Luận văn Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – chi nhánh Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – chi nhánh Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_bao_lanh_cua_ngan_hang_tu_thuc_tien_ng.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – chi nhánh Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH ANH TUẤN PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH ANH TUẤN PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Trần Đình Hảo Hà Nội, năm 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Học viên Đinh Anh Tuấn
- LỜI CẢM ƠN Trong nền kinh tế thị trường hoạt động của các ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng, góp phần hỗ trợ và thúc đẩy kinh tế của một quốc gia phát triển Hoạt động của các NHTM đa dạng và phong phú với nhiều chức năng khác nhau. Cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau để hổ trợ cho các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động có hiệu quả. Bảo lãnh ngân hàng là một loại hình dịch vụ trong các nghiệp vụ tại ngân hàng. Bên cạnh những lợi ích mà loại hình dịch vụ này đem lại thì cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, chanh trấp khi phát sinh. Đề tài "Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – chi nhánh Đà Nẵng" là sự thể hiện nhận thức, tiếp thu từ hoạt động thực tiễn trong hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần quân đội - chi nhánh Đà Nẵng nói riêng và ngành ngân hàng nói chung tại thành phố Đà Nẵng và kiến thức của bản thân qua 02 năm học tập tại Học viện Khoa học Xã hội được các thầy cô hướng dẫn và giảng dạy tận tình. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo PGS.TS. Trần Đình Hảo đã tận tình hỗ trợ, chỉ dẫn và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành công việc nghiên cứu khoa học của mình. Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội và các thầy cô giáo trong Bộ môn luật kinh tế đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học. Học viên Đinh Anh Tuấn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG 6 1.1. Khái quát về bảo lãnh của ngân hàng 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng 22 CHƢƠNG. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG 28 2.1. Pháp luật hiện hành về bảo lãnh của ngân hàng thương mại 28 2.2. Khái quát một số đặc điểm của Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Đà Nẵng 40 2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo lãnh tại MBĐN 45 CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG 65 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – Chi nhánh Đà Nẵng 65 3.2. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và thực thi pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – Chi nhánh Đà Nẵng 66 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự năm 2005 BLNH : Bảo lãnh ngân hàng MB : Ngân hàng TMCP Quân đội MBĐN : Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Đà Nẵng NHNN : Ngân hàng nhà nước Việt Nam NHTM : Ngân hàng thương mại QPPL : Quy phạm pháp luật
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng 2.1. Báo cáo tài chính từ năm 2012 - 2015 43 Bảng 2.2. Báo cáo số dư bảo lãnh từ năm 2012 - 2015 44
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động bảo lãnh ngân hàng (BLNH) là một hoạt động ngân hàng, mang tính phổ biến tại các quốc gia trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, hoạt động BLNH góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho các chủ thể nói chung và giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế do nó tạo ra sự tin tưởng cho các bên giao kết hợp đồng, qua đó mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia và cho nền kinh tế nói chung. Tại Việt Nam, hoạt động BLNH chính thức được quy định trong Quyết định số 192/NH-QĐ ngày 17/09/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam về bảo lãnh, tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Từ đó đến nay, hệ thống pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động BLNH nói riêng luôn có sự kế thừa và phát triển. Hiện nay, hoạt động BLNH được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Đạo luật này cùng với các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo