Luận văn Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_boi_thuong_khi_nha_nuoc_thu_hoi_dat_tu.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
- hh VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI QUANG HẬU PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DOÃN HỒNG NHUNG HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Quang Hậu
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa GPMB : Giải phóng mặt bằng KT-XH : Kinh tế - xã hội NN : Nhà nước QSDĐ : Quyền sử dụng đất QP-AN : Quốc phòng - an ninh SDĐ : Sử dụng đất TP : Thành phố TĐC : Tái định cư THĐ : Thu hồi đất UBND : Ủy ban nhân dân
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 8 1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 8 1.2. Phân biệt giữa thu hồi đất với trưng thu, trưng dụng đất 12 1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất 14 1.4. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất 16 1.5. Kinh nghiệm về thu hồi đất của một số quốc gia trên thế giới và gợi mở đối với Việt Nam 34 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 39 2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội. .39 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT. 58 3.1. Những yêu cầu đặt ra để hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. 58 3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 59 3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 60 3.4. Giải pháp tổ chức thực thi áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất 68 3.5. Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 72 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên, tài sản quan trọng của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện cần cho mọi hoạt động sản xuất và đời sống. Ở nước ta, một nước đang thực hiện quá trình CNH-HĐH, khi vẫn còn nhiều người sống nhờ vào nông nghiệp, thì đất đai càng trở thành nguồn lực quan trọng. Muốn phát huy tác dụng của nguồn lực đất đai, ngoài việc bảo vệ quỹ đất của quốc gia, còn phải quản lý đất đai hợp lý, nâng cao hiệu quả SDĐ sao cho vừa bảo đảm được lợi ích trước mắt, vừa tạo điều kiện SDĐ hiệu quả lâu dài, tăng cường bảo vệ môi trường đất bảo đảm điều kiện để phát triển bền vững đất nước. Trước kia, ông cha ta đấu tranh và hy sinh để bảo vệ từng tấc đất. Ngày nay để phát triển nước nhà, Đảng và NN ta cũng chú trọng đến việc khai thác vốn quý này phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH đất nước. Để thực hiện mục tiêu “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội IX đề ra, hàng vạn ha đất được NN thu hồi để sử dụng vào xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, cơ sở hạ tầng và phục vụ cho các mục đích QP-AN. Việc THĐ đã đem lại những kết quả tích cực trong yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nghề nông, lâm nghiệp sang ngành công nghiệp, dịch vụ; chuyển dịch cơ cấu dân số từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp; các dự án THĐ để xây dựng các công trình an sinh xã hội cũng góp phần bảo đảm hơn nữa đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề THĐ và những chính sách bồi thường sau khi THĐ lại là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp bởi nó đã động chạm đến quyền lợi trực tiếp của người dân có đất bị thu hồi, nó tác động đến mọi mặt đời sống KT-XH của cộng đồng dân cư nông thôn Chính vì vậy, vấn đề THĐ hiện nay đang là một vấn đề “nóng”, được sự quan tâm của mọi đối tượng trong xã hội và của cả NN. Hiện nay, công tác THĐ và thực hiện các chính sách bồi thường sau thu hồi gặp nhiều khó khăn, tồn tại nhiều vướng mắc, hiệu quả thấp, kể cả việc THĐ để xây 1
- dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng đồng dân cư có đất bị thu hồi. Nhiều địa phương phải điều chỉnh lại quy hoạch, sửa đổi thiết kế dự án, chờ đợi trong thời gian dài do không giải phóng được mặt bằng. Hậu quả là làm ảnh hưởng tiến độ thực hiện các công trình, gây thiệt hại lớn về kinh tế của doanh nghiệp, nhà đầu tư có nhu cầu SDĐ và NN, làm mất ổn định tình hình chính trị - xã hội ở địa phương. Có rất nhiều nguyên nhân gây nên thực trạng này trong đó có nguyên nhân sâu xa là từ các quy định về bồi thường khi NN THĐ chưa hoàn thiện. Nhận thức được vấn đề còn tồn tại này, NN ta đã liên tục sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường khi NN THĐ. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay vẫn là mảng đề tài hết sức “nóng bỏng” cần sự quan tâm của NN và của toàn xã hội. