty 64 Bưu điện Việt Nam (doanh nghiệp nhà nước được chỉ định) đối với các dịch vụ bưu chính quốc tế 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về 67 bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính 3.2.5. Hoàn thiện vai trò, năng lực quản lý của cơ quan quản 67 lý nhà nước về bưu chính 3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục 69 6
  7. pháp luật về bưu chính KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 7
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 1.1 Mứ c bồi thường thiệt hại bưu gửi theo quy định pháp lý 33 cũ 1.2 Mứ c bồi thường thiệt hại bưu gửi theo quy định pháp lý 34 hiện hành 2.1 Mứ c bồi thường thiệt hại theo quy định của UPU 37 2.2 Mứ c bồi thường thiệt hại công ty DHL 39 2.3 Mứ c bồi thường thiệt hại công ty UPS 39 2.4 Mứ c bồi thường thiệt hại công ty Fedex 39 2.5 Mứ c bồi thường thiệt hại công ty TNT 39 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bưu chính là một lĩnh vực dịch vụ hạ tầng, có ảnh hưởng nhất định đến các mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa đến an ninh quốc phòng. Thị trường bưu chính trong nước thời gian qua đã phát triển rất sôi động và mang tính cạnh tranh cao. Mạng lưới bưu chính bao gồm hệ thống các bưu cục được mở rộng nhanh chóng và hiện đại hóa theo kịp trình độ các nước trong khu vực. Doanh nghiệp bưu chính thuộc nhiều thành phần kinh tế đã và đang tham gia mạnh mẽ vào việc kinh doanh các dịch vụ bưu chính, không ngừng đổi mới để cải thiện năng lực khả năng cạnh tranh và nâng cao chất lượng dịch vụ, từng bước khẳng định chỗ đứng trên thị trường bưu chính Việt Nam. Những năm gần đây, bên cạnh các doanh nghiệp bưu chính trong nước, thị trường bưu chính Việt Nam đã có thêm nhiều doanh nghiệp bưu chính quốc tế có tên tuổi như DHL, TNT, UPS, Fedex lựa chọn Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một trong chuỗi các thị trường có cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát toàn cầu của các doanh nghiệp bưu chính này. Công tác quản lý Nhà nước về bưu chính trong thời gian qua cũng đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận. Luật Bưu chính 2010, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung của Luật bưu chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành đã tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về bưu chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bưu chính thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh dịch vụ bưu chính trong môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với việc ngày càng nhiều doanh nghiệp bưu chính tham gia cung cấp dịch vụ bưu chính đã tạo điều kiện cho người sử dụng dịch vụ bưu chính có cơ hội lựa chọn, sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp bưu chính có uy tín với chất lượng dịch vụ cao và mức giá cước cạnh tranh. 9
  10. Trong hoàn cảnh đó, giống như các lĩnh vực kinh tế - dịch vụ khác, điều khoản về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính giữa các doanh nghiệp bưu chính và khách hàng (người sử dụng dịch vụ bưu chính) là một trong những điều khoản vô cùng quan trọng, nó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên khi có sự vi phạm các điều khoản khác trong hợp đồng. Hơn thế nữa, lĩnh vực bưu chính là một lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, việc bồi thường thiệt hại có những điểm đặc thù, phức tạp riêng, đòi hỏi phải có sự xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng. Việc xem xét, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại luôn là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về bưu chính, vừa nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của cả doanh nghiệp bưu chính cung cấp các dịch vụ bưu chính và người sử dụng dịch vụ bưu chính, vừa đảm bảo phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước và các Công ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tham gia ký kết trong lĩnh vực bưu chính. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về pháp luật bồi thường thiệt hại đã bộc lộ một số hạn chế như: Quy định về mức bồi thường thiệt hại cho dịch vụ bưu chính quốc tế vận chuyển bằng phương thức khác quy định tại điểm c khoản 1 Điều 25 Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính, một số quy định khác liên quan đến bồi thường thiệt hại như bồi thường thiệt hại trong trường hợp doanh nghiệp bưu chính vi phạm hợp đồng đã giao kết với người sử dụng dịch vụ do không đảm bảo thời gian toàn trình, cơ chế giải quyết tranh chấp khi có phát sinh giữa doanh nghiệp bưu chính và người sửa dụng dịch vụ Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu đề tài "Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam" với mong muốn được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam, từ các vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại, thực trạng bồi thường thiệt hại để từ đó nêu ra những điểm còn hạn chế của pháp luật và đề ra một số phương hướng góp phần hoàn thiện các quy định về vấn đề này. 10