thành khung pháp luật điều chỉnh hoạt động BLNH, từng bước đưa hoạt động BLNH thực hiện đúng quy định của pháp luật, tạo niềm tin cho các chủ thể đối với các ngân hàng nói chung và các đối tác giao kết hợp đồng nói riêng và chế định bảo lãnh ngân hàng ngày càng được hoàn thiện. Hoạt động của các NHTM không chỉ dừng lại ở việc huy động vốn và cho vay mà còn thực hiện hàng loạt các hoạt động khác như cho thuê tài chính, cung cấp dịch vụ, trong đó hoạt động bảo lãnh ngân hàng được xem là một trong những hoạt động hiệu quả mang lại lợi nhuận cao cho các NHTM cũng như đối với sự phát triển của cả nền kinh tế. Cùng với quá trình hội nhập, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), vai trò của các ngân hàng thương mại về việc thực hiện bảo lãnh đã góp phần không nhỏ trong quá trình thúc đẩy các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại trong và ngoài nước được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu 1
- quả. Điều đó thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động bảo lãnh, giúp cho các tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ các điều kiện tham gia hàng loạt các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại, theo yêu cầu của bên đối tác. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, bảo lãnh của NHTM là một trong những hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, đối với sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân nói riêng. Nó được các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tin tưởng và sử dụng ngày càng rộng rãi, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giao dịch dân sự, thương mại được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động bảo lãnh của các NHTM vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập, chưa phát huy được hiệu quả tối ưu trong thực tiễn áp dụng. Nguyên nhân của bất cập được lí giải từ nhiều góc độ. Cụ thể, những quy định pháp luật còn chứa đựng nhiều bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn; pháp luật về bảo lãnh không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các loại giao dịch mới xuất hiện; trở ngại trong thực tiễn áp dụng; hay từ chính biện pháp triển khai thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng TMCP Quân Đội – CN Đà Nẵng nói riêng. Để luận giải cho vấn đề này và đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn áp dụng, đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh phát huy hiệu quả trong đời sống, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng”, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành luật kinh tế của mình. Đề tài có tính cấp thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo lãnh của NHTM là một hình thức đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, xuất hiện, tồn tại và phát triển song song với hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại trong một khoảng thời gian khá dài. Vì vậy, trong thực tiễn nó không còn là một vấn đề xa lạ, mới mẻ. Do đó, bảo lãnh ngân hàng là một trong những đề tài được 2
- nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu, trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như "Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng" của Nguyễn Thành Long, Đại học Luật Hà Nội, năm 1999, "Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam", của Bùi Vân Hằng, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008, "Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội", của Vũ Hồng Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009 , Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế với đề tài pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng, nhất là gắn với Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Đà Nẵng. Do đó, đề tài này không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua đề tài, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về bảo lãnh của NHTM với tư cách là một hình thức bảo đảm nghĩa vụ mà chủ thể bảo lãnh phải là các NHTM, từ đó rút ra bản chất pháp lý của bảo lãnh NHTM. Đồng thời, trên cơ sở kiến thức lý luận, tác giả đi vào phân tích những quy định của pháp luật liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật về bảo lãnh của NHTM từ thực tiễn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng. Qua đó, đưa ra những giải pháp và cơ chế thực hiện giải pháp, góp phần hoàn thiện biện pháp bảo lãnh của các NHTM. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích như trên, đề tài đi vào nghiên cứu các vấn đề tổng quan về pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động bảo lãnh của NHTM. Làm sáng tỏ những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xác lập, thực hiện và giải quyết tranh chấp phát sinh từ bảo lãnh của ngân hàng thương mại. Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh ngân hàng; nghiên cứu đánh giá về thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng hiện nay; nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi 3
- nhánh Đà Nẵng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật về bảo lãnh ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Pháp luật hiện hành liên quan hoạt động bảo lãnh của NHTM. - Thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xác lập, thực hiện và giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến bảo lãnh của NHTM từ thực tiễn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu quy định pháp luật về vấn đề bảo lãnh của NHTM, tức bên bảo lãnh là các NHTM. Ngoài ra, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ phân tích những quy định pháp luật liên quan đến một số loại bảo lãnh của NHTM thường gặp, khảo sát thực trạng và đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh của NHTM mà không đi vào phân tích tất cả các loại bảo lãnh của NHTM, và cũng không xem xét đến hoạt động bảo lãnh thông thường trong lĩnh vực dân sự. Các số liệu nghiên cứu của đề tài tập trung từ năm 2012 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trên nền tảng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu để luận giải vấn đề như, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu dựa trên cơ sở các bài viết, công trình nghiên cứu, pháp luật nhà nước. Đồng thời, tiến hành đánh giá, chứng minh những vấn đề hợp lý và chưa hợp lý giữa những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn của vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy 4
- định về bảo lãnh của NHTM, bổ sung những giải pháp tích cực góp phần từng bước hoàn thiện cơ chế bảo lãnh của NHTM. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Với kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả mong muốn có thể góp phần vào việc nâng cao nhận thức về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM đối với những cá nhân, tổ chức có quan tâm. Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh của NHTM cũng như kích thích các giao dịch dân sự, thương mại được xác lập nhanh chóng, hiệu quả trong thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu với 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn Ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng 5
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG 1.1. Khái quát về bảo lãnh của ngân hàng 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại về bảo lãnh của ngân hàng - Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Trong đời thường, khi nói đến bảo lãnh người ta thường cho rằng bảo lãnh là việc một người đứng ra bảo đảm trước một người khác về thực hiện nghĩa vụ của một người thứ ba (người được bảo lãnh). Dưới góc độ này, bảo lãnh được coi là hành vi của một người bằng uy tín của mình cam kết trước một người (người có quyền) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho một người khác (người có nghĩa vụ) nếu người này không thực hiện đúng nghĩa vụ với người có quyền. Có thể hiểu một cách chung nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361 BLDS năm 2005). Điều 365 BLDS năm 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” Như vậy, các quy định hiện hành của nước ta về bảo lãnh là kế thừa các quy định của Pháp lệnh hợp đồng dân sự kết hợp với quy chế nghĩa vụ dự bị. Sự kết hợp này cũng xuất phát từ việc quy định tính chất tự nguyện, thỏa thuận là nguyên tắc cơ bản trong các quan hệ pháp luật dân sự ở nước ta. Trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng, bảo lãnh cũng là biện pháp bảo đảm thực 6