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định về bồi thường khi NN THĐ nhằm tìm ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực thi vấn đề này trong thực tế vẫn là việc làm cần thiết ở nước ta trong bối cảnh hiện nay. Với những lợi thế của một Thủ đô Hà Nội có bề dày lịch sử hơn 1.000 năm tuổi, Hà Nội đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Hàng ngàn dự án đã và đang được triển khai trên địa bàn toàn TP với kế hoạch dự kiến thu hồi hàng vạn héc ta đất canh tác ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục nghìn hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức. Công tác bồi thường cho người dân là những thách thức không nhỏ cho các cấp ủy Đảng và chính quyền từ TP đến cơ sở. Xuất phát từ thực tế giải quyết vấn đề này cho thấy đây là công việc khó khăn, phức tạp nảy sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài và dễ phát sinh thành những điểm nóng gây mất ổn định về chính trị. Nhận thức sâu sắc được những khó khăn, thách thức của công tác bồi thường, GPMB, UBND TP. Hà Nội đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về bồi thường khi NN THĐ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Thủ đô. Tuy nhiên, trong điều kiện Hà Nội mở rộng địa giới hành chính và triển khai nhiều dự án lớn để phát triển trở thành Thủ đô hiện đại, văn minh của một đất nước có dân số hơn 90 triệu dân thì việc thực thi pháp luật về bồi thường khi NN THĐ trên địa bàn thủ đô vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế cần được nghiên cứu để chỉ ra những nguyên 2
- nhân khách quan và chủ quan. Trên cơ sở đó, có những kiến nghị, đề xuất với chính quyền TP giải pháp khắc phục nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án góp phần xây dựng Hà Nội trở thành Thủ đô văn minh, giàu đẹp đáp ứng với lòng tin yêu của đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế. Với ý nghĩa trên, tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” để nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học, qua những kiến thức lý luận và thực tiễn, tìm hiểu nguyên nhân và đóng góp ý kiến nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về bồi thường thiệt hại khi NN THĐ trên địa bàn TP. Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bồi thường khi NN THĐ là một trong những chế định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực tiếp điều chỉnh quan hệ phát sinh tác động đến lợi ích của người bị THĐ, của cộng đồng, nhà đầu tư và lợi ích của quốc gia nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học pháp lý. Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả: TS. Nguyễn Thị Nga (2010) “Pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng”, Tạp chí Luật học; TS. Nguyễn Thị Nga (2011) “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học; TS. Nguyễn Thị Nga (2013), “Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Đề tài khoa học cấp trường - trường Đại học Luật Hà Nội; Trịnh Thị Hằng Nga, “Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 1999; Hoàng Thị Thu Trang, “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”, Luận văn Thạc sĩ (2012); Nguyễn Thị Tâm, “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013); Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về Bồi thường khi Nhà nước thu hồi 3
- đất nông nghiệp ở Việt Nam”; GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, “Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiếu kiện”, Báo Kinh tế và Đô thị, số ra ngày 09/10/2006; PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, “Bình luận các quy định về Thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; PGS.TS. Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”, sách chuyên khảo, NXB Tư pháp năm 2013; ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học “Góp ý ựd thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ chức tại Đại học Luật Hà Nội; Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý giá để tác giả Luận văn kế thừa và tiếp tục mở rộng nghiên cứu về “pháp luật về bồi thường, khi Nhà nước thu hồi đất” trên các bình diện: Cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thi hành. Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau để phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi NN THĐ. Để từ đó hoàn thiện những quy định mới về vấn đề này để có thể đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đặt ra những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây: - Phân tích để làm rõ các vấn đề liên quan đến thực thi pháp luật về bồi thường khi NN THĐ; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi NN THĐ nói chung và đi sâu nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật này trên địa bàn TP. Hà Nội; - Đưa ra những định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường khi NN THĐ. 4