  11. 2. Tình hình nghiên cứu Bưu chính là một ngành kinh tế dịch vụ thuộc cơ sở hạ tầng quốc gia như các ngành giao thông, điện, nước, v.v và có sự gắn kết với các hoạt động kinh tế xã hội khác nhằm bảo đảm nhu cầu thông tin thiết yếu của mọi người dân. Trong thời gian qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bưu chính cũng đã được xây dựng theo định hướng mở cửa, hội nhập với quốc tế, quản lý các vấn đề chuyên ngành theo đúng thông lệ quản lý tiên tiến trên thế giới, tạo dựng cơ chế thị trường nhưng vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa. Do bưu chính cũng là ngành tương đối đặc thù với những nét riêng biệt nên các công trình nghiên cứu về pháp luật bưu chính nói chung, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính nói riêng cho đến nay là rất hạn chế. Trong thời gian qua, cũng đã có công trình khoa học nghiên cứu về giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ bưu chính ở Việt Nam của Phạm Minh Đức - Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010. Nhìn chung, công trình nghiên cứu trên ít nhiều đã đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến các mức giới hạn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dịch vụ bưu chính ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc Quốc hội thông qua Luật Bưu chính 2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung của Luật Bưu chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác về bưu chính mới ban hành đã đã tạo ra các căn cứ pháp lý mới cho công tác nghiên cứu quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam. Do đó, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc một số nội dung trong công trình khoa học đã được công bố, người viết hy vọng góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề pháp lý liên quan đến pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam, qua đó tìm ra những bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy đinh của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính. Việc 11
  12. hoàn thiện các quy định pháp luật về bưu chính sẽ nâng cao chất lượng các dich vụ bưu chính, thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bưu chính, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng dịch vụ bưu chính cũng như của chính các doanh nghiệp bưu chính trong quá trình hội nhập và phát triển. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu và làm rõ những vấn đề pháp lý về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính Tham khảo pháp luật về bồi thường thiệt hại ở một số lĩnh vực có nhiều điểm tương đồng như lĩnh vực hàng không, lĩnh vực vận tải. Bên cạnh đó, luận văn cũng có tham khảo pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính của một số quốc gia có nên bưu chính phát triển như Singapore, Nga, New Zealand Luận văn cũng có tiến hành thu thập, thống kê, phân tích các số liệu về cước, mức bồi thường của các doanh nghiệp bưu chính đang cung ứng dich vụ bưu chính tại Việt Nam. Trên cơ sở , luận văn có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại bưu chính ở Việt Nam qua đó đảm bảo việc bồi thường thiệt hại về bưu chính phù hợp hơn với tình hình thực tế, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng dịch vụ bưu chính cũng như quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp bưu chính đang tham gia cung ứng các dịch vụ bưu chính tại Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn được cụ thể hóa bằng những nhiệm vụ sau đây: 12
  13. - Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành (trong nước và quốc tế) quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính và các ngành khác (hàng không, vận tải ) - Kinh nghiệm của một số quốc gia có nền bưu chính phát triển khi quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính - Thu thập, thống kê, phân tích các số liệu về cước, mức bồi thường của các doanh nghiệp bưu chính - Nghiên cứu, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính ở Việt Nam: mức bồi thường thiệt hại đối với dịch vụ bưu chính quốc tế vận chuyển bằng phương thức khác, bồi thường thiệt hại trong trường hợp doanh nghiệp bưu chính vi phạm hợp đồng đã giao kết với người sử dụng dịch vụ do không đảm bảo thời gian toàn trình, cơ chế giải quyết tranh chấp khi có phát sinh giữa doanh nghiệp bưu chính và người sửa dụng dịch vụ 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Trong khuôn khổ của luận văn, đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu xây dựng mức bồi thường trong trường hợp bưu gửi bị mất hoặc hư hỏng hoàn toàn đối với dịch vụ bưu chính quốc tế khi vận chuyển theo đường thủy bộ, cơ chế giải quyết tranh chấp khi có phát sinh giữa doanh nghiệp bưu chính và người sửa dụng dịch vụ 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên nền tảng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống kết hợp với các phương pháp nghiên cứu hiện đại như phương pháp thống kê tổng hợp, phương pháp so sánh phân tích, phương pháp thu thập tài liệu nhằm đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất. 6. Kết cấu của luận văn 13
  14. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về bồi thường thiệt hại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành Chương 2: Thực trạng về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bưu chính. 14
  15. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI 1.1. BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ 1.1.1. Khái lược về quá trình phát triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã trải qua một quá trình phát triển với nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác biệt. Có thể khái quát các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: Giai đoạn thứ nhất, trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá nhân, mỗi khi bị xâm phạm vào quyền lợi được tự ý trả thù để trừng phạt đối phương, hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Chế độ này còn được gọi là chế độ tư nhân phục thù. Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có thể nộp một số tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù. Chế độ này còn được gọi là chế độ thục kim. Chế độ thục kim đã trải qua hai giai đoạn phát triển: 1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các bên tự thoả thuận với nhau về tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện; 2) Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải giải quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch giá do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim này có thể coi như vừa là một hình phạt, vừa có tính chất bồi thường thiệt hại. Vào thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La Mã mới bắt đầu chuyển từ chế độ tự ý thục kim sang bắt buộc thục kim. 15
