Luận văn Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và giải pháp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_xa_hoi_tu_nguyen_thuc_trang_v.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và giải pháp
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƯƠNG THẢO PHƯƠNG PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN - THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƯƠNG THẢO PHƯƠNG PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI Tù NGUYÖN - THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dương Thảo Phương
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 7 1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 7 1.2. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 14 1.3. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 16 1.4. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 19 1.4.1. Chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện 19 1.4.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện 23 1.4.3. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện 26 1.4.4. Quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện 28 Kết luận chương 1 33 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM 34 2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 34 2.2. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 40 2.2.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện 40
- 2.2.2. Về mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện 42 2.2.3. Về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện 47 2.2.4. Về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện 55 2.3. Thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay 59 2.3.1. Những kết quả đạt được 59 2.3.2. Một số hạn chế 66 2.3.3. Nguyên nhân của sự hạn chế 69 Kết luận chương 2 71 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM 72 3.1. Các yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 72 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cần phù hợp với định hướng phát triển kinh tế, xã hội 72 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cần phù hợp với xu thế hội nhập hóa 73 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cần đa dạng hóa các đối tượng tham gia 74 3.1.4. Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cần xây dựng các quy định linh hoạt 75 3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và các vấn đề đặt ra 76 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện 76
- 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về chế độ của bảo hiểm xã hội tự nguyện 79 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện 81 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 82 3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của người lao động về bảo hiểm xã hội tự nguyện 82 3.3.2. Nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tự nguyện 83 3.3.3. Kết hợp chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện với các chương trình khác 83 3.3.4. Tăng cường hiệu quả công tác tổ chức quản lý 84 3.3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 86 Kết luận chương 3 88 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ILO: International Labour Organization NDT: Nhân dân tệ
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số Tên bảng Trang hiệu bảng Bảng 2.1: Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 61 Bảng 2.2: Số thu bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 63 Bảng 2.3: Số dự toán chi bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 64 Bảng 2.4: Số chi Bảo hiểm xã hội tự nguyện qua các năm 64
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Bảo hiểm xã hội được hình thành từ hàng trăm năm trước đây, là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội đã trải qua một quá trình phát triển và thay đổi cả về mô hình nội dung và hình thức thực hiện, từ chế độ bảo hiểm xã hội đầu tiên được áp dụng là chế độ bảo hiểm khi ốm đau đến nay đã có chín chế độ bảo hiểm trên thế giới, đồng thời đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cũng được mở rộng theo. Một trong những mục tiêu và triết lý của bảo hiểm xã hội là ổn định và phát triển xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản thiết yếu của đời sống con người. Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, trước hết là bảo hiểm xã hội để giúp cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro , đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Trong giai đoạn kinh tế phát triển theo hướng thị trường Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài, chính sách bảo hiểm xã hội cũng chỉ phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước. Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 1995, tại Điều 140 có quy định các loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, hệ thống an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội 1
- phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân. Bảo đảm nhu cầu về an sinh xã hội, trước hết là nhu cầu về bảo hiểm xã hội là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân" [28]. Vì vậy, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với người lao động là hết sức cần thiết. Luật Bảo hiểm xã hội ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007, riêng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu áp dụng cho đối tượng là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi với nam, đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ và không thuộc diện áp dụng của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc [50]. Như vậy, người lao động ở mọi khu vực có quyền lợi trong tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội. Việc triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất 2
- thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hơn 5 năm triển khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ cũng như định hướng của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm lao động của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta là: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý, thực hiện cần hoàn thiện như thế nào. Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và giải pháp” làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo hiểm xã hội tự nguyện đang ngày càng được quan tâm không chỉ trong thực tiễn mà còn với những nhà nghiên cứu khoa học. Một số công trình đã được thực hiện dưới dạng khóa luận tốt nghiệp như “Thực trạng pháp luật bảo hiện xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hồ Thị Hải (thực hiện năm 2010), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Bốn năm thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện”- tác giả Trần Thị Huyền Lê (thực hiện năm 2012) Trong số đó có thể kể các công trình được thực hiện ở cấp độ thạc sỹ như Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thu Hằng (thực hiện năm 2007), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật” của tác giả Hoàng Quốc Đạt (thực hiện năm 2012), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 3
- năm thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Vân Khánh (thực hiện năm 2013). Ngoài ra có các đề tài nghiên cứu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Cơ sở lý luận cho việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện Việt Nam thời gian tới” do Tiến sĩ Nguyễn Tiến Phú làm chủ nhiệm (thực hiện năm 2001); các bài viết “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của TS. Lê Thị Hoài Thu - tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2007. Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó cùng với thực tiễn thực hiện pháp luật nhằm bổ sung thêm vào hệ thống lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện để từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam từ khi có Luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin (tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về bảo hiểm xã hội nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, liệt kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đồng thời vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. 4
- 5. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu đề tài này là xem xét một cách có hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện từ khi được thực thi; đánh giá thực trạng những ưu điểm, nhược điểm về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay. Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn gồm: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện; - Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện; - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới. 6. Điểm mới của Luận văn Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam là một trong những đề tài được không ít các tác giả quan tâm, lựa chọn nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được, luận văn cũng mạnh dạn đóng góp những điểm mới như sau: Thứ nhất, luận văn đã khái quát một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản của bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng như pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam để làm nổi bật lên cơ chế pháp lý điều chỉnh bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta. Thứ hai, luận văn nghiên cứu và đánh giá việc thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện, luận văn khái quát được bức tranh toàn cảnh của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay. Thứ ba, luận văn đưa ra những nhận xét cụ thể về ưu, nhược điểm của 5
- pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trên cơ sở những bất cập, hạn chế, thiếu sót còn tồn tại, luận văn mạnh dạn đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, cũng như giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu Luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện Hệ thống bảo hiểm xã hội lần đầu tiên trên thế giới được hình thành vào giữa thế kỷ XIX là công trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismark. Năm 1893 Thụy Sĩ lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện với cơ chế ba bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, bảo hiểm xã hội đã lan rộng sang các nước giành độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến đầu thế kỷ XX có nhiều nước công nghiệp Châu Âu đã ban hành Luật Bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện được Nhà nước trợ cấp. Bảo hiểm xã hội dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), an toàn xã hội là: Sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng, để đối phó với khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con [34, tr.12]. Theo Điều 2 Công ước số 102 quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1952 của ILO thì các nước thành viên 7
- chịu hiệu lực của Công ước này sẽ phải áp dụng các hình thức hỗ trợ theo quy định. Xã hội ngày càng phát triển thì những rủi ro xã hội có xu hướng gia tăng, dẫn đến nhu cầu về bảo hiểm xã hội của người lao động ngày càng lớn. Trong quá trình lao động, con người luôn chịu sự tác động của các quy luật khách quan và điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Con người có thể gặp những sự cố rủi ro bất thường như lũ lụt, hạn hán, động đất, hỏa hoạn, bệnh tật, thiên tai dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản. Đó là những rủi ro nằm ngoài mong muốn mà con người không thể kiểm soát được. Xuất phát từ những nhu cầu của cuộc sống là đảm bảo thu nhập khi gặp rủi ro, cần sự tương thân tương ái trong cộng đồng mà bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt buộc như một nhu cầu khách quan. Mặt khác, trước khi có bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải người lao động nào ở mọi thành phần kinh tế đều được tham gia bảo hiểm xã hội, mặc dù bản thân họ có nhu cầu. Trong môi trường lao động có nhiều rủi ro, nếu như người lao động ở khu vực chính thức được bảo hiểm xã hội bắt buộc phần nào san sẻ khó khăn thì những người lao động không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc lại không có cơ chế để tự bảo vệ mình một cách phù hợp với điều kiện sống bấp bênh và thu nhập thấp. Chính vì vậy, bên cạnh bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đại bộ phận người lao động trong xã hội. Xem xét về sự tự nguyện cho thấy: Có thể hiểu một cách đơn giản là sự lựa chọn và hành động tự do trong ý thức, bắt nguồn từ những tác nhân được xem xét dựa trên lý trí để đạt đến một mục đích nào đó, theo cách này chủ thể điều khiển được chính bản thân trong những hành động và quyết định của chính mình [52, tr.9]. 8
- Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học:“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm” [57, tr.85]. Nhằm hiểu rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện cần phải phân biệt với loại hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại). Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là có tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này đều mang tính cộng đồng lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận còn mục tiêu hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Về nguyên tắc, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại đều hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản là “có đóng, có hưởng”, mức hưởng được xác định trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ giữa những người tham gia mang tính chất “cộng đồng chia sẻ rủi ro”, “lấy số đông bù số ít” và đều nhằm để bù đắp một phần thu nhập cho đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải rủi ro dẫn đến bị thiệt hại. Tuy nhiên, giữa và bảo hiểm thương mại có sự khác nhau về mục tiêu và phạm vi hoạt động. Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội là thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước nhằm góp phần ổn định và đảm bảo an toàn xã hội. Các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội tác động trực tiếp đến không chỉ bản thân người lao động mà còn tác động cả đến những thành viên trong gia đình của họ. Các cơ quan quản lý nhà 9
- nước về bảo hiểm xã hội, các tổ chức khác có liên quan theo quy định của pháp luật và tổ chức bảo hiểm xã hội có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Vì vậy, mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Còn mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội chỉ diễn ra trong từng quốc gia, chính sách bảo hiểm xã hội trực tiếp liên quan đến người lao động và các thành viên trong gia đình của họ. Cơ sở xây dựng mức đóng, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội dựa vào tiền lương, tiền công và thu nhập của người lao động, cho nên khi có sự thay đổi về chính sách tiền lương, tiền công và thu nhập của người lao động thì mức đóng cũng thay đổi theo. Về mức hưởng, tuy được xác định trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng nhưng cũng được điều chỉnh mức hưởng khi có sự thay đổi chính sách tiền lương, tiền công và sự biến động tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế của từng thời kỳ nhằm đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống của người lao động thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại không chỉ diễn ra trong mỗi quốc gia mà còn sang cả các quốc gia khác. Các Công ty bảo hiểm thương mại có thể hoạt động ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và trên toàn thế giới, các sản phẩm của bảo hiểm thương mại có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hoạt động bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế thị trường và nguyên tắc hạch toán kinh doanh, cho nên các sản phẩm của bảo hiểm thương mại trên thị trường sẽ mang lại lợi nhuận cho nhà cung cấp. Ứng với mỗi sản phẩm và từng mức đóng góp bảo hiểm nhất định thì khi xảy ra rủi ro, người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận một mức quyền lợi tương ứng quy định trước, do vậy quan hệ giữa mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm là quan hệ tương đồng thuần túy, không phụ thuộc hoàn toàn vào 10
- yếu tố thu nhập cao hay thấp của người tham gia mà chủ yếu là việc tham gia bảo hiểm ở mức nào và đóng như thế nào cho sản phẩm bảo hiểm mà người đó tham gia. Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội nhưng đồng thời cũng là một công cụ của Nhà nước tham gia vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý giữa các tầng lớp dân cư. Về cơ bản, nguồn kinh phí để thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội do người sử dụng lao động và người lao động tham gia đóng góp, Nhà nước bảo hộ, đảm bảo cho quỹ bảo hiểm xã hội không bị phá sản đã giảm bớt được “gánh nặng” cho Ngân sách Nhà nước, nhưng Nhà nước vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài và bền vững, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Bảo hiểm thương mại hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng. Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại lý Các nét khác nhau cơ bản giữa Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội: a. Bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp cho xã hội một loại hàng hóa, dịch vụ “an tòan”, trên cơ sở đó, nhà bảo hiểm tìm kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. 11
- Trong khi đó, Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi cơ quan bảo hiểm một tổ chức sự nghiệp của nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã xã hội hội. Nói cách khác, Mối quan hệ của Bảo hiểm thương mại nẩy sinh mang tính chất tự nguyện, còn Mối quan hệ của Bảo hiểm xã hội mang tính chất bắt buộc. b. Nội dung bảo hiểm thương mại rất rộng. Bảo hiểm thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về con người như Bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo các rủi ro của các đối tượng khác như tài sản (công trình, nhà cửa, nhà xưởng, hàng hóa, phương tiện sản xuất kinh doanh và sinh họat) và trách nhiệm (trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm, ); c. Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan trọng của rủi ro, ) và khả năng của Người được bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau. Ngược lại, phí bảo hiểm của Bảo hiểm xã hội được xác định theo thu nhập của người lao động (theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ không theo tình trạng sức khỏe, tuổi thọ của họ. d. Mối quan hệ của Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm trong Bảo hiểm thương mại là có thời hạn và thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân thọ). Ngược lại mối quan hệ giữa Người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn, trọn đời. e. Cộng đồng Người được bảo hiểm của Bảo hiểm thương mại là một “nhóm đóng” có giới hạn trong một thời kỳ nhất định còn đối với Bảo hiểm xã hội đó lại là một “nhóm mở” có đầu vào và đầu ra là các thế hệ người lao động nối tiếp nhau. Dưới góc độ chính trị - xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm trù xã hội, thuộc hệ thống các chính sách xã hội, là biện pháp nhằm góp phần bảo đảm an sinh xã hội. 12