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá thực thi pháp luật về bồi thường khi NN THĐ qua thực tiễn thi hành trên địa bàn TP. Hà Nội. Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi NN THĐ để làm rõ những kết quả đạt được và các khó khăn, vướng mắc trong quá trình NN THĐ. Nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân, khó khăn, tồn tại và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi NN THĐ. b. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn của một bản Luận văn thạc sỹ luật học, đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật thực định, các nguyên tắc pháp lý cũng như các quy định pháp luật của Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực bồi thường khi NN THĐ. Luận văn đã tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định của Luật Đất đai năm 2013và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định về giá đất; Nghị định số 47/NĐ-CP ngày 15/05/2014 về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NN THĐ (Nghị định số 47/NĐ- CP) Bên cạnh đó, Luận văn cũng tìm hiểu các quy định khác của pháp luật có liên quan đến bồi thường khi NN THĐ trên địa bàn TP. Hà Nội như: Luật Thủ Đô năm 2012, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật, tác giả mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi NN THĐ để rút ra những kết quả đạt được trong công tác thực thi pháp luật về mảng đề tài này. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những đánh giá, nêu ra những khó khăn, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong công tác bồi thường khi NN THĐ. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình thực hiện Luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin. 5
- - Phương pháp duy vật biện chứng lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng NN pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, với mục tiêu tìm hiểu và đánh giá thực tiễn thi hành công tác bồi thường khi NN THĐ, Luận văn còn sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: Phân tích, tổng hợp số liệu, dữ liệu thu thập được tại Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường; UBND TP. Hà Nội: Các sở, ban, ngành của TP; UBND các quận, huyện, thị xã thuộc TP; Ban Chỉ đạo GPMB TP. Hà Nội để đánh giá, phân tích thực trạng công tác bồi thường khi NN THĐ. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy định pháp luật, tìm ra các điểm bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật về bồi thường khi NN THĐ; điểm chưa phù hợp giữa quy định pháp luật với thực tiễn thi hành. - Phương pháp tổng - phân - hợp, quy nạp, diễn dịch: Phương pháp này được sử dụng khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn đã tiếp cập, thu thập kế thừa các thông tin, tài liệu tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các số liệu của các công trình khoa học đã công bố để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá pháp luật về bồi thường khi NN THĐ, đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập của pháp luật về vấn đề này để đề xuất các giải pháp phù hợp theo mục tiêu đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình đi trước, Luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện và tập trung pháp luật về bồi thường khi NN THĐ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong đó tập trung đi vào thực tiễn về tình hình bồi thường khi NN THĐ trên địa bàn TP. Hà Nội. Bên cạnh đó, điểm nổi bật của Luận văn là phân tích những quy định mới về pháp luật đất đai trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, so sánh với những quy định cũ để thấy được những ưu nhược điểm trong bồi thường khi NN THĐ. 6
- Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất, hệ thống hóa những quy định mới nhất liên quan đến bồi thường khi NN THĐ. Qua việc tổng hợp những quy định mới, so sánh với quy định cũ, Luận văn đưa ra những định hướng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường khi NN THĐ; làm rõ sự khác biệt trong việc NN THĐ so với việc trưng thu, trưng dụng đất; nêu đặc điểm, bản chất của việc bồi thường, hỗ trợ khi NN THĐ để có thể phân biệt được với bồi thường trong các trách nhiệm pháp lý như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự; trách nhiệm hình sự; đánh giá ý nghĩa, tác động của việc bồi thường, hỗ trợ khi NN THĐ Thứ hai, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng, ý nghĩa và tác động của pháp luật về bồi thường, khi NN THĐ trên địa TP. Hà Nội; đồng thời, Luận văn cũng chỉ ra được những đặc điểm riêng có của Hà Nội khác so với các địa phương khác, nhằm tìm ra được đặc trưng trong vấn đề bồi thường khi NN THĐ. Trên cơ sở đó chỉ ra những tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế này trong các quy định hiện hành về bồi thường khi NN THĐ trên địa bàn TP. Hà Nội. Thứ ba, đề xuất những định hướng và các giải pháp cụ thể góp phần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường, khi NN THĐ nói chung và trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được bố cục gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiẽn tại Thành phố Hà Nội Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu qủa thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Thành phố Hà Nội 7
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 1.1.Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 1.1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Trong đời sống hằng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác về vật chất hay tinh thần thì phải bồi thường, có thể là bồi thường bằng tiền, hiện vật hoặc bằng một lời xin lỗi cho hành vi của mình gây ra. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông - Viện Ngôn ngữ học, “Bồi thường” là “Đền bù bằng tiền những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà mình phải chịu trách nhiệm. Ví dụ: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; bồi thường cho gia đình người bị nạn; bồi thường danh dự”.[52] Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm này xuất hiện trong nhiều ngành luật như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do hành vi của các cơ quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp luật lao động Đối với lĩnh vực Luật Đất đai nói riêng, thuật ngữ “bồi thường” khi NN THĐ được đặt ra từ rất sớm. Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng TP đề cập vấn đề bồi thường khi NN THĐ. Đặc biệt khi Luật Đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các nghị định hướng dẫn thi hành, có thể 8
- kể đến như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi NN THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi NN THĐ sử dụng vào mục đích QP-AN, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Mặc dù pháp luật không đưa ra giải thích chính thức xong có thể hiểu “đền bù thiệt hại” khi NN THĐ là việc trả lại những thiệt hại do việc THĐ gây ra, tương xứng với giá trị hoặc công lao mà người SDĐ đã đầu tư vào đất trong quá trình sử dụng. Khi đề cập đến thuật ngữ “đền bù” thiệt hại người ta hay nghĩ đến việc đền bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi. Trong khi đó, thuật ngữ “bồi thường” lại cho thấy rằng NN chỉ bồi thường những giá trị, thiệt hại hợp lý về đất và tài sản trên đất cho người SDĐ khi bị NN THĐ. Mặt khác, nội hàm của thuật ngữ “đền bù” chỉ là việc NN đền bù thiệt hại do hành vi THĐ gây ra cho người SDĐ mà không đi liền sau đó việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, TĐC. Do đó, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1993 qua lần sửa đổi năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản đi kèm. Tiếp tục kế thừa Luật Đất đai 2003, thuật ngữ “bồi thường” cũng được sử dụng tại Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định về giá đất; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP; Thông tư số 37/2014/TT- BTNMT ngày 30/06/2014 Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NN THĐ Tại khoản 12 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 giải thích về thuật ngữ “bồi thường” như sau: “Bồi thường về đất là việc NN trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất thu hồi cho người SDĐ”. Như vậy, song song với việc THĐ, NN tiến hành bồi thường, hỗ trợ và TĐC cho người SDĐ bị thu hồi. Việc bồi thường được NN tiến hành trên cơ sở trả lại giá trị QSDĐ được tính bằng tiền đối với diện tích đất thực tế bị thu hồi. Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của việc bồi thường khi NN THĐ như sau: 9