  16. Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự . Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng phạt những tội phạm chỉ liên quan đến trật tự xã hội, không liên hệ đến cá nhân. Sự can thiệp này rất cần thiết, vì nếu không có sự thanh trừng của xã hội, những vụ phạm pháp này không được chú ý tới vì không làm hại trực tiếp đến quyền lợi của tư nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần dần được nới rộng đến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá nhân như các vụ ẩu đả, trộm cắp. Về phương diện hình sự, cá nhân mất hết quyền phục thù và chỉ còn quyền xin bồi thường tổn hại của mình về dân sự. Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm tổng quát, bắt buộc người gây ra sự tổn thất phải bồi thường thiệt hại bất luận trường hợp nào. Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự công. Vì vậy, các điều luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long đều quy định các điều khoản trách nhiệm về luật hình ví dụ: Quốc triều hình luật đã quy định: Nếu những súc vật và chó đã húc, đá và cắn người mà cách làm hiệu và ràng buộc không đúng phép – (theo đúng phép vật nào hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay là chó dại mà không giết thì người chủ phải phạt 60 lượng. Nếu vì cớ trên, có người chết hay bị thương thì phải tội quá thất. Nếu cố ý thả ra để làm cho người chết hay bị thương thì phải tội kém tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc. Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố trêu trọc những vật kia, mà bị thương hay chết, thì người chủ không phải tội [Điều 582]. 16
  17. Nếu những súc vật và chó đã húc, đá và cắn người mà cách làm hiệu và ràng buộc không đúng phép – (theo đúng phép vật nào hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay là chó dại mà không giết thì người chủ phải phạt 60 lượng. Nếu vì cớ trên, có người chết hay bị thương thì phải tội quá thất. Nếu cố ý thả ra để làm cho người chết hay bị thương thì phải tội kém tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc. Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố trêu trọc những vật kia, mà bị thương hay chết, thì người chủ không phải tội [Điều 582]. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, điều 468 Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Ví dụ như quy định việc đánh bị thương bằng chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương thì phải nuôi 80 ngày Nhưng ngoài những trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam không phân biệt rõ rệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự và cũng không nêu lên một nguyên tắc tổng quát nào về trách nhiệm dân sự. Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định và điều chỉnh bởi Luật tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại hiện nay được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó người có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại Theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành (gồm Bộ Luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định như sau: 1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi 17
  18. thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. 2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. 3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại [Điều 307]. Tuy nhiên, các nội dung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự không nêu rõ khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. 1.1.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, 18
  19. áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn có những đặc điểm riêng sau đây: Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự và các pháp luật chuyên nghành. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Bộ luật dân sự và luật chuyên nghành điều chỉnh. Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Về hậu quả: trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với 19
  20. những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề 1.1.4. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại 1.1.4.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự và pháp luật chuyên ngành một cách đúng đắn. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao gồm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng. Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ 20
  21. hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra. Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba bởi lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp 21
  22. luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc bồi thường thiệt hại. Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải bồi thường thiệt hại Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề . Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không được sự đồng ý của họ. Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao 22
  23. hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận. 1.1.4.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất còn trong trường hợp bồi thường thiệt hại về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh thần là những tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính toán và không thể chứng minh được. 1.1.5. Giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Giới hạn là phạm vi được quy định, không thể vượt qua [Đại Từ điển Tiếng Việt]. Vậy giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại là gì? Đến nay chưa có văn bản luật nào định nghĩa rõ về giới hạn trách nhiệm bồi thường 23