- hiện nghĩa vụ theo đó các ngân hàng (hoặc các TCTD) đứng ra bảo đảm (cam kết) trước người có quyền rằng người có nghĩa vụ (con nợ) sẽ thực hiện nghĩa vụ (trả nợ). Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện thì ngân hàng sẽ trả thay. Tuy thừa nhận BLNH là loại hành vi bảo đảm do các ngân hàng thực hiện, nhưng tùy theo cách tiếp cận và điều kiện cụ thể của mỗi nước, mỗi tác giả, đến nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về BLNH. Các quan điểm khác nhau này đều tồn tại ở cả Việt Nam và nước ngoài. Từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước, ở các nước, bảo lãnh do các ngân hàng nói chung, NHTM nói riêng thực hiện đã tương đối phát triển. Điều 5 Bộ luật Thương mại Mỹ quy định nghĩa vụ của người phát hành tín dụng thư hoặc bảo lãnh độc lập là sẽ thanh toán chứng từ xuất trình theo đúng tiêu chuẩn thực hành. Điều này còn thể hiện ở Bản quy tắc số 325 về bảo lãnh hợp đồng (ban hành năm 1978), Bản quy tắc số 458 về bảo lãnh theo yêu cầu (ban hành năm 1992) do Phòng thương mại Quốc tế Pari ban hành. Trong các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (URDG-ICC458) của Phòng thương mại Quốc tế ICC quy định: Bảo lãnh độc lập là bất cứ bảo lãnh cam kết hay cam kết thanh toán, dù được gọi hay miêu tả như thế nào, của ngân hàng, công ty bảo hiểm hay pháp nhân hoặc thể nhân bằng văn bản thanh toán một số tiền khi được xuất trình theo đúng quy định cam kết, bản đòi tiền và các chứng từ khác. Khi nghiên cứu các tập quán quốc tế về bảo lãnh, chúng ta còn biết đến thuật ngữ “ bảo lãnh trả tiền ngay” (hay “ bảo lãnh theo yêu cầu”- demand guarantee). Tại Điều 2 URDG 758 (bản thay thế URDG 458), đưa ra định nghĩa như sau: “ Bảo lãnh trả tiền ngay hay bảo lãnh dù được gọi tên hoặc mô tả thế nào, có nghĩa là một cam kết được phát hành làm cơ sở cho việc thanh toán theo một yêu cầu đòi tiền phù hợp” [34]. URDG 758 cũng mô tả một yêu cầu đòi tiền được coi là phù hợp khi nó được xuất trình phù hợp với: (i) các điều khoản của bảo lãnh, (ii) các quy tắc trong URDG với điều kiện các quy tắc này nhất quán với các điều khoản của bảo lãnh, và (iii) nếu trong bảo lãnh hoặc URDG không có quy định thì phải phù hợp với thông lệ bảo lãnh trả tiền ngay theo chuẩn mực quốc tế. So với URDG 458, 7
- URDG 758 đã bổ sung thêm các trường hợp thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi nội dung của cam kết bảo lãnh không tính đến nhưng vẫn phù hợp với các điều khoản tại URDG và thực hiện thông lệ quốc tế. Việc bổ sung này là nhằm bảo vệ cho quyền lợi của người thụ hưởng tránh việc bên bảo lãnh viện cớ nội dung cam kết bảo lãnh không quy định cụ thể để từ chối thanh toán. Ở nước ta, bảo lãnh của ngân hàng nói chung đã được đề cập trong các văn bản pháp luật. Trước đây, bảo lãnh ngân hàng thực chất chỉ do Ngân hàng nhà nước thực hiện và được sử dụng như công cụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước vay vốn nước ngoài để sản xuất, kinh doanh. Bảo lãnh của NHTM chỉ xuất hiện khi các NHTM ra đời giai đoạn sau này. Nhằm luật hóa khái niệm về BLNH, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010 quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”. Ngoài ra, Điều 3 khoản 1 của Thông tư số: 07/2015/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước quy định về bảo lãnh ngân hàng cũng ghi nhận: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh.”. Khái niệm BLNH nêu trên nhấn mạnh đến hai khía cạnh của BLNH. Đó là : Thứ nhất, BLNH là một hành vi. Đó là hành vi cam kết của TCTD về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho khách hàng nếu nghĩa vụ đó bị vi phạm. Thứ hai, BLNH là một hợp đồng. Đó là hợp đồng cấp bảo lãnh giữa TCTD với khách hàng trong đó nhấn mạnh yếu tố thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và hoàn trả. So sánh hai khái niệm : Bảo lãnh và BLNH theo quy định của pháp luật Việt 8