- - Bồi thường khi NN THĐ cũng là một loại trách nhiệm nhưng đây không phải là trách nhiệm dân sự mà là trách nhiệm NN. Loại trách nhiệm này chỉ được đặt ra khi NN có hành vi THĐ. Nói cách khác, bồi thường về đất là hậu quả pháp lý của hành vi THĐ của NN; - Bồi thường là trách nhiệm của NN nhằm bù đắp tổn thất về quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ do hành vi THĐ của NN gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật Đất đai năm 2013; - Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi THĐ của NN gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định hành chính về THĐ của cơ quan NN có thẩm quyền; - Bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa một bên là NN (chủ thể có hành vi THĐ) với bên kia là người chịu tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi THĐ của NN gây ra; - Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích thực tế bị thu hồi; thiệt hại thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do NN quy định tại thời điểm THĐ; - Người SDĐ khi bị NN THĐ muốn được bồi thường phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định; - Khi NN THĐ không chỉ được bồi thường về đất còn có chính sách bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và các chính sách hỗ trợ, TĐC nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. 1.1.2. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Bên cạnh thuật ngữ bồi thường, trong các văn bản pháp luật hiện hành còn đề cập đến khái niệm hỗ trợ khi NN THĐ. Luật Đất đai năm 2013, khoản 14 Điều 4 giải thích: “Hỗ trợ khi NN THĐ là việc NN trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”. Chính sách hỗ trợ khi NN THĐ nói chung thể hiện sự nhân đạo của NN, biểu hiện bản chất “của dân, do dân và vì dân” của NN ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người dân bị THĐ, thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh 10
- phí để di dời đến địa điểm mới giúp đỡ một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu đồng thời nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: Thứ nhất, người SDĐ khi Nhà nước THĐ ngoài việc được bồi thường theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ; Thứ hai, việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật. Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: Thứ nhất, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp THĐ nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; THĐ ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; Thứ ba, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp THĐ ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; Thứ tư, hỗ trợ khác. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước THĐ nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh. Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi Nhà nước THĐ mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi còn trong độ tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. 11
- Căn cứ vào kế hoạch SDĐ hằng năm của cấp huyện, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ. Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm được lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong quá trình lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện phải tổ chức lấy ý kiến và có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến của người có đất thu hồi. 1.2. Phân biệt giữa thu hồi đất với trưng thu, trưng dụng đất “THĐ hay trưng dụng đất đều dẫn đến hệ quả pháp lý là làm thay đổi quan hệ pháp luật QSDĐ. Theo đó, QSDĐ sẽ được chuyển dịch từ phía người SDĐ sang NN bằng các thủ tục hành chính nhất định. Tuy nhiên, xét về bản chất thì giữa THĐ và trưng thu, trưng dụng đất là hoàn toàn khác nhau” [33, tr 78]. Về khái niệm Từ sau năm 1975 đến nay, việc trưng thu, trưng mua chủ yếu thực hiện trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào quy định riêng về cơ chế trưng thu đất. Do đó, có thể hiểu khái niệm trưng thu đất: Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do QP-AN và vì lợi ích quốc gia, NN lấy đất và có bồi thường theo thời giá thị trường cho cá nhân, tổ chức bị trưng thu đất. Trưng dụng cũng được định nghĩa là việc cơ quan NN tạm lấy đi (vật hoặc người thuộc quyền sở hữu hay quyền quản lý của tư nhân, tập thể hay cơ quan, xí nghiệp cấp dưới) để sử dụng trong một thời gian nào đó, một công việc nào đó, do yêu cầu đặc biệt. Hoặc “Trưng dụng là biện pháp hành chính cho phép một cơ quan NN với điều kiện có bồi thường, buộc tư nhân phải cho NN sử dụng một động sản hay bất động sản trong một thời gian nhất định”. Do đó, có thể hiểu, trưng dụng đất là việc NN điều chuyển quyền sử dụng một diện tích đất trong một giai đoạn tạm thời từ người SDĐ hợp pháp sang NN một cách bắt buộc theo thủ tục hành chính không do lỗi của người SDĐ. 12