- Dưới góc độ kinh tế: bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập cho người lao động khi phải đối mặt với những rủi ro khách quan không thể lường trước được trong cuộc sống, dẫn đến tình trạng giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm hay những rủi ro khác. Dưới góc độ pháp lý: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức và quản lý mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của bản thân nhằm đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình khi họ gặp phải rủi ro làm giảm mất thu nhập, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Vì vậy có thể thấy, về đối tượng, bảo hiểm xã hội tự nguyện có đối tượng áp dụng rộng rãi theo cơ chế tự nguyện tham gia, mọi người lao động trong xã hội không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, không phân biệt lao động trong khu vực Nhà nước, kinh tế tư nhân hay kinh tế tập thể đều có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Ngoài ra, có thể bao gồm cả người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng nếu họ có nguyện vọng và đảm bảo đầy đủ các quy định của Nhà nước về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Do đó, có thể thấy các dấu hiệu cơ bản của bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm: - Về mức đóng, bảo hiểm xã hội tự nguyện không quy định mức đóng cụ thể, mức đóng và phương thức đóng được quy định linh hoạt, phù hợp với thu nhập và điều kiện thực tế của người tham gia, xuất phát từ đặc điểm của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là người lao động có thu nhập không thường xuyên, bấp bênh. - Về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước. từ hoạt động đầu tư tăng trưởng 13
- quỹ và các nguồn thu nhập hợp pháp khác. Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện không có sự tham gia của người sử dụng lao động. - Về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện: bảo hiểm xã hội không thực hiện tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ thực hiện những chế độ phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu của người lao động là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Tóm lại, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những quy định do Nhà nước ban hành, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và thành viên trong gia đình họ trong trường hợp bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động, mất việc làm. 1.2. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện Thứ nhất, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham gia. Đây là nguyên tắc đặc trưng của bảo hiểm xã hội tự nguyện, khác với bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội người lao động và người sử dụng lao động phải bắt buộc tham gia theo quy định của pháp luật. Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực hiện hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện của người lao động tham gia, họ được quyền tự quyết định tham gia loại hình này. Người tham gia được lựa chọn tham gia hay không tham gia, lựa chọn mức đóng bao nhiêu, đóng bằng phương thức nào phù hợp với điều kiện kinh tế và nhu cầu của bản thân. Chính nguyên tắc này tạo điều kiện cho mọi người lao động trong xã hội tham gia, dù giữa họ có sự chênh lệch về mức thu nhập. Tuy nhiên, sự tự nguyện này còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố mệnh lệnh. Nguyên tắc này được thể hiện ở việc Nhà nước ban hành xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các đạo luật, các luật, các văn bản pháp quy (Nghị định, quyết định ) và các văn bản dưới luật để thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện thống 14
- nhất trong phạm vi quốc gia. Khác với bảo hiểm thương mại, Nhà nước chỉ ban hành những điều, những nội dung cơ bản nhất còn các chính sách, chiến lược cụ thể là do các công ty bảo hiểm thực hiện, đối với bảo hiểm xã hội, Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật rất cụ thể và chặt chẽ các nội dung của chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, các cơ quan bảo hiểm xã hội không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, bất kỳ quy định nào. Thứ hai, các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện phải linh hoạt nhưng trong giới hạn nhất định để đảm bảo cân đối, hài hòa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thường là những người nông dân, người lao động có đời sống và thu nhập bấp bênh. Vì vậy, để tạo điều kiện cho tất cả mọi thành phần lao động có tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì các quy định về bảo hiểm xã hội phải linh hoạt. Sự linh hoạt thể hiện ở mức đóng, phương thức đóng và mức hưởng bảo hiểm. Người lao động có thể lựa chọn phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hàng tháng, hàng quý hoặc sáu tháng một lần. Người tham gia bảo hiểm xã hội thường có quan hệ lao động không ổn định vì vậy, mức đóng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức thu nhập đó. Trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà người lao động sẽ có mức hưởng bảo hiểm tương xứng. Tuy nhiên, ngoài việc quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện một cách linh hoạt, cũng cần có giới hạn nhất định để đảm bảo cân đối, hài hòa lợi ích của các chủ thể. Quy định này nhằm mục đích đảm bảo sự bình đẳng giữa những người tham gia bảo hiểm, tránh sự chênh lệch quá lớn về đời sống của những người cùng hưởng bảo hiểm, tránh gây xáo trộn cho quỹ bảo hiểm xã hội khi phải chi trả bảo hiểm theo mức thu nhập quá cao của người tham gia, nhằm đảm bảo tính khả thi cho việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện. 15