- Nam, chúng ta thấy nếu như bảo lãnh nói chung được xác định là một biện pháp (giao dịch) bảo đảm thì BLNH vừa được xác định là biện pháp bảo đảm nhưng cũng vừa được xác định là một hình thức cấp tín dụng. Như vậy, ở Viêt Nam, BLNH được coi là một dạng đặc biệt của bảo lãnh, nó do các ngân hàng, TCTD thực hiện và mang tính độc lập so với hợp đồng cơ sở (hợp đồng được giao kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh). Rõ ràng, khi thực hiện cam kết về cấp bảo lãnh, các TCTD phải chịu một mức độ rủi ro nhất định. Đó là khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ với bên có quyền thì TCTD bảo lãnh phải thực hiện thay, ngân hàng bảo lãnh phải xuất quỹ của mình và khoản trả thay này trở thành một khoản nợ. Việc khách hàng phải nhận nợ và thanh toán cho TCTD bao gồm cả khoản nợ TCTD đã trả thay và khoản nợ lãi hoặc số tiền nhất định theo thỏa thuận. Điều này cho thấy sự phù hợp với thực tế hơn so với khái niệm trước đây, quy định khách hàng chỉ hoàn trả lại cho TCTD số tiền đã được trả thay. Cho nên, có thể nói bảo lãnh NHTM vừa là biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, vừa là một hình thức cấp tín dụng. - Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng thương mại Thứ nhất, về cơ bản thì BLNH giống với hoạt động bảo lãnh thông thường hay các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng ở chỗ cùng có 3 bên tham gia quan hệ bảo lãnh, đó là bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, nếu bên bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh thông thường có thể là cá nhân hay tổ chức cam kết thực hiện bảo lãnh thì bên bảo lãnh trong quan hệ BLNH chỉ có một loại chủ thể duy nhất là các tổ chức tín dụng (trong đó NHTM là cơ bản) được thực hiện các hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh nói chung, của bên nhận bảo lãnh (chủ nợ) nói riêng. Theo tác giả Lê Nguyên (2013), Về bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng, NXB Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh, [15, tr.44-45]. Có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này : Quan điểm thứ nhất cho rằng : bảo lãnh là cam kết một bên, hiệu lực ràng 9
- buộc của cam kết này bắt đầu từ khi ngân hàng phát hành thông báo cam kết thanh toán cho người nhận bảo lãnh. Thông báo này là nội dung của bảo lãnh và kèm theo những điều kiện của bảo lãnh. Do vậy, sự chấp thuận của người nhận bảo lãnh là không cần thiết. Quan điểm thứ hai cho rằng : Bảo lãnh chỉ bắt đầu có hiệu lực khi có được sự đồng ý của cả hai bên : ngân hàng phát hành bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Quan điểm này cũng thừa nhận việc chấp nhận “ ngầm hiểu”. Việc người nhận bảo lãnh không phản đối những điều khoản của bảo lãnh hay việc người nhận bảo lãnh yêu cầu thanh toán bảo lãnh là hoạt động chấp nhận (ngầm hiểu) bảo lãnh của người nhận bảo lãnh. Nhưng đứng về khía cạnh của ngân hàng phát hành bảo lãnh thì trách nhiệm bảo lãnh của nó bắt đầu từ lúc nó phát hành bảo lãnh. Trong thực tiễn pháp lý, quan điểm coi bảo lãnh là một quan hệ hợp đồng là tư tưởng pháp lý phổ biến. Tác giả, Võ Đình Toàn (2002), “Một số vấn đề về quan hệ bảo lãnh ngân hàng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí luật học (3), [31, tr.42], cho rằng: “BLDS xác định các bên có thể thỏa thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Với nội dung như vậy, BLDS đã thể hiện rõ là quan hệ bảo lãnh phát sinh trên cơ sở cam kết bảo lãnh mà bên bão lãnh đưa ra thì không nên xem đó chỉ là cam kết đơn phương mà về bản chất pháp lý đó là văn bản dự thảo hợp đồng, nếu không được bên phát sinh trên cơ sở thỏa thuận từ việc đưa ra cam kết của người bảo lãnh. Sự ghi nhận yếu tố thỏa thuận này chứng tỏ quan hệ bảo lãnh không phát sinh mang tính đơn phương bằng cam kết của riêng bên bảo lãnh”. Trên cơ sở đó, tác giả Võ Đình Toàn đã kết luận rằng: “Sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ bảo lãnh. Đối với cam kết bảo lãnh mà bên bảo lãnh đưa ra thì không nên xem đó chỉ là cam kết đơn phương mà về bản chất pháp lý đó là văn bản dự thảo hợp đồng, nếu không được bên nhận bảo lãnh chấp nhận thì quan hệ bảo lãnh không được thiết lập‟‟ Thứ hai, bảo lãnh NHTM là nghiệp vụ được thực hiện trên cơ sở chứng từ. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ, trong quá trình tham gia quan hệ bảo lãnh, NHTM 10