- Thu hồi đất là việc NN ra quyết định hành chính để thu lại QSDĐ hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” (khoản 5 điều 4 Luật Đất đai năm 2003). Về cơ sở pháp lý Theo Điều 23, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008, trưng dụng tài sản là “việc NN sử dụng có thời hạn tài sản của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do QP-AN và vì lợi ích quốc gia. Trong đó, đất đai là tài sản thuộc đối tượng trưng dụng” [41]. Đồng thời, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm 2008 cũng làm rõ cơ chế trưng dụng đất đai. Trưng dụng đất chỉ được thực hiện khi NN cần huy động một diện tích nhất định, theo mục đích nhất định, theo mục đích nhất định đã được pháp luật quy định mà mọi biện pháp huy động khác đều không thực hiện được. Như vậy, trưng dụng đất là biện pháp cuối cùng cần được cân nhắc khi NN cần sử dụng một diện tích đất nhất định của tổ chức, cá nhân SDĐ. Thu hồi đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Theo đó, có 4 trường hợp cụ thể khác nhau, NN sẽ tiến hành việc THĐ. Có thể nhận thấy, các trường hợp THĐ đa dạng hơn nhiều so với trưng dụng đất. Trưng dụng đất chỉ xuất phát từ lý do QP-AN, lợi ích quốc gia, công cộng; THĐ còn có thể do hành vi vi phạm của người SDĐ hay lý do đương nhiên như hết thời hạn SDĐ, người SDĐ tự nguyện trả lại đất. Bên cạnh đó, cùng mục đích chuyển dịch QSDĐ để NN sử dụng vào mục đích QP-AN, lợi ích quốc gia, công cộng nhưng nguyên nhân sâu xa của việc trưng dụng đất là xuất phát từ các sự kiện tự nhiên, những tình huống không lường trước được, còn THĐ được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch SDĐ. Về thẩm quyền Thẩm quyền THĐ được quy định một cách logic với thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ. Theo đó, thẩm quyền THĐ thuộc về UBND cấp huyện và cấp tỉnh. Việc phân định thẩm quyền THĐ dựa trên cơ sở là chủ thể SDĐ. 13
- Trưng dụng, trưng thu đất được giao cho UBND cấp tỉnh, bên cạnh đó thẩm quyền trưng dụng đất còn được trao cho “Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Công thương”. [41] Mục đích trưng thu, trưng dụng đất và thu hồi đất Nếu như trưng thu đất nhằm mục đích bảo vệ QP-AN và lợi ích quốc gia thì trưng dụng đất nhằm ngăn ngừa, ngăn chặn các nguy cơ chiến tranh, thiên tai; để phục vụ cho nhu cầu SDĐ của NN trong trường hợp thật cần thiết vì lý do QP-AN như: Khi đất nước trong tình trạng chiến tranh hoặc trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; an ninh quốc gia có nguy cơ bị đe doạ; mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia có khả năng bị xâm phạm hoặc cần được tăng cường bảo vệ; phải đối phó với nguy cơ hoặc để khắc phục thảm hoạ do thiên tai, dịch bệnh gây ra trên diện rộng hoặc nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ và tài sản của nhân dân, tài sản của NN. Thu hồi đất: Nhằm thực hiện quy hoạch tổng thể (Ví dụ: THĐ nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp ) vì lợi ích kinh tế là chính. Bên cạnh đó, có một số trường hợp NN THĐ đương nhiên như: Cá nhân được NN giao QSDĐ chết mà không có thừa kế, người SDĐ tự nguyện trả lại đất hoặc các trường hợp THĐ do vi phạm các quy định về SDĐ. (Ví dụ: SDĐ không đúng mục đích, sử dụng không hiệu quả hoặc người sử dụng cố ý hủy hoại đất, ). 1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Việc bồi thường, hỗ trợ khi NN THĐ là một trong những chính sách của NN ta nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ và cũng đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước. Trên bình diện chính trị, việc bồi thường cho người có đất bị thu hồi sẽ góp phần gián tiếp vào việc duy trì sự ổn định chính trị cũng như trật tự an toàn xã hội. Nước ta là một nước nông nghiệp với khoảng 70% dân số là nông dân, đất đai không chỉ là nơi ở mà còn là tư liệu sản xuất của nhân dân, chính vì vậy mà vấn 14