- đồng thời thiết lập hợp đồng dịch vụ cấp bảo lãnh (với khách hàng đề nghị bảo lãnh) và hợp đồng bảo lãnh (với bên nhận bảo lãnh). Cả hai loại hợp đồng này đều bắt buộc thiết lập bằng văn bản, ghi nhận các điều khoản, nội dung thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh. Tính chứng từ còn thể hiện ở cam kết bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh phải được lập thành văn bản: Văn bản bảo lãnh có thể là thư, hợp đồng bảo lãnh, điện, Telex hoặc ký hậu trên các giấy tờ có giá như hối phiếu, lệnh phiếu, giấy nhận nợ (trong trường hợp giấy tờ có giá quy định phải có sự bảo lãnh của ngân hàng); nội dung văn bản bảo lãnh phải thể hiện được sự cam kết của ngân hàng đối với bên nhận bảo lãnh. Mặt khác, tính chứng từ còn thể hiện ở chỗ, bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh xuất trình được các chứng từ hợp lệ, trùng khớp với nội dung được ghi nhận trên cam kết bảo lãnh. Do đó, tính chứng từ không chỉ được xem là cơ sở pháp lý của quan hệ bảo lãnh, mà còn là cơ sở để NHTM xem xét thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và thực hiện quyền truy đòi đối với bên được bảo lãnh sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ bảo lãnh. Thứ ba, BLNH mang tính độc lập. Trong một nghiệp vụ, BLNH thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập : Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (đây được xem như là hợp đồng cơ sở, hợp đồng chính), hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh (nếu có). Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng : Nghiệp vụ bảo lãnh độc lập tương đối với hợp đồng chính. Mục đích của BLNH là bồi hoàn cho bên nhận bảo lãnh những thiệt hại từ việc không thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng của người được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh nhưng nó vẫn có một sự độc lập tương đối với hợp đồng chính. Việc thanh toán bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện ghi trong cam kết bảo lãnh của ngân hàng mà không căn cứ vào những quyền kháng nghị phát sinh trong hợp đồng chính. Tính độc lập còn thể hiện ở trách nhiệm thanh toán của bên bảo lãnh. Trách 11
- nhiệm thanh toán của bên bảo lãnh hoàn toàn độc lập với quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên được bảo lãnh. Bên bảo lãnh không thể đưa ra những lý do thuộc về quan hệ giữa họ với người được bảo lãnh để từ chối hoặc trì hoãn việc thanh toán nếu như chứng từ thanh toán do bên nhận bảo lãnh xuất trình hoàn toàn phù hợp với điều khoản và điều kiện quy định tại cam kết bảo lãnh. Ví dụ : ngân hàng bảo lãnh không thể đưa ra các lý do như nội dung hợp đồng cấp bảo lãnh không chặt chẽ, hay người được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với ngân hàng bảo lãnh để từ chối thanh thoán bảo lãnh. Thứ tư, BLNH là giao dịch không thể đơn phương huỷ ngang. Tính chất không thể hủy ngang của BLNH thể hiện ở chỗ sau khi cam kết bảo lãnh đã được phát hành hợp lệ thì người bảo lãnh không có quyền tuyên bố đơn phương hủy bỏ cam kết bảo lãnh trừ khi nó được sự đồng ý của người nhận bảo lãnh. Đặc điểm này của BLNH được các học giả thừa nhận rộng rãi và được quy định tại Điều 4 URDG 758 : “ Bảo lãnh không thể hủy bỏ sau khi phát hành thậm chí nếu nó không tuyên bố như vậy. Người thụ hưởng có thể xuất trình yêu cầu từ khi bảo lãnh được phát hành hoặc ngay khi nhận được bảo lãnh ‟‟. Có thể nói, BLNH là một hợp đồng mang tính độc lập và không thể đơn phương hủy ngang, được giao kết giữa người bảo lãnh là các ngân hàng, TCTD với người nhận bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh (là khách hàng của ngân hàng, TCTD) đối với người nhận bảo lãnh, theo đó người bảo lãnh cam kết thanh toán một khoản tiền xác định theo thỏa thuận khi người nhận bảo lãnh xuất trình các chứng từ phù hợp với điều khoản và trong thời hạn có hiệu lực của cam kết bảo lãnh. Tuy nhiên, đặc điểm này chưa được phản ánh trong pháp luật thực định Việt Nam quy định về bảo lãnh nói chung và quan hệ BLNH nói riêng. Do đó, “chế định BLNH trong pháp luật Việt Nam thiếu sự tương đồng với pháp luật các nước, cũng như pháp luật quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh”. Thứ năm, về biện pháp thiết lập quan hệ bảo lãnh NHTM. Trong quy định của pháp luật dân sự, bảo lãnh tồn tại dưới hai dạng là bảo lãnh đối vật và bảo lãnh đối 12
- nhân. Trong thực tiễn áp dụng, quan hệ bảo lãnh thường được thiết lập bằng biện pháp bảo lãnh đối vật, chứ ít khi tồn tại biện pháp bảo lãnh đối nhân, bởi bảo lãnh mà không có tài sản để đảm bảo thì không có gì làm chắc chắn, thậm chí còn không được bên nhận bảo lãnh chấp nhận. Tuy nhiên, đến BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, pháp luật ghi nhận bảo lãnh là biện pháp đối nhân chứ không thừa nhận biện pháp bảo lãnh đối vật. Trường hợp bên bảo lãnh dùng tài sản thuộc sở hữu của mình đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh, được xem là một biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thông qua hình thức cầm cố, hoặc thế chấp, hoặc ký quỹ, Vì tính chuyên nghiệp và uy tín nên các NHTM có thể thực hiện bảo lãnh bằng hình thức bảo lãnh đối nhân, mà không cần phải dùng bất cứ tài sản nào để bảm bảo cho nghĩa vụ được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Điều này đã góp phần tạo điều kiện cho các quan hệ bảo lãnh được thiết lập và thực hiện một cách nhanh chóng, hạn chế về mặt thủ tục bàn giao tài sản đảm bảo. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, đối với bên nhận bảo lãnh, chủ nợ (bên nhận bảo lãnh) bên cạnh người mắc nợ chính (bên được bảo lãnh) còn có một người mắc nợ thứ hai (NHTM bảo lãnh) không có tài sản đảm bảo. Đối với tài sản của NHTM, bên nhận bảo lãnh chỉ thực hiện quyền của một chủ nợ không có đảm bảo, việc bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ không chú trọng đến biện pháp xử lý tài sản thuộc sở hữu của bên bảo lãnh. Ngược lại, đối với hoạt động bảo lãnh trong dân sự, việc bảo lãnh thường gắn liền với việc bên bảo lãnh chuyển giao cho bên nhận bảo lãnh một hoặc nhiều tài sản thuộc sở hữu để đảm bảo cho nghĩa vụ được bảo lãnh. Việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị tài sản đảm bảo cho bảo lãnh trong trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh. Trong BLNH, không phải mọi trường hợp quan hệ bảo lãnh chỉ tồn tại gồm 3 bên: NHTM bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và khách hàng được bảo lãnh, trong một số trường hợp còn xuất hiện bên bảo lãnh của khách hàng được NHTM bảo lãnh, gọi là bên bảo lãnh đối ứng. Bên bảo lãnh đối ứng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ trả 13
- nợ thay cho bên được bảo lãnh đối với NHTM bảo lãnh (bên xác nhận bảo lãnh) chứ không phải đối với bên nhận bảo lãnh (chủ nợ của bên được bảo lãnh). Cho nên, việc thiết lập quan hệ bảo lãnh giữa Bên bảo lãnh đối ứng với NHTM bảo lãnh không có liên quan gì đến bên nhận bảo lãnh. Do đó, chỉ có NHTM bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh đối ứng thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh không có quyền yêu cầu bên bảo lãnh đối ứng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, dù BLNH được thiết lập dưới hình thức bảo lãnh đơn giản hay có sự tham gia của bên bảo lãnh đối ứng thì quan hệ BLNH vẫn là hình thức bảo đảm đối nhân. Ở đây chỉ xem xét trong mối quan hệ giữa NHTM bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh, hoặc giữa NHTM bảo lãnh với bên bảo lãnh đối ứng, chứ không xem xét mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh với NHTM bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng. - Phân loại bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việc phân loại bảo lãnh của Ngân hàng thương mại tùy thuộc tùy thuộc vào các tiêu chí phân loại, cụ thể : + Theo đối tượng bảo lãnh : Gồm hai loại là bảo lãnh trong nước (Bảo lãnh đối nội) và bảo lãnh ngoài nước (Bảo lãnh đối ngoại). Bảo lãnh trong nước là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh ở trong phạm vi một quốc gia. Các hình thức phổ biến là : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước được thực hiện qua việc ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Bảo lãnh ngoài nước là loại hình bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài và thường sử dụng dưới một số trong các hình thức sau : Mở thư tín dụng mua hàng trả chậm, ký bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, phát hành thư bảo lãnh, lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ + Theo hình thức sử dụng : Bảo lãnh vô điều kiện : Còn được gọi là bảo lãnh theo yêu cầu (Demand Guarantee). Đây là loại bảo lãnh trong đó việc thanh toán sẽ được thực hiện ngay 14